Tải bản đầy đủ (.doc) (170 trang)

Luận văn thạc sỹ - Pháp luật về mua bán nợ xấu từ hoạt động cho vay của NHTM - Khảo sát thực tiễn hoạt động mua bán nợ của VAMC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.69 KB, 170 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO KIM ANH
PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN NỢ XẤU TỪ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI – KHẢO SÁT THỰC TIỄN HOẠT
ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA VAMC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
GV hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ ÁNH VÂN

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường Đại học Luật Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Nhà trường xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đào Kim Anh


LỜI CẢM ƠN
Những dòng đầu tiên trong luận văn của mình tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến các thầy, cô giảng viên tại Trường Đại học Luật Hà Nội, là những


người đã truyền thụ kiến thức cho tôi trong suốt khoá học, đồng thời tôi xin cảm
ơn các Thầy, Cô Khoa Sau đại học đã tạo điều kiện, giúp đỡ cho tôi trong suốt
thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn vô cùng chân thành và sâu sắc nhất đến
PGS.TS. Nguyễn Thị Ánh Vân, người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn. Đồng thời, tôi cũng chân thành cảm ơn bạn bè, đồng
nghiệp đã cung cấp những nguồn tư liệu quý giá, giúp tôi hoàn thành luận
văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn người thân, bạn bè đã luôn bên cạnh động viên
và cổ vũ tôi trong quá trình thực hiện luận văn này.
Hà Nội, tháng 6 năm 2018
Sinh viên thực hiện

Đào Kim Anh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.................................................................................................2
LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.......................................................................6
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN NỢ XẤU VÀ PHÁP
LUẬT ĐIỀU CHỈNH VIỆC MUA BÁN NỢ XẤU TỪ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CUA NHTM.......................................................................................................10
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các tiêu chí xác định nợ xấu từ hoạt động cho vay
của các NHTM....................................................................................................10
1.1.1. Nợ và nợ xấu.........................................................................................................................10

1.1.2.Mua, bán nợ xấu từ hoạt động cho vay của NHTM...................................16
1.1.3.Phân loại nợ xấu....................................................................................................................22

1.1.4. Nguyên nhân của nợ xấu......................................................................................................28
1.1.5. Ảnh hưởng của nợ xấu.........................................................................................................30
b.Nội dung của hợp đồng mua, bán nợ......................................................................................69
Quy trình xác lập và thực hiện hoạt động mua, bán nợ.............................................................74
1.2.4. Vai trò của pháp luật về hoạt động mua, bán nợ từ hoạt động cho vay của các NHTM....80

2.1. Thực trạng nợ xấu của các NHTM tại Việt Nam..........................................85
2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về mua bán nợ xấu từ hoạt động cho vay của
NHTM................................................................................................................94
2.2.1. Khái quát hành lang pháp lý cho hoạt động mua bán nợ xấu.............................................94
2.2.3. Những hạn chế còn tồ tại trong quy định của pháp luật về mua bán nợ xấu xuất phát từ
hoạt động cho vay của NHTM......................................................................................................112

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..................................................................................138
CHƯƠNG 3: MỘT SÓ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MUA
BÁN NỢ XẤU CỦA NHTM Ở VIỆT NAM....................................................139
3.1. Nhóm giải pháp chung...........................................................................................................139

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3..................................................................................155



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AMC : Công ty mua bán nợ trực thuộc các ngân hàng thương mại
BĐS : Bất động sản
DATC : Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTM : Tổ chức tín dụng
TPĐB : Trái phiếu đặc biệt

TSBĐ : Tài sản bảo đảm
XLNX : Xử lý nợ xấu
VAMC : Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam


1

MỞ ĐẦU
Nợ xấu luôn là rào cản đe dọa sự phát triển bền vững của hệ thống tài
chính và nền kinh tế của mọi quốc gia. Ở Việt Nam hiện nay, nợ xấu đang là
vấn đề nghiêm trọng đối với các ngân hàng thương mại và cả các doanh
nghiệp vay vốn. Các cơ quan quản lý Nhà nước đã đưa ra nhiều giải pháp
nhằm xử lý nợ xấu triệt để nhưng đã gặp phải không ít những khó khăn về
khả năng hấp thụ vốn của hệ thống doanh nghiệp hiện nay, mở ra vấn đề xử lý
“nợ xấu tiềm tàng”.
Nếu như xem hệ thống ngân hàng là hệ tuần hoàn thì nợ xấu như những
“cục máu đông” trong mạng lưới đó. Sự gia tăng của nợ xấu một mặt ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động của các ngân hàng, mặt khác có tác động tiêu
cực đến nhiều chủ thể khác mà rộng hơn là nền kinh tế. Vì vậy, giải quyết nợ
xấu luôn là một trong những ưu tiên hàng đầu của các nhà quản trị vĩ mô.
Thực tế cho thấy, trên thế giới việc mua bán nợ xấu đã ra đời từ thập
niên 1980 – 1990 và ngày càng phát triển do tác động của các cuộc khủng
hoảng nợ ở Mỹ và Hy Lạp, ở Việt Nam ,việc mua bán nợ xấu bắt đầu hình
thành từ năm 1999 theo Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 ngày
19/4/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế
mua bán nợ của các tổ chức tín dụng. Qua quá trình phát triển, cơ chế mua
bán nợ xấu ngày càng được hoàn thiện, mau bán nợ xấu càng thể hiện rõ vai
trò của mình trong quá trình hoạt động kinh doanh của các NHTM, tạo điều
kiện cho các NHTM cơ cấu lại nợ, sử dụng vốn an toàn, hiệu quả, góp phần
khơi thông dòng vốn tín dụng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên,

vì nhiều lý do, hoạt động mua bán nợ xấu tại Việt Nam chưa phá triển, các tổ
chức tín dụng chưa có nhiều lựa chọn trong việc mua bán nợ xấu, tính chất thị
trường trong hoạt động mua bán nợ xấu chưa thể hiện rõ nét, lợi ích đme lạ từ
việc mua bán nợ xấu còn nhiều hạn chế, chua theo thông lệ quốc tế. vì vậy,
phát triển thị trường mua bán nợ xấu là đòi hỏi mang tính tất yếu trong quá


