Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn tập LỊCH sử văn MINH THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.88 KB, 17 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
1. VĂN MINH AI CẬP (kiến trúc điêu khắc)

a) Kiến trúc:
Người Ai Cập cổ đại đã xây dựng rất nhiều đền đài, cung điện, nhưng nổi bật nhất
phải kể đến là các kim tự tháp hùng vĩ, vĩnh cửu.
-Người thiết kế ra Kim tự tháp đầu tiên để làm nơi yên nghỉ cho các pharaon là Imhotép.
Kim tự tháp ra đời như thế nào, đến nay vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng mục đích quan
trọng là nơi chôn cất, bảo vệ cho các vị vua chúa khi mất. Nó còn xuất phát từ nhiều quan
niệm trong đó có những quan niệm về “ma quỷ, thần linh” về cõi chết hay “cõi vĩnh
hằng”. Bên cạnh đó, người Ai Cập còn tin tưởng rằng, nếu thi thể được bảo quản tốt nhất
thì linh hồn sẽ tái hòa nhập sau một thời gian nào đó. Đó chính là những lý do kim tự
tháp được xây dựng.
- Người ta đã phát hiện ra khoảng 70 Kim tự tháp lớn nhỏ khác nhau trong đó có 3 Kim
tự tháp nổi tiếng nằm ở gần thủ đô Cairo. Lớn nhất là Kim tự tháp Kêôp ( Kheops ) cao
tới 146m, đáy hinh vuông , mỗi cạnh tới 230m. Đã mấy ngàn năm qua các Kim tự tháp
vẫn sừng sững với thời gian. Vì vậy người Ai Cập có câu “ Tất cả mọi vật đều sợ thời
gian, nhưng riêng thời gian phải nghiêng mình trước Kim tự tháp”.
b) Về điêu khắc:
- Từ thời cổ vương quốc về sau, các vua Ai Cập thường sai tạc tượng của mình và những
người trong vương thất. Tượng thường được tạc trên đá hay đúc bằng đồng.
-Tượng đẹp nhất: tượng bán thân Hoàng hậu Nêféctiti
-Tiêu biểu nhất: tượng nhân sư Xphanh
Tượng nhân sư:
+ Xphanh, người ta thường dịch là con nhân sư, là những bức tượng mình sư tử đầu
người hoặc dê. Những tượng này thường được đặt trước cổng đền miếu.Cá biệt, có đền
miếu có đến 500 tượng như vậy.
+ tiêu biểu nhất là tượng Xphanh ở gần Kim tự tháp Kêphren ở Ghidê.


+Tượng Xphanh này dài 55m, cao 20m, chỉ riêng cái tai đã dài 2m. Đó chính là tượng


của vua Kêphren.
+ Tượng này được tạc vào thế kỷ XXIX TCN theo lệnh của Kêphren.
Ý nghĩa: ca ngợi vua không những có trí tuệ của loài người mà còn có sức mạnh
như sư tử. Ngoài ra, tượng càng làm tăng thêm vẻ uy nghi và huyền bí của khu
lăng mộ làm cho con người khiếp sợ.
2. VĂN MINH LƯỠNG HÀ CỔ ĐẠI ( Nghệ thuật kiến trúc - điêu khắc)
-

Kiến trúc – điêu khắc
Kiến trúc:
Cũng giống như nền văn minh Ai Cập cổ, những thành tựu lớn nhất của nền văn
minh Lưỡng Hà cổ nằm trong lĩnh vực kiến trúc. Các công trình kiến trúc chủ yếu là tháp,
đền, miếu, cung điện, thành, vườn hoa. Vì thiếu đá, gỗ, các công trình kiến trúc của
Lưỡng Hà đều xây dựng bằng gạch nhưng cũng rất to lớn hùng vĩ.
Về vật liệu xây dựng: chủ yếu là đất sét, đất sét dùng làm gạch sống, gạch nung,
gạch lưu ly (gạch men) và vách trộn rơm trong nhà dân gian. Vật liệu kết dính là hồ vôi
và bitum. Đá và gỗ rất hiếm.
Màu sắc và trang trí: Đến 3000 năm trước Công nguyên trở đi, các hình thức trang
trí công trình đã rất phát triển. Gạch ốp lát là đỉnh cao của nghệ thuật trang trí mặt tường
kiến trúc Lưỡng Hà cổ đại. Gạch có màu men óng ánh khác nhau, có độ bền vững tốt.
Nền của những diện tích lớn trang trí bằng gạch lưu ly có màu lam đậm, phù điêu
màu hoặc màu kim nhũ, toàn bộ tạo thành những "tấm thảm" rất ấn tượng.
Tính chất công trình: Sử dụng kết cấu tường chịu lực làm bằng gạch sống xây dày,
bên ngoài ốp gạch nung; sử dụng vòm để khắc phục việc thiếu đá và gỗ nhưng không
gian hẹp và dài. Tường dày, không có cửa sổ, ánh sáng được lấy qua các cửa đi làm rất
cao. Các công trình được xây trên nền cao để chống lụt, hướng công trình thường lệch so
với trục Bắc-Nam : 45 độ.
- Kiến trúc Lưỡng Hà có thể chia thành: kiến trúc tôn giáo, kiến trúc thành luỹ
cung điện.
+ Về kiến trúc tôn giáo: có các đền thờ được xây dựng chủ yếu vào thời kỳ xã hội

nông nghiệp của người Sumer. Đây vừa là nơi thực hiện các hoạt động tín ngưỡng vừa là