2

trình phát triển nền kinh tế thị trường trên thế giới cũng như nền kinh tế Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Khi khung pháp lý quy định rõ ràng, sẽ là nền móng giúp cho tình hình
tài chính của các doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại được lành mạnh,
minh bạch, giảm rủi ro. Hoạt động mua bán nợ xấu từ hoạt động cho vay của
các NHTM được xem như là lối thoát cho các doanh nghiệp đang gặp phải
nhiều khó khăn.
Tại Việt Nam những giải pháp đưa ra nhằm giải quyết thực trạng nợ xấu
trở lên nóng bỏng hơn bao giờ hết. Một trong những cách thức xử lý nợ xấu là
mua bán nợ đang được chú trọng triển khai và phát triển. Tuy nhiên thực tiễn
cho thấy phương thức này còn chưa phát huy được tối đa hiệu quả của nó vì
nhiều nguyên nhân, trong đó phần lớn nằm ở hệ thống pháp luật. Điều chỉnh
về vấn đề mua bán nợ xấu ở Việt Nam hiện nay có các văn bản pháp luật như:
Bộ luật dân sự 2015, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Luật đất đai, Luật
nhà ở, Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 về thành lập tổ chức và
hoạt động của VAMC, Nghị định số 1/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị
đinh số 53/2013/NĐ-CP, Nghị định 61/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của
Chính phủ quy định chi tiết việc thẩm định giá khởi điểm của khoản nợ xấu,
tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu và việc thành lập Hội đồng đấu giá nợ xấu,
tài sản bảo đảm, Thông tư số 09/2017/TT-NHNN sửa đổi bổ sung một số điều
của Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 quy định về việc mua

bán và xử lý nợ xấu của VAMC…, Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày
21/6/2017 của Quốc Hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng
cũng đã cho phép áp dụng nhiều chính sách mới về xử lý nợ xấu, tài sản bảo
đảm của khoản nợ xấu, tào sản bảo đảm của các tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán nợ xấu, đây là các văn bản pháp luật
điều chỉnh mang tính định hướng chung cho hoạt động mua bán nợ xấu, là cơ
sở để xây dựng các văn bản pháp luật chuyên ngành đồng thời được áp dụng


3

điều chỉnh các vấn đề luật chuyên ngành chưa quy định. Bên cạnh đó phải kể
đến các văn bản pháp luật chuyên ngành như: Nghị định số 53/2013/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 18/05/2013 về thành lập, tổ chức và hoạt động của công
ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam, Quy chế mua bán nợ
của NHTM được ban hành kèm theo Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày
21/12/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Quyết định số
1390/2001/QĐ-NHNN ngày 07/11/2001 của Ngân hàng Nhà nước về việc
ban hành quy định về hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
trực thuộc Ngân hàng thương mại, Thông tư số 33/2010/TT-BTC ngày
11/03/2010 của Bộ tài chính về ban hành điều lệ, tổ chức và hoạt động của
Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, Thông tư số
19/2013/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ban hành ngày 06/09/2013 quy
định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của công ty quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng Việt Nam…
Hệ thống các văn bản pháp luật này đã tạo ra khung pháp lý tương đối
vững chắc cho hoạt động mua bán nợ xấu. Tuy nhiên, với thực trạng nợ xấu
gia tăng mạnh trong những năm gần đây, nhu cầu mua bán nợ xấu tăng
nhanh thì nhiều quy định của pháp luật trước đây đã trở nên lỗi thời, chưa
giải quyết hết những vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tế, đặc biệt là

vấn đề xử lý TSBĐ khi mua bán nợ xấu. Nếu như trước đây hai chủ thể đóng
vai trò chính trong việc mua bán nợ là DATC và AMC sau một thời gian dài
hoạt động nhưng mục đích làm giảm tỷ lệ nợ xấu chưa đạt được đáng kể do
bất cập trong quy định liên quan đến TSBĐ, BĐS, quyền được tiếp cận
thông tin của bên đi mua nợ với ngân hàng và con nợ, việc huy động vốn và
xử lý tài sản của công ty mua bán nợ… thì hiện nay, để đáp ứng 3 nhu cầu
xử lý nợ xấu, Chính phủ đã thành lập một chủ thể mua bán nợ xấu khác là
VAMC. VAMC đã đi vào hoạt động được một thời gian và ít nhiều đạt được
kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên một số quy định liên quan đến hoạt động


4

của VAMC như: đối tượng nợ xấu VAMC sẽ mua, VAMC sẽ bán nợ xấu như
thế nào khi Việt Nam chưa có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước
ngoài… hiện nay cũng đang nhận được những ý kiến trái chiều. Góp phần
phát huy tối đa các ưu điểm của hoạt động mua bán nợ xấu của các tổ chức
tín dụng, việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động mua bán nợ xấu ở
nước ta từ đó xây dựng khung pháp luật phù hợp trong điều kiện nước ta
hiện nay là điều vô cùng cần thiết.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về
mua bán nợ xấu từ hoạt động cho vay của NHTM - Khảo sát thực tiễn hoạt
động mua bán nợ của VAMC” với mong muốn là hệ thống và làm sáng tỏ cơ
sở lý luận từ đó đi vào phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về mua bán nợ
xấu của các NHTM, từ đó chỉ rõ tồn tại trong hoạt động mua bán nợ xấu của
các NHTM và lý giải nguyên nhân vấn đề, đồng thời khảo sát thực tiễn hoạt
động mua bán nợ của VAMC, qua đó nhạn diện một số thành tựu và hạn chế,
phân tích các vấn đề cần quan tâm xử lý triệt để nợ xấu, lành mạnh hóa các
NHTM. Cuối cùng luận văn sẽ nêu ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện
pháp luật về mua bán nợ xấu của NHTM ở Việt Nam và giải toả khó khăn, tạo

hiệu quả cho hoạt động mua bán nợ xấu của các NHTM ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Những nghiên cứu thế giới:
Sau cuộc khủng hoảng nợ ở nhiều nước thập niên 1980 và 1990, cùng
với đó là cuộc khủng hoảng nợ của Mỹ năm 2007 – 2008 và cuộc khủng
hoảng nợ ở Hy Lạp, các nhà nghiên cứu và các nhà làm chính sách ở một số
nước ngày càng quan tâm nghiên cứu về thị trường mua bán nợ xấu và xử lý
nợ xấu, mô hình công ty mua bán nợ quốc gia, các giải pháp tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng tài chính, cụ thể như sau:
Nghiên cứu của tác giả Claessens, S; S. Djankov và D.Kingebiel (1999)
về “tái cấu trúc tài chính ở Đông Á: Nửa đường?” (“Financial Restructuring


5

in East Asia: Halfway there?”), để tái cấu trúc doanh nghiệp sau khủng hoảng
tài chính tiền tiệ Đong An 1997-1998 cũng như thúc đẩy hoạt động mua bán
nợ thì nhiều quốc gia đã sử dụng công ty mua bán nợ quốc gia như Hàn Quốc,
Malaysia. Đây cũng là cách thức được một số nhà nghiên cứu đề xuất như
nghiên cứu của các tác giả Dziobek, C.H và C.Pazarbasioglu (1997) về “Bài
học về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng: Khảo sát 24 nước” (“Lessons from
Systemic Bank Restructuring: A Survey 0f 24 countries), tuy nhiên, không
phải trường hợp nào Công ty mua bán nợ cũng dược sủ dụng để tái cơ cấu
doanh nghiệp, trong một số trường hợp, công ty mua bán nợ chỉ được sử dụng
như một soocng cụ quản lý nợ xấu trong giai đoạn khủng hoảng.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của tác giả Dziobek, C.H về “ Các công cụ
chính sách thị trường đối với tái cơ cấu hệ thống ngân hàng” chỉ ra rằng hoạt
động mua bán nợ và giải pháp tái cơ cấu hệ thống ngân hàng tài chính phụ
thuộc vào từng quốc gia và từng thời kỳ, khó có công thức chung cho tất cả
các quốc gia.

Nghiên cứu của tác giả De Luna –Maztinez, J (2000) về “Quản lý và
giải quyết khủng hoảng ngân hàng” có nêu kinh nghipej của Hàn Quốc và Mê
Hy Cô cho thấy hoạt động mua bán nợ và công cụ xử lý nợ xấu giữa các quốc
gia khoogn giống nhau. Tương tự đối với nghiên cứu của tác gải Klingebiel,
D. (2000) về “ Việc sử dụng các Công ty Quản lý tài sản trong viecj giir quyết
khủng hoảng ngân hàng: Kinh nghiệm qua nhiều quốc gia” tổng kết ưu,
nhược điểm của từng mô hình công ty mua bán nợ, tác giả cho rằng việc lựa
chọn cách thức xử lý nợ phụ thuộc vào bối cảnh từng quốc gia.
Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật bảo
đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng nói chung và xử lý nợ xấu nói riêng.
Cụ thể như: “Pháp luật về hoạt động của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam”
của tác giả Trà Đình Thứ, Luận văn thạc sỹ luật học, 2014. Công trình này đã
trình bày những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về hoạt động của các tổ


6

chức tins dụng trong nước, phân tích sâu các quy đinh của pháp luật hiện hành
về hoạt động xử lý nợ xấu nói chung và hoạt động mua bán nợ nói riêng, trên
cơ sở đó tác giả đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động
ngân hàng. “Pháp luật về mua bán nợ xấu của Ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Tú, Luận văn thạc sỹ, Khoa luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2013. Luận văn đã đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực trạng mô hình công ty mua bán nợ được nhìn nhận như một biện
pháp hữu hiệu cho công tác xử lý nợ tồn đọng tại các NHTM. Trên cơ sở
những bất cập đã chỉ ra trong phần thực trạng, tác giả đưa ra những giải pháp
hoàn thiện pháp luật về công ty mua bán nợ. “Pháp luật về hoạt động mua bán
nợ của VAMC”, tác giả Nguyễn Thu Cúc, Luận văn thạc sỹ, Đai học Kinh tế
TP Hồ Chí Minh, 2017, luận văn đã hệ thống hóa các quy định pháp luật liên

quan đến mua bán nợ của các TCTD, đánh giá thực tiễn hoạt động mua bán
nợ và tính khả thi của các quy định so với điều kiện thực tế nhằm hoàn thiện
hơn nữa hệ thống quy định pháp luật về mua bán nợ là vấn đề cần thiết hiện
nay, đặc biệt là việc nâng cao hiệu quả xử lý nợ thông qua mua bán nợ với
VAMC.
Nghiên cứu của TS. Nguyễn Quốc Hùng (2014) về “Đánh giá sự phù
hợp trong lộ trình, cách thức và hoàn thiện cơ cấu cho VAMC”, nghiên cứu
của TS. Lê Thị Thùy Vân và Ths. Vương Duy Lâm (2015) về “VAMC và vấn
đề xử lý nợ xấu” cũng đã chỉ ra các vấn đề về hoạt động của Công ty Quản lý
tài sản của các TCTD Việt nam (VAMC), những khó khăn thách thức, các giải
pháp để công ty VAMC phát triển, từ đó hỗ trợ việc xử lý nợ xấu trên thị
trường mua bán nợ đạt hiệu quả. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên
thế giới và trong nước
Bên cạnh đó có rất nhiều bài viết đăng trên các sách, báo, tạp chí trong
nước xung quanh vấn đề xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng như: “Xử lý