nơi tổ chức các sinh hoạt cộng đồng, trao đổi, buôn bán. Đền thờ chính được đặt ở vị trí
cao nhất, các công trình phụ bao bọc xung quanh hình thành các sân hướng về đền thờ
chính, giữa các sân có tường bao bọc. Các công trình tiêu biều của kiến trúc tôn giáo là:
Đền Oval tại Khafaje, đền thờ tại Ishchali, đài chiêm tinh Ziggurat.
+ Kiến trúc thành luỹ, cung điện: nổi bật là thành của Tân Babilon và vườn treo
Babylon
Babylon là thành phố lớn nhất, toạ lạc cạnh con sông Eupharates, phía Tây
Sumeria và phía Nam Assyria. Sự phát triển của thành Babilon thời đại Tân Babilon (thế
kỷ VI trước CN) gắn với sự phát triển của gạch lưu ly. Thành có hai bức tường vây quanh
với chu vi là 88km và 66km, bức thành nội có chu vi 16.5km, cao 25-30m, mặt thành
rộng 7,5m, thành có 250 vọng lâu, 100 cửa bằng đồng và 9 cửa lớn mỗi cái mang tên 1 vị
thần quan trọng. Cánh cổng Ishtar trên dẫn tới thánh đường và ngôi đền của thần Marduk
được ốp bằng gạch men màu xanh sáng, có trang trí những con vật lặp di lặp lại một cách
đơn giản nhưng ấn tượng về nhịp điệu rất mạnh. Thành có hệ thống đường khá hoàn
thiện, nhiều khi được lát đá, hệ thống thiết bị kỹ thuật cao cấp, thoát nước tương đối được
chú trọng.
Hai nửa thành phố được nối liền với nhau bởi 1 cây cầu. Phía Đông là nơi đặt các
cung điện và đền thờ, bao gổm rất nhiều thánh đường. Cạnh đó là Tháp Babel_đỉnh cao
của nghệ thuật kiến trúc. Ngoài ra, khu trung tâm còn có nhiều công trình kiến trúc quan
trọng khác là đền thờ Ishtar de Akkad, vườn treo Babilon... Đây là một trong những công
trình xây dựng đầu tiên có tầm mức vĩ đại được biết đến trong lịch sử loài người.
Vườn treo babylon
Là 1 trong 7 kỳ quan thế giới cổ đại, được vua Nabucodonosor xây dựng như món
quà tặng Hoàng hậu. Công trình có chiều cao bao quát cả một vùng thành phố và khu vực
lân cận. Vườn luôn xanh tốt với nhiều loại cây khác nhau, do những bộ máy thủy lực và
giếng nước, guồng nước bơm nước trên sông lên.
Công trình cao 100m, gồm 4 tầng tháp, mỗi tầng cao 25m. Trên mỗi tầng là một

vườn phẳng, trồng nhiều cây và hoa mang về từ khắp các nơi. Đáy của phần vườn cây


được lát bằng các phiến đá kích thước 5-1,2m đặt khít nhau và gối trên các hàng cột và
tường dày chịu lực.
Điêu khắc:
Nghệ thuật điêu khắc gồm tượng và phù điêu. Những tác phẩm tương đối tiêu biểu
là “bia diều hâu”, “Cột đá Naramxin”, “Bia luật Hammurabi”, các tượng thần
Atxiri...Mặc dù cũng có một số tác phẩm điêu khắc nhưng nhìn chung về mặt này ở
Lưỡng Hà không nổi bật lắm.
3) VĂN MINH Ả RẬP ( Đạo Hồi)
Đạo Hồi
 Quá trình hình thành

- Đạo Hồi tiếng Ả Rập gọi là Ixlam nghĩa là “phục tùng”. Hồi giáo được sáng lập vào
thời trung đại tại bán đảo Ả Rập mà người sáng lập là Môhamet.
- Theo truyền thuyết vào năm 610 Môhamet nhìn thấy một thiến sứ và nói với ông
rằng phải vâng theo vị thần linh duy nhất là đấng Ala “Đấng dạy cho con người những điều
chưa biết”. Từ đó ông đã nhận ra sứ mệnh của mình là truyền giảng tư tưởng đơn thuần. Sự
ra đời của đại Hồi đã làm ảnh hưởng đến những thương gia giàu có nhờ buôn bán ảnh tượng
mà người dân đang tôn sùng, vì thế đã có những âm mưu hãm hại Môhamet. Do vậy,
Môhamet đã phải lánh khỏi Mecca năm 622. Tuy nhiên nhờ chuyến đi này mà giáo thuyết
của ông đã tỏa sáng và đánh dấu cho sự mở đầu của đạo Hồi. Tín đồ đạo Hồi đã lấy năm 622
là năm thứ nhất của lịch Hồi giáo.
- Cuộc lánh nạn của Môhamet đã trở thành huyền thoại và ông đã thu phục nhiều tín
đồ trên đường lánh nạn và trở thành lãnh tụ tôn giáo có nhiều tín đồ.
 Đặc trưng cơ bản của đạo Hồi

- Đạo Hồi là tôn giáo nhất thần tuyệt đối. Đạo Hồi chỉ tôn thời một vị thần duy nhất
đó là chúa Allah. Các tín đồ Hồi Giáo tin rằng ngoài chúa Allah không có vị thần nào khác.

Tất cả những gì ở trên trời dưới đất đều thuộc về Ala. Chúa Alla là người đã tạo dựng nên
vòm trời, chế ngự mặt trời, mặt trăng, tạo ra mặt đất và vạn vật trên Trái đất. Ala cũng sinh ra
loài người và biết linh hồn mỗi người ra sao.
- Moohamet là người được Ala giao cho sứ mệnh truyền bá tôn giáo nên chỉ là sứ giả
của Ala và là tiên tri cua tín đồ. Môhamet cũng công nhận trước ông có nhiều vị tiên tri
nhưng ông là vị tiên tri cuối cùng vĩ đại nhất.