7

nợ xấu cần lợi dụng xu thế lãi suất thấp” của TS. Nguyễn Đại Lai; “Trao đổi
về giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam”
của Tiến sỹ Lê Quốc Lý - Bộ Kế hoạch và Đầu tư; “Vấn đề xử lý nợ xấu của
của tổ chức tín dụng và của doanh nghiệp” của Tiến sỹ Nguyễn Đình Tài Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương… Các bài viết này đã khảo sát,
nghiên cứu về mặt lý luận và đưa ra các giải pháp mang tính chuyên ngành
kinh tế tài chính, chưa đi sâu về các khía cạnh pháp luật nhằm nâng cao hiệu
quả mua bán nợ xấu của NHTM ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu trên
sẽ là nguồn tài liệu tham khảo quý báu và là cơ sở lý luận giúp cho việc tiếp
cận vấn đề hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động mua bán nợ xấu hiệu
quả ở Việt Nam hiện nay. Phương thức xử lý nợ xấu thông qua hoạt động mua
bán nợ không còn là khái niệm mới đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Ở

Việt Nam, hoạt động này đã diễn ra được một thời gian và ngày càng được
chú trọng. Tuy nhiên, những bất cập, vướng mắc trong hệ thống pháp luật
hiện nay đã tạo ra nhiều 5 thách thức cho hoạt động mua bán nợ. Chính vì
vậy, việc đưa ra một hướng đi chính thống để hoạt động mua bán nợ xấu trở
lên thực sự hiệu quả, giải quyết được vấn đề của các NHTM cũng như của các
doanh nghiệp hiện nay là điều cần thiết ở Việt Nam.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế và tính cấp thiết của việc giải quyết nợ xấu,
đề tài mong muốn đóng góp những ý kiến hoàn thiện hơn về pháp luật mua bán
nợ xấu trên cơ sở phân tích tồn tại thực tế và thiếu xót của pháp luật hiện hành
để từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định này trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm góp phần hoàn thiện lý luận
và thực trạng pháp luật về mua bán nợ xấu của NHTM ở Việt Nam. Phục vụ
cho mục đích trên luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, Nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về mua bán nợ xấu
của NHTM ở Việt Nam.


8

Thứ hai, Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về mua bán nợ xấu
của NHTM ở Việt Nam, từ đó nêu ra các bất cập và một số kiến nghị nhằm bổ
sung và hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.
4. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định hiện hành của pháp luật
điều chỉnh hoạt động mua bán nợ xấu của NHTM ở Việt Nam trong đó bao
gồm các quy định pháp luật về quy trình mua nợ cũng như xử lý nợ xấu của
bên đi mua nợ và sự tác động của các quy định tới thực tiễn hoạt động mua
bán nợ xấu của các NHTM, dẫn chứng, phân tích sâu hoạt động mua bán nợ
của VAMC

Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu tất cả vấn đề về xử lý nợ tồn
đọng của NHTM mà chỉ tập trung vào các quy định liên quan đến việc mua
bán nợ xấu của NHTM và đánh giá thực trạng, nguyên nhân dẫn đến yếu
kém trong thực tiễn áp dụng pháp luật về mua bán nợ xấu của NHTM ở
Việt Nam. Đặc biệt, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn thạc sỹ này, tác
giả tập trung nghiên cứu sâu hơn về hoạt động mua bán nợ của một trong
những chủ thể mua nợ xấu của NHTM phổ biến hiện nay là Công ty quản
lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc NHTM (AMC) và VAMC. Trên cơ sở
đó luận văn đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động
mua bán nợ xấu của các NHTM ở Việt Nam và VAMC cũng như các AMC
trực thuộc NHTM.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu trên đây, dựa trên nền
tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử luận văn đưa ra
một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: hệ thống hoá, phân tích, so sánh,
đối chiếu, phương pháp khảo sát thực tiễn, đánh giá vấn đề và một số phương
pháp nghiên cứu khác.


9

6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham
khảo, Luận văn được thiết kế gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về mua bán nợ xấu và pháp luật về
mua bán nợ xấu của NHTM.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về mua bán nợ xấu của NHTM
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
mua bán nợ xấu của NHTM



10

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MUA BÁN NỢ XẤU VÀ
PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VIỆC MUA BÁN NỢ XẤU TỪ HOẠT
ĐỘNG CHO VAY CUA NHTM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các tiêu chí xác định nợ xấu từ hoạt
động cho vay của các NHTM
1.1.1. Nợ và nợ xấu
Thuật ngữ “nợ xấu” (viết tắt là NPL - Non performing loans) hay còn gọi
là nợ khó đòi hay các khoản vay có vấn đề, được sử dụng phổ biến nhằm ám
chỉ các khoản nợ bị suy giảm khả năng thu hồi hoặc mất khả năng thu hồi.
Hiện nay quan điểm và cách phân loại nợ xấu đã được tiếp cận và giải quyết
dưới nhiều góc độ khác nhau ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam,
quy định về nợ xấu, phân loại nợ đã được ban hành và liên tục hoàn thiện.
Những quy định này về cơ bản là phù hợp với nguyên tắc phân loại nợ của
nhiều quốc gia như Mỹ, Nhật, Singapore, Trung Quốc…, như vậy, để hiểu
được khái niệm nợ xấu, luận văn phân tích khai quát về thuật nợ.
1.1.1.1. Nợ
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì “Nợ là một thuật ngữ thường
được sử dụng trong trường hợp nợ về tài sản. Tuy nhiên, nợ cũng có thể được sử
dụng để chỉ các nghĩa vụ khác. Trong trường hợp nợ tài sản thì nợ là một cách sử
dụng sức mua trước khi kiếm đủ tổng số tiền để trả cho sức mua đó. Các công ty
cũng có thể sử dụng nợ như là một phần trong chiến lược tài chính tổng thể của
mình”.
Nợ, theo cách hiểu thông thường, được hình thành khi một người cho
vay đồng ý cho người vay vay một lượng tài sản nhất định. Trong xã hội hiện
đại, nợ thường được đi kèm với nguyên tắc hoàn trả, sự đảm bảo khả năng
thanh toán với một mức lãi suất nhất định tính theo thời điểm.
Với các tổ chức tín dụng, thì nợ bao gồm: các khoản cho vay, chiết



11

khấu, cho thuê tài chính, các khoản bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
hình thức tín dụng khác. Như vậy, đối với các NHTM, hoạt động tín dụng là
rộng hơn hoạt động cho vay. Theo đó, cấp tín dụng được định nghĩa là việc
thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép
sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay,
chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác. Còn cho vay được định nghĩa là hình thức cấp
tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào một mục đích xác định trong một thời gian nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Tuy nhiên,
trong hoạt động tín dụng, thì cho vay là hoạt động quan trọng nhất và chiếm
tỷ trọng lớn nhất tại các NHTM. Vì vậy, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo
nghĩa rộng khái quát ở trên hoặc theo nghĩa hẹp là cho vay. Do hoạt động này
làm phát sinh một khoản nợ nên bên cấp tín dụng còn gọi là chủ nợ, bên được
cấp tín dụng gọi là khách nợ. Do đó, tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai
bên – bên cấp tín dụng và bên được cấp tín dụng. Quan hệ giữa hai bên ràng
buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cấp tín dụng, lãi suất phải trả.
Trước khi có nợ thì cả hai bên (bên cấp tín dụng và bên được cấp tín dụng)
phải cùng nhau thống nhất phương thức trả nợ (thanh toán). Thông thường
người ta thanh toán bằng tổng số tiền tính theo một đơn vị tiền tệ nào đó, tuy
nhiên cũng có trường hợp thanh toán bằng hàng hóa. Thanh toán có thể được
thực hiện theo phương thức trả lãi trong một khoảng thời gian hoặc trả một
lúc khi kết thúc hợp đồng tín dụng. Nợ về cơ bản đã là một hàng hóa được
mua bán giữa bên cấp tín dụng và bên được cấp tín dụng, sau khi hợp đồng tín
dụng đó có hiệu lực, thì nợ - lúc này được hiểu là quyền của chủ nợ cũng có
thể trở thành một loại hàng hóa.

Từ những nghiên cứu trên đây, có thể kết luận: Nợ là nghĩa vụ phải trả
bằng tiền hoặc tài sản của cá nhân hoặc tổ chức này (gọi là khách nợ) đối


12

với cá nhân hoặc tổ chức khác (chủ nợ). Nợ có thể có tài sản bảo đảm hoặc
không có tài sản bảo đảm.
1.1.1.2. Nợ xấu
Nợ xấu hay nợ khó đòi thường được nhắc đến với các thuật ngữ “bad
debt”, “non-performing loan” (NPL), “doubtful debt”. Thuật ngữ “bad debt” là
một thuật ngữ được dùng khá phổ biến trên báo chí còn trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng, các chuyên gia thường sử dụng thuật ngữ “non-performing loan”
(NPL), trong khi kế toán quốc tế lại hay dùng thuật ngữ “non-accrual loans”
(theo hệ thống chuẩn mực kế toán của Mỹ US GAAP) hay “impaired loans”
(theo Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 39). Tuy nhiên, hiện nay đang tồn tại khá
nhiều khái niệm nợ xấu khác nhau. Có thể nhắc tới một số khái niệm nợ xấu
như sau:
a. Khái niệm nợ xấu:
- Khái niệm nợ xấu theo quan niệm quốc tế
Theo nhóm chuyên gia tư vấn Advisory Expert Group (AEG) của Liên
hiệp quốc cho rằng định nghĩa về nợ xấu không nên mang tính chất mô tả mà
chỉ nên sử dụng như hướng dẫn cho các ngân hàng. AEG thống nhất định
nghĩa như sau: “Một khoản nợ được coi là nợ xấu quá hạn trả lãi và /hoặc
gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được
nhập gốc, tái cấp vốn hoặc chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản vay
phải thanh toán đã quá hạn 90 ngày nhưng chưa có lý do chắc chắc để nghi
ngờ về khả năng thanh toán vay sẽ được thanh toán đầy đủ”
Nói cách khác, nợ xấu được khẳng định trên 02 yếu tố quá hạn 90 ngày;
khả năng trả nợ bị nghi nghờ.