- Hồi giáo tiếp thu nhiều quan niệm của các tôn giáo khác , đặc biệt là đạo Do Thái.
Như là truyền thuyết về sáng tạo thế giới, thiên đường, địa ngục. Do đó một số nghi thức và
tục lệ của đạo Hồi cũng chịu ảnh hưởng như khi cầu nguyện phải hướng về phía thánh địa
Mecca và phải phủ phục trán chạm đất, cấm ăn thịt heo, thịt chó, thịt các con vật đã chết vì
bệnh, thịt đã cúng thần và cấm uống rượu.
- Hồi giáo khác với các tôn giáo khác đó là tuyệt đối không thờ ảnh tượng. Họ quan
niệm rằng Ala tỏa khắp mọi nơi, không có một hình tượng nào có thể thể hiện được Ala.
Trong thánh thất chỉ trang trí bằng chữ Ả Rập. Chỉ riêng trong đền Caaba ở Mecca có thờ
một phiến đá đen từ xưa để lại.
- Trong quan hệ gia đình, Hồi giáo thừa nhận chế độ đa thê nhưng chỉ được lấy tối
đa 4 vợ và cấm việc lấy nàng hầu.. Đàn ông đạo Hồi có thể lấy người theo đạo Do Thái hoặc
đạo Kitô làm vợ nhưng thể thể lấy người theo đa thần giáo.
- Kinh thánh của đạo Hồi là kinh Côran, tiếng Ả Rập nghĩa là “bài đọc”, “bài giảng”
trong đó ghi lại những lời nói của Môhamet nhưng theo tín đồ Hồi giáo, đó là những lời phán
bảo của chúa Ala. Kinh Côran đề cập đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực, do đó đối với
người Ả Rập kinh Côran ngoài những nguyên tắc tôn giáo còn là một bản tổng hợp mọi tri
thức khoa học, mọi nguyên tắc pháp luật và đạo đức.
 Nghĩa vụ của tín đồ đạo Hồi

1.Thừa nhận chỉ có chúa Ala không có chúa nào khác, còn Moohamet là sứ giả của
Ala và là vị tiên tri cuối cùng.
2. Hằng ngày phải cầu nguyện 5 lần vào sáng, trưa, chiều, tối và đêm. Thứ sáu hàng

tuần thì phải đến thánh thất làm lễ một lần.
3. Mỗi năm đến tháng Ramađan phải trai giới một tháng, tháng Ramađan là tháng 9
lịch Hồi, nhưng vì Moohamet thay đổi âm lịch cũ, bỏ tháng nhuận nên tháng Ramađan cứ lùi
dần, không tương ứng với một thời gian nào cố định của dương lịch.
4. Phải nộp thuế cho đạo. Số thuế ấy dùng để xây cất thánh thất , bù đắp các khoản
chi tiêu của chính quyền và bố thí cho người nghèo.
5. Trong suốt đời người nếu có khả năng phải đi hành hương đến Caaba một lần.
 Sự phát triển của đạo Hồi

- Thời Môhamet đạo Hồi mới chỉ truyền bá ở bán đảo Ả Rập.


- Sau đó, cùng với quá trình chinh phục của Ả Rập đạo Hồi đã truyền bá khắp Tây Á,
Trung Á, Bắc Phi và Tây Ban Nha. Trong quá trình ấy đạo Hồi chia thành hai giáo phái chính
là phái Xumu và phái Siit.
- Hiện nay, Hồi giáo là tôn giáo có tín đồ đông nhất thế giới (trên 1,5 tỷ tín đồ), có
mặt ở hơn 100 quốc gia trên tất cả các châu lục.

4. VĂN MINH ẤN ĐỘ ( Văn học, tôn giáo)
a)Văn học
Văn học Ấn Độ vô cùng phong phú từ sự đa dạng về chủng tộc, ngôn ngữ, chữ viết.
Các tác phẩm hầu hết đều chép bằng tiếng Phạn. Văn học Ấn Độ gồm hai bộ phận quan
trọng là Vêđa và sử thi.
- Vêđa : có nghĩa là “hiểu biết”, “tri thức”. Vêđa có 4 tập bao gồm 10562 câu thơ phản
ánh tình hình người Arya tràn vào Ấn Độ, những suy nghĩ, những tri thức của người Arya
trước thiên nhiên và lực lượng tự nhiên. Phản ánh những phong tục tập quán cùng với đời
sống chính trị, kinh tế, xã hội. Nhưng thực chất là những bài ca tôn giáo để tế lễ, trong đó
cũng có những bài thơ tỏ tình.
- Sử thi : Ấn Độ có hai bộ sử thi rất lớn : Mahabharata và Ramayana, ra đời từ thiên
niên kỷ I TCN, phản ánh nhiều mặt đời sống xã hội Ấn Độ. Hai bộ sử thi là hai viên ngọc

quý trong kho tàng văn học Ấn Độ nói riêng và văn học thế giới nói chung. Đây là hai bộ
sử thi dài nhất trong nền văn học thế giới. Cho đến nay, nó vẫn là những đề tài, nguồn
cảm hứng của các nhà văn, nghệ sĩ Ấn Độ.
- Thơ ca : trong thời kỳ cổ đại đã xuất hiện nhiều nhà thơ nổi tiếng, với nhiều tác
phẩm được viết bằng thơ ca. Nhìn chung, thơ ca của Ấn Độ cổ đại là dùng ngôn ngữ dân
gian chứ không dùng ngôn ngữ cung đình và sử dụng rất nhiều chất liệu trong văn học
dân gian, phản ánh tâm tư nguyện vọng của quần chúng. Do đó, nó rất được nhân dân yêu
thích.
b) Tôn giáo
Đạo Bàlamôn - đạo Hinđu
* Đạo Bàlamôn là sự tập hợp từ các hình thức tín ngưỡng dân gian dần hình thành
một tôn giáo lớn đó là Bàlamôn.


- Là một tôn giáo đa thần, trong đó cao nhất là thần Brama, thần Shiva, thần Vishnu :
tuy ba nhưng vốn là một. Ngoài ra còn thờ nhiều thần động vật : voi, khỉ, bò...
- Đạo Bàlamôn coi trọng thuyết luân hồi : linh hồn con người còn mãi mãi và sẽ luân
hồi trong nhiều kiếp sinh vật khác nhau.
- Về mặt xã hội : là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ. Dùng uy lực
của thần linh để giải thích hiện tượng xã hội ấy. Do vậy sau một thời gian truyền bá ở Ấn
Độ vào những thế kỷ cuối TCN. Đến thế kỷ VI TCN, Bàlamôn bị suy yếu và một tôn
giáo mới xuất hiện : Phật giáo.
* Đạo Hinđu (Ấn Độ giáo)
- Đến thế kỷ VII đạo Phật bị suy yếu, đạo Bàlamôn dần dần được phục hưng : bổ sung
thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái, kinh điển, nghi thức tế lễ : gọi là Hinđu
giáo.
- Đối tượng sùng bái vẫn là 3 thần và các thần động vật, trong đó thần khỉ và bò được
tôn sùng hơn cả (thần khỉ Hanuman có công giúp Rama cứu được Sita. Còn thần bò là
kiếp thứ 8 của thần Vishnu, bò được coi là con vật linh thiêng).
- Đạo coi trọng thuyết luân hồi nghiệp báo.

- Đạo cũng bảo vệ và coi trọng sự phân chia đẳng cấp và còn duy trì nhiều tục lệ lạc
hậu : tảo hôn, chồng chết vợ phải hoả táng hoặc phải cạo trọc đầu ở vậy suốt đời.
- Hinđu giáo còn định ra những nguyên tắc đạo lý, những luật lệ và hình phạt... Tóm
lại, nó định ra một cách tỉ mỉ những nguyên tắc Hinđu cho mọi lĩnh vực đời sống vật
chất, tinh thần, nghệ thuật, xã hội... Những nguyên tắc Hinđu về kiến trúc đền tháp, các lễ
và các nghi thức cử hành lễ. Việc tiến hành những nghi lễ hàng năm thống nhất trong các
miếu là bước tiến rất xa so với Bàlamôn giáo, khiến Hinđu giáo có “chuẩn” để dễ thực
hiện và dễ phổ biến.
Những quy tắc chuẩn của nó khiến nó trở thành một tôn giáo quốc gia và truyền bá
rộng rãi ra ngoài biên giới, chủ yếu là các quốc gia Đông Nam Á.
Đạo Hinđu gần với “đời” hơn so với các tôn giáo khác ở Ấn Độ : nó phản ánh thực tế
xã hội và gắn liền với xã hội đó, một xã hội phân chia giai cấp. Đạo Hinđu là sự phục
tùng về mặt tâm linh của người Ấn Độ, mang đậm sắc thái Ấn Độ. Do đó, ở Ấn Độ đạo


Hinđu tồn tại như một phần đời sống tâm linh, một phần văn hoá và đời sống xã hội trong
thời gian dài cho đến ngày nay. Ở đạo Hinđu, người ta thấy sự đè nặng của số phận, sự
vâng chịu uy lực của thần thánh nhưng lại thấy sự khơi dậy cuộc sống vật chất trần tục,
trong đó lạc thú, kể cả nhục dục cũng trở thành quy tắc.
Ngày nay ở Ấn Độ có 84% dân số theo đạo Hinđu và một số quốc gia châu Á :
Nêpan, Bănglađét có 20%, Xrilanca... Ở Việt Nam : đông đảo người Chăm nhưng đạo đó
đã được sữa rất nhiều.
Đạo Phật
- Ra đời thế kỷ VI TCN : ở vùng Bắc Ấn, giáp vơi Nêpan. Người sáng lập là hoàng tử
Xítđátta Gôtama, sau khi thành Phật được tôn xưng là Sakia Murita (Thích Ca Mâu Ni).
Người sinh năm 624, mất năm 544 TCN (hoặc có ý kiến : 563 – 483 TCN). 29 tuổi người
xuất gia đi tu, sau 6 năm, Người đã giác ngộ chân lý về sự giải thoát con người khỏi kiếp
khổ hạnh. Từ đó, người trở thành Phật hoặc Bụt (nghĩa là “người đã giác ngộ”, “người đã
hiểu được chân lý”.
- Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo được thể hiện trong thuyết “Tứ diệu đế”,

“Tứ thánh đế”... (nghĩa là 4 chân lý thánh).
+ Khổ đế : là chân lý về các nỗi khổ. Khổ là vô tận,
+ Tập đế : nguyên nhân của các nỗi khổ, là do lòng ham muốn của con người.
+ Diệt đế : chân lý về chấm dứt các nỗi khổ, chấm dứt luân hồi, từ bỏ hết mọi ham
muốn.
+ Đạo đế : con đường để diệt khổ : đó là 8 con đường “Bát chính đạo” tựu trung lại
loại trừ mọi ham muốn hay xa lánh những cám dỗ trần tục. Ngoài ra, có những hành động
và ý muốn tốt đối với mọi người, mọi vật (làm việc thiện, không làm việc ác). Đây cũng
là một hình thức tu thân và trong sự phân biệt về mức độ thực hiện và hiệu quả giữa các
sắc đẳng : không quan tâm đến chế độ đẳng cấp, mọi người đều bình đẳng nếu một khi đã
tu hành thì đều được cứu vớt.
Như vậy, đạo Phật lúc đầu không phải là một tôn giáo, không tôn thờ một vị thần nào
cả và cũng không hề tự coi mình là thần, ngay cả Phật tổ Sakya Murita. Không có tổ chức
giáo hội, không có chùa chiền, không cần nghi thức cúng bái và cũng không có tầng lớp


thầy cúng. Mà chỉ là một triết lý về nhân sinh quan. Về sau, vì cảm phục mà người ta tôn
sùng Phật như một vị thần.
Như thế, giáo lý Phật có kế thừa Vêđa, có phần không rõ ràng, triệt để, nhưng những
biện pháp, những con đường và phương pháp thực hiện đã có ý nghĩa tích cực, đáp ững
những yêu cầu của xã hội Ấn trong 6 thế kỷ cuối TCN. Đó là những biện pháp rèn luyện
đạo đức và bản lĩnh, sự xoá bỏ các ranh giới chật hẹp cũ của các công xã, các tiểu quốc,
khuyến khích sự thống nhất và sự phát triển cao hơn ở Ấn Độ.
Nhưng thực tế, xã hội Ấn Độ thời đó chưa thể đạt được những ý muốn đó. Vì thế, sự
ra đời cũng là một đòi hỏi và sự biến mất của Phật trên chính mảnh đất đã sinh ra Phật
cũng là một thực tế.
- Vào khoảng thế kỷ X : đạo Phật chia làm nhiều phái khác nhau, trong đó có 2 trường
phái chính :
+ Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ) : giữ hình ảnh Phật ban đầu, Phật là con người mẫu mực đã tu
đắc đạo và truyền bá đạo. Lấy từ bi làm phương tiện noi gương Phật. Tu và hành động để