- Theo Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS):
Ủy ban này không đưa ra định nghĩa cụ thể về nợ xấu. Tuy nhiên, trong
các hướng dẫn về các thông lệ chung tại nhiều quốc gia về quản lý rủi ro tín
dụng, BCBS xác định, việc khoản nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả khi


13

một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau đây xảy ra: Ngân hàng thấy người vay
không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì
để cố gắng thu hồi; người vay đã quá hạn trả nợ 90 ngày. Dựa trên hướng dẫn
này nợ xấu sẽ bao gồm toàn bộ các khoản cho vay đã quá hạn 90 và có dấu
hiệu người đi vay không trả được nợ. BCBS cũng đề cập tới các khoản vay bị
giảm giá trị sẽ xảy ra khi thu hồi các khoản thanh toán từ khoản vay là không
thể. Giá trị tổn thất sẽ được ghi nhận bằng cách giảm trừ giá trị khoản vay
thông qua một khoản dự phòng và sẽ được phản ánh trên báo cáo thu nhập
của ngân hàng. Như vậy lãi suất của các khoản vay này sẽ không được cộng
dồn và sẽ chỉ xuất hiện dưới dạng tiền mặt thực tế nhận được.
Còn chuẩn mực Kế toán quốc tế (IAS) về ngân hàng thường đề cập các
khoản 10 nợ bị giảm giá trị (Impaired) thay vì sử dụng thuật ngữ nợ xấu
(nonperforming). Chuẩn mực kế toán IAS 39 được khuyến cáo áp dụng ở một
số nước phát triển vào đầu năm 2005 chỉ ra rằng cần có bằng chứng khách
quan để xếp một khoản vay có dấu hiệu bị giảm giá trị. Trong trường hợp nợ
bị giảm giá trị thì tài sản được ghi nhận sẽ bị giảm xuống những tổn thất do
chất lượng nợ xấu gây ra.
Về cơ bản IAS39 chú trọng tới khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận
thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp đánh giá
khả năng trả nợ của khách hàng thường là phân tích dòng tiền tương lai chiết
khấu hoặc xếp hạng khoản vay của khách hàng. Hệ thống này được coi là chính
xác về mặt lý thuyết, nhưng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, nó

vẫn được Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế chỉnh sửa lại trong IFRS 9.
- Khái niệm nợ xấu của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
Trong Hướng dẫn tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính tại các quốc
gia, IMF đưa ra định nghĩa về nợ xấu như sau: “Một khoản vay được coi là nợ
xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; khi các khoản lãi
suất đã quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại hoặc trì hoẵn


14

theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng có thể
nhận thấy những dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay sẽ không thể hoàn trả
nợ đầy đủ (người vay phá sản). Sau khi khoản vay được xếp vào danh mục nợ
xấu, nó hoặc bất cứ khoản vay thay thế nào cũng nên được xếp vào danh mục
nợ xấu cho tới thời điểm phải xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và gốc của khoản
vay đó hoặc thu hồi được khoản vay thay thế.
Từ những định nghĩa trên có thể thấy được sự tương đồng trong cách
nhận thức về nợ xấu giữa các định chế tài chính trên thế giới. Theo đó, một
khoản nợ được coi là nợ xấu khi xuất hiện 1 hoặc cả 2 dấu hiệu sau:
(1)

Quá hạn trả nợ gốc và lãi;

(2)

Khi khách hàng vay vốn bị tổ chức tín dụng (NHTM ) hoặc ngân

hàng coi là không có khả năng trả nợ. Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền
cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu hồi lại được và bị xóa sổ khổi danh
sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ.

Đối với các ngân hàng, nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng
vay, thường là các doanh nghiệp, mà không thể thu hồi lại được do doanh
nghiệp đó làm ăn thua lỗ hoặc phá sản. Nhìn chung, một doanh nghiệp luôn
phải ước tính trước những khoản nợ xấu trong chu kỳ kinh doanh hiện tại dựa
vào những số liệu nợ xấu ở kì trước.
Nợ xấu là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của các tổ
chức tín dụng, từ đó có thể thấy được sức khỏe tài chính, kỹ năng quản trị rủi ro của
NHTM đó. Nợ xấu tăng cao có thể dẫn đến uy tín của NHTM . Tình trạng này kéo
dài sẽ làm NHTM bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung
và hệ thống tài chính nói riêng. Chính vì vậy, việc nhận diện nợ xấu và xử lý nợ xấu
là một trong những vấn đề quan trọng trong tái cấu trúc hệ thống tài chính.
Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy: Nợ xấu là những khoản nợ quá
hạn trả nợ trên 90 ngày và/hoặc được đánh giá là khó có khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi.


15

b. Đặc điểm nợ xấu của NHTM
Hiện nay mặc dù có nhiều quan niệm về nợ xấu nhưng hầu hết đều thừa
nhận rằng nợ xấu là những khoản nợ khó hoặc mất khả năng thu hồi. Ở mức
độ khái quát, những đặc điểm riêng của nợ xấu bao gồm:
Thứ nhất, Nợ xấu của NHTM chỉ phát sinh trong hoạt động cho vay
của NHTM và thông thường có giá trị lớn. Hoạt động này được diễn ra dưới
hình thức giao dịch giữa hai bên chủ thể, trong đó một bên là các NHTM và
một bên là các cá nhân, tổ chức khác. Đây là điểm khác biệt của nợ xấu so với
các khoản nợ phát sinh trong giao dịch dân sự khác, giữa hai chủ thể là các cá
nhân, tổ chức, không có sự tham gia của các NHTM. Các khoản vay trong
trường hợp này thường là những khoản vay có giá trị lớn, được bảo đảm thực
hiện bằng tài sản là động sản, bất động sản.