tự giải phóng mình. Viết kinh bằng tiếng Pali. Được truyền bá ở Đông Nam Á, Nam Á và
Xrilanca.
+ Đại thừa (cỗ xe lớn) coi Phật là siêu việt, là thần. Con đường cứu thoát khỏi vòng
luân hồi nghiệp báo bằng nhiều phương sách không nhất phải tu ở chùa. Viết bằng chữ
Sanxkrít, được truyền bá ở Tây Tạng, Triều Tiên, Nhật và Bắc Việt Nam.
5. VĂN MINH TRUNG QUỐC (bốn phát minh kỹ thuật, Nho gia)
Bốn phát minh kỹ thuật
Thời cổ trung đại, nhân dân Trung Hoa có bốn phát minh kỹ thuật quan trọng được
đánh giá cao trên thế giới, đó là: giấy, kỹ thuật in, la bàn và thuốc súng.
- Kĩ thuật làm giấy:
+ Thời Tây Hán, người Trung Quốc vẫn dung thẻ tre, lụa để ghi chép. Đến khoảng
thế kỷ II, mặc dù đã biết dung phương pháp xơ gai để làm giấy, tuy nhiên giấy thời kỳ
này còn xấu, mặt không phẳng , khó viết nên chỉ dung để gói.
+ Đến thời Đông Hán, năm 105 một người tên Thái Luân đã dung vỏ cây, lưới cũ,
giẻ rách…làm nguyên liệu, đồng thời đã cải tiến kỹ thuật, nên đã làm được loại giấy có
chất lượng tốt. Từ đó giấy được dung để viết 1 cách phổ biến thay thế cho các vật liệu
trước đó.


+ Từ thế kỷ III nghề làm giấy được truyền sang Việt Nam và sau đó được tryền đi
hầu khắp các nước trên thế giới.
- Kĩ thuật in:
+ Từ giữa thế kỷ VII kĩ thuật in giấy đã xuất hiện. Khi mới ra đời là in bằng ván sau đó
có một người dân tên Tất Thăng đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung đã hạn
chế được nhược điểm của cách in bằng ván. Tuy nhiên cách in này vẫn còn hạn chế nhất
định: chữ hay mòn, khó tô mực. Sau đó đã có một số người tiến hành cải tiến nhưng ko
được, đến thời Nguyên, vương Trinh mới cải tiến thành công việc dùng chữ rời bằng gỗ.
+Từ khi ra đời kĩ thuật in cũng đã được truyền bá rộng rãi ra các nước khác trê thế giới.
Cho đến năm 1448, Gutenbe người Đức đã dùng chữ rời bằng kim loại, nó đã làm cơ sở
cho việc in chữ rời bằng kim loại ngày nay.

- Thuốc súng
Là phát minh ngẫu nhiên của những người luyện đan, cho đến thế kỷ X thuốc
súng bắt đầu được dùng làm vũ khí. Sau đó qua quá trình sử dụng nó đã được cải tiến rất
nhiều với nhiều tên gọi khác nhau. Và trong quá trình tấn công Trung Quốc người Mông
cổ đã học được cách làm thuốc súng và từ đó lan truyền sang Tây Á rồi đến châu Âu.
- Kim chỉ nam
Từ thế kỷ III TCN người Trung Quốc đã phát minh ra “Tư nam” đó là một dụng
cụ chỉ hướng. Sau đó các thầy phong thủy đã phát minh ra kim nam châm nhân tạo, đầu
tiên la bàn được dùng để xem hướng đất rồi mới được sử dụng trong việc đi biển. Nửa
sau thế kỷ XII la bàn được truyền sang Arập ròi sang châu Âu và người châu Âu đã cải
tiến sử dụng nó trong các cuộc phát kiến địa lý.
=> Đối với Trung Quốc bốn phát minh trên ra đời không chỉ trực tiếp giúp cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của con người Trung Quốc, mà đó còn là những đóng góp
không nhỏ của một nền văn minh cho toàn nhân loại.
Đối với thế giới, sự ra đời của kĩ thuật làm giấy, kĩ thuật in, thuốc súng và kim chỉ
nam đã nâng cao được vị thế của loài người, đưa nhân loại tiến lên một bước trong quá
trình chinh phục tự nhiên và tranh đấu với tự nhiên với chính con người để sinh tồn và
phát triển.
Nho gia
Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng của Trung Quốc. Người đặt cơ sở đầu
tiên cho Nho gia là Khổng Tử, sống vào thời Xuân Thu. Về sau Mạnh Tử , Đổng Trọng
Thư đã phát triển học thuyết này làm cho Nho Giáo ngày càng thêm hoàn chỉnh.
- Tư tưởng của Khổng Tử gồm 4 mặt là triết học, đạo đức, chính trị và giáo dục.
+ Về mặt triết học : Khổng Tử không quan tâm đến nguồn gốc của vũ trụ, do đó ông thể
hiện thái độ không rõ ràng đối với quỷ thần ( một mặt ông tỏ thái độ hoài nghi, một mặt
ông lại rất coi trọng việc cúng tế, tang ma.)


+ Về mặt đạo đức : ông hết sức coi trọng vì đó là những chuẩn mực để duy trì trật tự xã
hội. Nội dung về đạo đức của ông bao gồm nhiều mặt như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín ,

dũng….nhưng trong đó quan trọng nhất là “nhân”
+ Về đường lối trị nước, Khổng Tử chủ trương dựa vào đạo đức. Nội dung của đức trị
bao gồm 3 điều, đó là làm cho dân cư đông đúc, kinh tế phát triển và dân được học hành.
Ông chủ trương sử dụng biện pháp “ phải thận trọng trong công việc, phải giữ được chữ
tín, tiết kiệm trong công việc, chí dũng, thương người, sử dụng sức dân vào thời gian hợp
lí”. Bên cạnh đó, tư tưởng của ông cũng có những hạn chế như ông chủ trương những
quy chế, lễ nghi của thời Tây Chu là không được thay đổi.
+ Về giáo dục : Ông có những đóng góp quan trọng như ông là người đầu tiên sáng lập
chế độ giáo dục tư thục ở Trung Quốc. Mục đích của giáo dục là uốn nắn nhân cách và
bồi dưỡng nhân tài, do đó phương châm giáo dục quan trọng của Khổng Tử là học lễ
trước học văn sau. Phương châm giáo dục thứ hai là học đi đôi với hành, học để vận dụng
vào thực tế.
Tóm lại, Khổng Tử là một nhà tư tưởng lớn và là nhà giáo dục lớn của Trung Quốc cổ
đại. Tuy nhiên, trong thời đại của ông chủ trương chính trị của ông chưa được các vua
chư hầu chấp nhận.
- Còn về Mạnh Tử , quan điểm triết học của ông trước hết biểu hiện ở lòng tin vào mệnh
trời, mọi việc đều do trời quyết đinh.
+ Về đạo đức, tư tưởng có hai điểm mới: một là ông cho rằng đạo đức của con người là
một yếu tố bẩm sinh gọi là tính thiện và hai là trong bốn biểu hiện của đạo đức nhân,
nghĩa,.lễ, trí ông coi trong nhất là nhân nghĩa, do đó không chú ý tới lợi.
+ Về chính trị, Mạnh Tử nhấn mạnh hai vấn đề là nhân chính và thống nhất. Điểm nổi bật
nhất trong đường lối nhân chính của Mạnh Tử là tư tưởng quý dân. “ Dân vi quý, xã tắc
thứ chi, quân vi khinh”. Chủ trương thứ hai trong đường lối chính trị của ông là thống
nhất, với mục đích chính là chấm dứt chiến tranh giữa các nước thời Chiến Quốc để toàn
Trung Quốc được thái bình, vì vậy, biện pháp để thực hiện là nhân chính. Bên cạnh chăm
lo đời sống nhân dân, Mạnh Tử chủ trương mở rộng việc giáo dục đến tận nông thôn mà
trước hết là dạy cho học sinh cái nghĩa hiếu, đễ. Cũng giống như Khổng Tử những tư
tưởng của ông không được vua chấp nhận.
- Đến Đổng Trọng Thư, học thuyết Nho gia được phát triển them một bước, nhất là về tư
tương triết học và đạo đức.

+ Về triết học ông có hai điểm mới là thuyết “thiên nhiên cảm ứng” tức là quan hệ tác
động qua lại giữa trời và con người, đồng thời dung thuyết âm dương để giải thích mọi sự
vật, bên cạnh đó còn dùng thuyết âm dương ngũ hành để kết hợp với thuyết trời sinh vạn
vật của mình do đó thuyết âm dương được phát triển them một bước.


+ Đối với ngũ hành ông nêu ra quy luật liền nhau thì sinh ra nhau, cách nhau thì thắng
nhau. Ông còn dùng ngày, tháng, bốn mùa trong năm và âm dương ngũ hành để giải thích
số lượng các đốt xương và các bộ phận con người.
+ Về đạo đức, đóng góp quan trọng nhất của ông là việc nêu ra các phạm trù tam cương,
ngũ thường, lục kỉ. Tam cương là ba mối quan hệ : vua tôi, cha con, vợ chồng. Ngũ
thường : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Lục kỉ là mối quan hệ với những người ngang hàng với
cha, ngang hàng với mẹ, với an hem, họ hàng, thầy giáo và bạn bè.
+ Về chính trị , ông chủ yếu là cụ thể hóa tư tưởng của Khổng Mạnh trong hoàn cảnh xã
hội có nhiều điểm mới như giảm thuế, khuyến khích giáo dục,….Như vậy, đến thời kì
này các tư tưởng triết học, đạo đức, chính trị của Nho gia đã được hoàn chỉnh.
6. VĂN MINH HY LẠP – LA MÃ ( Nghệ thuật)
* Nghệ thuật Hy Lạp
- Nghệ thuật Hy Lạp học tập nghệ thuật của Ai Cập, Lưỡng Hà, trên cơ sở đó tạo nên nền
nghệ thuật hoàn mĩ, đậm tính hiện thực, tính dân tộc. Tuy nghệ thuật Hy Lạp, yếu tố thần
linh, huyền bí đóng vai trò không đáng kể.
- Nghệ thuật Hy Lạp chú trọng đến các yếu tố con người, lấy con người làm chủ thể,
làm nguồn cảm hứng. Những tượng thú, thần thánh không còn nữa, thay vào đó là con
người với hình thức cân đối và hài hoà cả về tinh thần và thể xác.
- Nghệ thuật Hy Lạp với những tính chất : đơn giản, vừa chừng mực, vừa tránh sự tô
điểm rườm rà, vừa không theo những quy ước quá nghiêm ngặt.
- Công trình kiến trúc : đền miếu, rạp hát, kịch trường, sân vận động... Trong đó có
đền thờ thần Dớt (ở Ôlempi), đền nữ thần Atêna (trên đảo Êgin) và nhất là đền Páctênông
được xem là biểu tượng của kiến trúc Hy Lạp cổ, được xây dựng dưới sự chỉ đạo của
Phiđiát, nó được xây dựng 447 TCN và hoàn thành 432 TCN.

- Nghệ thuật điêu khắc : cũng được xem là một mẫu mực hoàn mĩ của điêu khắc thế
giới. Với những tác phẩm nổi tiếng gắn liền với tên tuổi các nhà điêu khắc tài ba.
* Nghệ thuật La Mã
* Nghệ thuật kiến trúc La Mã phát triển rực rỡ nhất vào thời kỳ đế chế Ốctaviuxơ : với
nguồn nhân lực, vật liệu xây dựng dồi dào, kết cấu kĩ thuật tiến bộ... đã biến La Mã từ 1
thành phố bằng gạch thành 1 thành phố bằng cẩm thạch.