Thứ hai, Nợ xấu là những khoản nợ dưới chuẩn. Theo quan niệm của
nhiều quốc gia trên thế giới thì nợ dưới chuẩn được hiểu là nợ đã quá hạn trên
90 ngày mà con nợ vẫn không có dấu hiệu trả được nợ. Như vậy, những
khoản nợ quá hạn đến 90 ngày và con nợ không có dấu hiệu nghi ngờ về khả
năng trả nợ thì vẫn chưa được xem là nợ xấu của ngân hàng.
Thứ ba, Nợ xấu phải là những khoản nợ có bằng chứng nghi ngờ khả
năng trả nợ của con nợ như: Con nợ trong quá trình kinh doanh bị thua lỗ dẫn
đến nguy cơ phá sản, con nợ tẩu tán tài sản, con nợ bất thường chậm trễ và
không có lý do trong việc cung cấp các báo cáo tài chính và trả nợ theo lịch đã
thoả thuận… Như vậy, thời hạn trả nợ cũng như tình trạng của con nợ là hai
yếu tố cơ bản xác định khoản nợ có phải là nợ xấu hay không. Hai yếu tố trên
cũng cho thấy nợ xấu là những khoản nợ khó có khả năng thu hồi hơn so với
các khoản nợ phát sinh trong giao dịch dân sự. Vì nợ xấu thông thường có giá
trị lớn, khó thu hồi nên việc xử lý nợ xấu không đơn thuần là việc trả lại cả gốc
và lãi bằng tiền, tài sản như khoản nợ phát sinh trong giao dịch dân sự mà phải
sử dụng rất nhiều phương thức như cơ cấu lại nợ, mua bán nợ… để thu hồi.


16

1.1.2.

Mua, bán nợ xấu từ hoạt động cho vay của NHTM

a. Khái niệm
Thực tiễn mua, bán nợ trên thế giới cho thấy rằng sự gia tăng hoạt động
mua, bán nợ trên thị trường tài chính lâu nay là do sự gặp gỡ tự nhiên của
nguồn cung các khoản nợ cần bán từ phía các doanh nghiệp và nhu cầu mua
nợ như là một cơ hội kinh doanh của các tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính
chuyên nghiệp như các ngân hàng. Mặt khác, kinh nghiệm điều hành nền kinh

tế thị trường đã làm thay đổi cách nhìn nhận của Chính phủ đối với việc xử lý
các khoản nợ có vấn đề theo xu hướng nới rộng khả năng linh hoạt trong hoạt
động đầu tư của các doanh nghiệp và những định chế tài chính.
Ngày nay, việc mua, bán nợ càng lúc càng thay đổi tuỳ theo nhu cầu phát
triển của thị trường và có thể chứa đựng những tính chất khác hẳn so với các
giao dịch ban đầu của thị trường mua, bán nợ. Hoạt động tín dụng ngân hàng
luôn tìm ẩn nhiều rủi ro khi ngân hàng không thể thu hồi được toàn bộ hoặc
một phần gốc và lãi khi khoản vay đến hạn và khi ngân hàng không thu hồi
được nợ gốc và lãi thì người ta gọi là nợ xấu như phân tích ở phần trên.
Dưới góc độ kinh tế, có thể quan niệm hoạt động bán nợ của NHTM
như là một phần của hoạt động kinh doanh tiền tệ, trong đó NHTM đóng vai
trò là người huy động vốn. Bản chất kinh tế của hoạt động mua, bán nợ nói
chung và hoạt động bán nợ của NHTM nói riêng thực chất là những hoạt
động tín dụng với đây đủ ý nghĩa đích thực cùa nó, cả về nội dung và công
dụng. Như đã trình bày ở trên, NHTM đóng vài trò là nơi cấp tín dụng cho
nền kinh tế, chính vì vậy khi các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không thanh
toán được nợ cho ngân hàng thì những khoản nợ xấu của doanh nghiệp cần
phải được xử lý. Nếu ngân hàng không bán nợ cho nhà đầu tư, thì khoản vốn
cho vay không có khả năng thu hồi dẫn đến tình trạng mất chủ sở hữu kéo
theo rất nhiều hệ lụy. Chính vì vậy giải pháp khả thi nhất rong trường hợp này


17

là bán nợ.
Về lý thuyết, hoạt động bán nợ của NHTM nhằm thu hồi lại một phần
vốn tồn đọng trong các hợp đồng tín dụng đã ký trước đó với khách hàng. Đặc
thù của hoạt động bán nợ của NHTM là NHTM thường chào bán các khoản
nợ xấu, các khoản nợ không có khả năng hoặc ít có khả năng thu hồi. Vì thế
trong giao dịch bán nợ, thông thường bên bán bao giờ cũng chỉ nhận được

mức giá thấp hơn so với giá trị thực tế của khoản nợ xấu. Giống như bất kỳ
loại hàng hóa nào khác, các khoản nợ - với vai trò là một loại hàng hóa đặc
biệt, luôn luôn vận động theo các nguyên tăc và quy luật của thị trường, bao
gồm nguyên tắc thỏa thuận, nguyên tắc tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa chi
phí; các quy luật cơ bản như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật
cung cầu... Quan điểm kinh tế về hoạt động bán nợ là cơ sở để khoa học pháp
lý đưa ra định nghĩa về hoạt động bán nợ.
Dưới góc độ pháp lý, hoạt động bán nợ của NHTM là một giao dịch
hợp đồng, theo đó NHTM thỏa thuận với bên mua về việc bán các khoản nợ.
Như vậy hoạt động bán nợ là một quan hệ pháp luật với đầy đủ các thành
phần cơ bản như: chủ thể, khách thể, đối tượng và nội dung của quan hệ pháp
luật (quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong hợp đồng mua, bán nợ) cụ
thể là:
- Trong hợp đồng mua, bán nợ sự thỏa thuận giữa NHTM với bên mua
nợ được thể hiện dưới hình thức pháp lý là hợp đồng mua, bán nợ.
- Đối tượng được bán là các khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng tín
dụng giữa TXTD với khách hàng. Thực chất, mục đích bên mua nợ mong
muốn có được trong giao dịch này chính là quyền đòi nợ đối với các khoản
phải thu được chuyển giao từ phía các NHTM.
- Trong giao dịch bán nợ của NHTM, có sự chuyển giao quyền và nghĩa
vụ phát sinh từ các khoản nợ giữa bên bán (NHTM) với bên mua. Theo thỏa
thuận này, bên bán phải chuyển giao quyền đòi nợ đồng thời cũng chuyển


18

giao cả nghĩa vụ gánh chịu những rủi ro phát sinh từ những khoản nợ cho bên
mua. Ngoài ra bên bán có quyền nhận thanh toán và có nghĩa vụ chuyển giao
toàn bộ các giấy tờ tài liệu liên quan đến khoản nợ cho bên mua.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra khái niệm về hoạt động mua, bán nợ

từ hoạt động cho vay của các NHTM như sau: Hoạt động mua, bán nợ của tổ
chức tín dụng được thực hiện thông qua hợp đồng, theo đó tổ chức tín dụng
chuyển giao quyền chủ nợ và tài sản bảo đảm các khoản nợ (nếu có) cho bên
mua nợ, còn bên mua nợ có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận.
Thực chất, của việc mua bán, nợ đó là việc chuyển nhượng lại "quyền
thu hồi nợ" từ một "khoản nợ phải thu" của bên bán nợ (chủ nợ) đối với khách
nợ sang cho Bên mua nợ, để Bên mua nợ trở thành chủ nợ mới của bên Khách
nợ. Như vậy, hoạt 16 động mua bán nợ được thực hiện đối với các khoản nợ
phải thu (của bên chủ nợ) mà không phải là nợ phải trả (của bên khách nợ).
b. Đặc điểm của hoạt động mua, bán nợ từ hoạt động cho vay của
NHTM
Về lý thuyết, hoạt động mua, bán nợ của NHTM có những điểm giống
nhau cơ bản so với hoạt động mua, bán nợ nói chung, như chủ thể là bên mua
nợ và bên bán nợ; đối tượng mua bán là các khoản nợ - quyền tài sản; hình
thức pháp lý của quan hệ mua, bán nợ là hợp đồng mua bán nợ… Tuy nhiên,
ngoài những điểm giống cơ bản nêu trên, hoạt động mua, bán nợ của NHTM
còn có những đặc điểm riêng như sau:
Một là, NHTM là bên bán nợ hoặc là bên mua nợ là chủ thể đặc biệt của
nền kinh tế. Bởi:
(1)

NHTM với tư cách là bên cấp vốn cho nền kinh tế, có mặt hầu hết

trong các quan hệ vay nợ của doanh nghiệp;
(2)

Địa vị pháp lý đặc biệt của NHTM: là định chế trung gian, người đi

vay để cho vay. Vì vậy, khi các NHTM thực hiện bán nợ thì đây là một hình
thức xử lý tài chính trong quá trình kinh doanh làm tăng nguồn vốn để đối



19

phó với những rủi ro bên ngoài;
(3)

NHTM là chủ thể kinh doanh có điều kiện nên phải bảo đảm một số điều

kiện nhất định như: phải có vốn pháp định; phải được NHNN cấp giấy phép hoạt
động ngân hàng trước khi tiến hành đăng ký kinh doanh theo luật định.
Hai là, đối tượng của hoạt động mua, bán nợ của NHTM là các khoản nợ
phát sinh từ hoạt động cho vay. Các khoản nợ này có thể là nợ trong hạn, nợ
quá hạn, nợ có tài sản bảo đảm hoặc không có tài sản bảo đảm được phân loại
theo Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 ban hành quy định
về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng của NHTM và được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số
18/2007/QĐ – NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2007.
Ba là, giao dịch mua, bán nợ của NHTM chỉ có thể được xác lập dựa
trên một giao dịch cơ sở đã được thực hiện (đó chính là hợp đồng cho vay
hoặc hợp đồng cấp tín dụng giữa NHTM với khách hàng).
Hệ quả của các giao dịch cơ sở này là xác lập quyền chủ nợ của NHTM
đối với bên nợ và giao dịch này được xem là yếu tố tạo ra hàng hóa (các
khoản nợ) cho thị trường mua, bán nợ. Nó là đặc trưng cơ bản để phân biệt
hoạt động mua, bán nợ của NHTM với hoạt động mua, bán tài sản và các
quyền tài sản khác trong giao dịch dân sự, thương mại. Do quyền đòi nợ phát
sinh từ một giao dịch trước đó nên khi thực hiện hoạt động mua, bán nợ, bên
mua nợ phải tiến hành kiểm tra phân tích toàn diện về giao dịch cơ sở đã làm
phát sinh quyền đòi nợ để đánh giá tính hợp pháp của giao dịch này, trên cơ
sở đó xác định tính hợp pháp của khoản nợ được mua bán.

Bốn là, quan hệ mua, bán nợ của NHTM được tạo lập thông qua hợp
đồng và tùy thuộc vào việc được chủ thể nào mua nợ để xác định quy chế
pháp lý giải quyết tranh chấp giữa các bên khi tham gia vào hoạt động bán nợ.
Năm là, giao dịch mua, bán nợ là một giao dịch chứa đựng rủi ro rất cao.
Điều này thể hiện rất rõ ở đặc điểm: Khi bên bán nợ bán khoản nợ cùng


×