- Các công trình kiến trúc của La Mã gồm tường thành, đền miếu, cung điện, rạp hát,
khải hoàn môn, cầu đường. Trong số các công trình nổi tiếng nhất là : đền Păngtênông,
rạp hát và khải hoàn môn.
- Đặc điểm của các công trình kiến trúc La Mã đó là đồ sộ, bề thế chú ý đến công
năng sử dụng hơn là tìm kiếm sự cân đối, hài hoà giữa công trình với xung quanh, những
đường uốn lượn được thay thế bằng những nét sổ thẳng hình học, dáng vẻ trông có vẻ thô
kệch, nặng nề nhưng lại khoẻ và chắc chắn hơn. Điều đó xuất phát từ đầu óc thực dụng,
thích bề thế, đồ sộ của người La Mã. Họ muốn tỏ cho các dân tộc bị họ khuất phục thấy
sự vĩ đại, tráng lệ và giàu có của họ.
* Nghệ thuật điêu khắc của La Mã cùng một phong cách nghệ thuật điêu khắc Hy
Lạp, chủ yếu ở hai mặt : tượng và phù điêu.
- Trong nghệ thuật điêu khắc, họ cũng chú ý tính hiện thực trong các tác phẩm (tượng
bán thân), họ cố gắng nắm bắt cá tính cơ bản của mỗi đối tượng : tượng Xêda : phản ánh
tham vọng trên gương mạnh mẽ và đầy tự tin, tượng của Ôgút : thể hiện một quyết tâm
mang tính bản năng...
- Các phù điêu : thường đắp trên các khải hoàn môn, dinh thự... cũng mang tính hiện
thực cao, được miêu tả cực kỳ chính xác như ngoài đời thường : các tác phẩm giá trị nghệ
thuật không cao, nhưng lại là có giá trị về tư liệu cho sử học, dân tộc học...
7. VĂN MINH TÂY ÂU TRUNG ĐẠI (Phong trào văn hoá phục hưng)
Đây là một phong trào văn hoá mới, xuất hiện đầu tiên ở Ý từ thế kỷ XIV sau đó lan
sang các nước anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Hà Lan. . . Phong trào này không chỉ đơn
thuần phục hồi nền văn hoá cổ đại, mà còn mang một nội dung hoàn toàn mới, một ý thức

giai cấp mới.
* Điều kiện lịch sử
- Nền kinh tế tư bản và giai cấp tư sản ra đời. Giai cấp tư sản thấy cần thiết phải xóa
bỏ những ràng buộc của chế độ phong kiến và giáo hội để xây dựng cho mình một hệ tư
tưởng và văn hoá riêng.
- Đây là thời kỳ khoa học có nhiều thành tựu quan trọng đã làm đảo lộn những quan
niệm phản khoa học của giai cấp phong kiến và giáo hội.


- Phong trào văn hoá Phục hưng diễn ra đầu tiên ở Ý là vì:
+ ở đây quan hệ TBCN ra đời sớm, những thành thị tự do rất phồn thịnh và đã thành
lập những nước cộng hoà thành thị. Giai cấp tư sản tự do sống theo quan điểm tư tưởng
của mình.
+ Ý còn là quê hương của nền văn minh HY-La cổ đại, còn lưu giữ lại nhiều di sản
văn hoá : kiến trúc, điêu khắc, văn học, triết học. . .
+ Do kinh tế phát triển, các thành thị Ý đã xuất hiện một tầng lớp giàu có và phô
trương sự giàu có của mình với những lâu đài và các tác phẩm có giá trị.
- Đến thế kỷ XV – XVI, CNTB cũng ra đời ở Anh, Pháp, Đức. . .phong trào văn hoá
Phục hưng có điều kiện phát triển sang các nước khác ở Tây Âu.
- Nội dung tư tưởng:
Phong trào văn hóa Phục hưng tuy có những tiếp thu và kế thừa một số yếu tố
trong nền văn hóa Hy Lạp và La Mã cổ đại nhưng thực chất đây không phải là một phong
trào làm sống lại những di sản văn hóa cổ xưa mà là một phong trào văn hóa hoàn toàn
mới dựa trên nền tảng kinh tế xã hội mới và hệ tư tưởng mới.
+ Tư tưởng chủ đạo của phong trào văn hóa Phục hưng là chủ nghĩa nhân văn. Đó
là hệ tư tưởng chú trọng đến con người, chú ý đến cuộc sống hiện tại, chủ trương cho
con người được quyền hưởng mọi lạc thú ở đời, do đó nó hoàn toàn đối lập với quan
niệm của giáo hội Thiên chúa. Nội dung tư tưởng ấy được thể hiện :
> Lên án, đả kích, châm biếm sự tàn bạo, dốt nát, giả nhân giả nghĩa của các giáo
sĩ từ giáo hoàng đến các tu sĩ và của giai cấp quý tộc phong kiến. Nội dung này được thể

hiện hầu hết trong các tác phẩm của thời kì văn hóa Phục hưng.
Ví dụ: “Thần khúc” của Đantê, “Mười ngày” của Bôcaxiô, “Theo đuổi tình yêu
vô hiệu” của Sếchxpia, “Đông Kisốt” của Xécvăngtét.
+ Chống lại quan niệm của giáo hội về con người và cuộc sống trần gian :
Để chống lại quan niệm của giáo hội chỉ chú trọng đến thần linh và thế giới bên
kia, coi nhẹ con người, đề xướng chủ nghĩa khổ hạnh, bóp chết tình cảm, kìm hãm tư
tưởng và lí trí con người, các nhà nhân văn thời Phục hưng hết sức đề cao con người, cho
con người là “vàng ngọc của vũ trụ”.
+ Chống những quan điểm phản khoa học và chủ nghĩa duy tâm :


Đây chủ yếu là cống hiến của các nhà khoa học và triết học.Những phát hiện của
các nhà thiên văn học như Côpécních, Bru rô, Galilê... đã đánh đổ hoàn toàn quan niệm
sai lầm của giáo hộ về vũ trụ đã ngự trị lâu đời ở châu Âu.
Đồng thời với việc tán dương vẻ đẹp và đề cao trí tuệ, tài năng của con người, các
văn nghệ sĩ thời Phục hưng chú trọng đến quyền tự do của con người.
+ Đề cao tinh thần dân tộc, tình yêu đối với Tổ quốc và tiếng nói của nước mình :
Phong trào văn hóa Phục hưng xuất hiện trong thời kì ra đời của quan hệ tư bản
chủ nghĩa và đó cũng là thời kì diễn ra quá trình hình thành dân tộc ở Tây Âu. Vì vậy,
đồng thời với việc chống phong kiến và giáo hội, các nhà nhân văn chủ nghĩa đã hết sức
ca ngợi tình yêu đối với đất nước và đồng bào của mình. Nội dung ấy được thể hiện trong
các tác phẩm văn học của một số tác giả Đantê , Rôngxa, Xécvăngtét, Sếchxpia... cũng
đã bắt đầu thấy được xã hội quá đề cao vai trò của đồng tiền.
 Phong trào văn hóa Phục hưng thực chất là một phong trào cách mạng về văn hóa tư
tưởng chống phong kiến và giáo hội nên đã gặp sự phản kích mạnh mẽ của giáo hội;
không ít nhà văn, nhà khoa học, nhà triết học đã bị hãm hại bằng những hình thức khác
nhau trong đó Galilê và Brunô là những trường hợp tương đối điển hình.
* Ý nghĩa
- Phong trào Phục hưng đã mở ra cho xã hội châu Âu một chân trời mới, bước đầu
xoá bỏ những xiềng xích của phong kiến và giáo hội trói buộc con người. Nó đã giải

phóng tình cảm của con người, con người được tự do phát triển.
- Đây là một bước tiến vĩ đại trong lịch sử văn minh châu Âu. Phong trào đã cống
hiến cho văn minh nhân loại “những con người khổng lồ” về tư tưởng, về nhiệt tình và
tính cách, khổng lồ về tài năng mọi mặt và sự hiểu biết sâu rộng của họ.
- Phong trào đã kết thúc một thời kỳ dài tăm tối ở châu Âu, tạo điều kiện cho châu Âu
bước vào một giai đoạn mới, giai đoạn đấu tranh quyết liệt chống lại chế độ phong kiến
trên lĩnh vực chính trị để xác lập quan hệ sản xuất TBCN.
8. VĂN MINH CÔNG NGHIỆP (những phát minh KH và tiến bộ KT (TK XIX))
Vào khoảng 30 năm cuối thế kỉ XIX, lực lượng sản xuất ở các nước tư bản đạt đến
trình độ phát triển cao. Nhờ những phát minh khoa học và tiến bộ kỹ thuật trong thời kỳ
này, con người đã đi sâu khám phá được nguồn năng lượng vô tận của thiên nhiên, phục
vụ cho nhu cầu cuộc sống ngày càng cao của mình.


a) Những phát minh khoa học
- Về sinh học: phát minh quan trọng của thế kỉ 19 phải kể tới Charles Darwin. Năm 1859
Darwin đã cho ra đời tác phẩm “Nguồn gốc các giống loài” qua con đường chọn lọc tự
nhiên. Trong tác phẩm đó ông trình bày 3 ý tưởng chủ yếu: đấu tranh sinh tồn, chọn lọc
tự nhiên, sự tồn tại của giống thích ứng với môi trường tốt nhất đã trở thành cơ sở của
học thuyết tiến hóa cổ điển.
-Về di truyền học: Gregor Mendel (Áo) đã đưa ra học thuyết chứng minh sự di truyền
những phẩm chất của thế hệ trước cho thế hệ sau qua những phân tử cực nhỏ, mà sau này
được gọi là gen.
- Về hóa học:
+ John Dalton, một giáo viên người Anh cho rằng mọi vật chất đều cấu tạo bởi các
nguyên tử. Nguyên tử của các chất khác nhau thì có khối lượng khác nhau. Các nguyên tử
hợp thành từng đơn vị (bây giờ ta gọi là phân tử).
+ Một phát minh vĩ đại về mặt hóa học nữa đó là Bảng hệ thống tuần hoàn năm 1869 của
Dmitri Mendeleev, một nhà hóa học Nga. Ông đã sắp xếp các chất hóa học thành từng
nhóm theo khối lượng riêng, tính chất riêng của chúng.

+ Năm 1800, Alessandro Volta (Ý) đã chế tạo ra pin do tác động của hoạt động hóa học.
-Về vật lý:
+ Năm 1831, Michael Faraday đã chứng minh dòng điện sẽ xuất hiện khi ta di chuyển
ống dây qua một từ trường. Phát minh của Faraday đã tạo cơ sở cho việc chế tạo ra máy
phát điện sau này.
+ Năm 1860 James Clerk Maxwell, một nhà khoa học người Scotland, đã đưa ra lí thuyết
giải thích ánh sáng bản chất cũng là một dạng của sóng điện từ mà trong khoảng mắt
người nhìn thấy được.
+ Năm 1885, Heinrich Hertz đã chứng minh được tốc độ khác nhau của các loại sóng
điện từ khác nhau. Sau này người ta lấy tên Hertz để đặt cho đơn vị đo chu kì.
+ Thuyết tương đối của Anhxtanh đánh dấu bước chuyển quan trọng trong ngành vật lý
học hiện đại
-Về lý thuyết phóng xạ: Năm 1898, hai ông bà Pierre Curie và Marie Curie đã tinh chế
được chất radium và phát hiện ra tính phóng xạ của nó.
-Về y học, phát minh quan trọng của thế kỉ 19 phải kể tới Louis Pasteur, ông đã đế ra
cách ngừa bệnh mới là sử dụng vaccin.
b) Tiến bộ kỹ thuật


- Về mặt thông tin, phát minh quan trọng phải kể tới là năm 1876 Alexander Graham
Bell đã phát minh ra máy điện thoại đầu tiên. Năm 1879, Thomas A. Edison đã làm cho
điện phát sáng để phục vụ cuộc sống.
- Về mặt kĩ thuật, đầu thế kỉ XIX khí đốt và gas đã được người Anh và Pháp đưa vào
phục vụ cuộc sống. Năm 1897, một kĩ sư người Đức là R. Diesel đã chế ra một loại động
cơ đốt trong không cần bugi, sử dụng dầu cặn nhẹ. Động cơ Diesel chính là mang tên
ông.
- Việc sử dụng lò Betxơme và lò Mactanh đánh dấu một bước trong cách mạng luyện
kim.
- Những sáng chế ra máy tuốc bin phát điện chạy bằng sức nước và tuốc bin phát điện
cùng việc chuyển tải điện đi xa tạo những điều kiện quan trọng để nâng cao năng suất lao

động.
- Những phát hiện về mỏ dầu lửa ở Nga và Mỹ đem lại nguồn nhiên liệu mới.
- Nhiều phương tiện giao thông mới xuất hiện như: ô tô, máy bay, tàu biển, tàu ngầm…



×