Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Luận văn thạc sỹ - Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.86 KB, 80 trang )

LƯƠNG THỊ THU TRANG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG
LAO ĐÔNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

LƯƠNG THỊ THU TRANG

2016 - 2018

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG LAO
ĐỘNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC GIANG

LƯƠNG THỊ THU TRANG

CHUYÊN NGÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ



: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS.NGUYỄN XUÂN THU


HÀ NỘI - 2018

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Đào tạo sau Đại học - Viện đại học Mở Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Đào tạo sau đại học-Viện đại
học Mở Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lương Thị Thu Trang


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh
sự nỗ lực, cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý thầy cô,
cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình, bạn bè và đồng nghiệp trong suốt thời
gian học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến thầy TS.Nguyễn Xuân Thu, người đã
hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này. Xin
chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô khoa Đào tạo sau Đại học

-Viện đại học Mở Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như
tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu cho
đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Hà Nội, ngày 19 tháng 10 năm 2018
Học viên thực hiện

Lương Thị Thu Trang


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU..................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG LAO ĐỘNG VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT.......................5
1.1. Khái niệm, đặc điểm bồi thường thiệt hại trong lao động.............................5
1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại trong lao động...........................................5
1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại trong lao động......................................6
1.1.3. Sự khác biệt giữa bồi thường thiệt hại trong luật lao động với bồi thường
trong luật dân sự...................................................................................................7
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động......................10
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động........10
1.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động.....11
Kết luận chương 1.................................................................................................23
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI TRONG LAO ĐỘNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BẮC GIANG......................................................................................24
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại trong lao động....24

2.2.1. Các trường hợp bồi thường thiệt hại trong lao động.................................24
2.1.2. Giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại trong lao động...................42
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động trên
địa bàn tỉnh Bắc Giang..........................................................................................43
2.2.1. Những kết quả đạt được............................................................................44
2.2.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân..............................................................49
Kết luận chương 2.................................................................................................58
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG LAO ĐỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH BẮC GIANG......................................................................................59


3.1. Những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động.......................................59
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động và
nâng cao hiệu quả thi hành trên địa bàn tỉnh Bắc Giang...................................60
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động.....60
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Giang........................................................63
Kết luận chương 3.................................................................................................68
KẾT LUẬN............................................................................................................69
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................70


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Nghĩa của từ viết tắt

BLLĐ


Bộ luật lao động

LLĐ

Luật lao động

BTTH

Bồi thường thiệt hại

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, quan hệ pháp luật lao động
được coi là một trong số những quan hệ pháp luật phổ biến và quan trọng. Khi tham
gia vào quan hệ lao động, các chủ thể có khả năng gặp rủi ro gây thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe, tinh thần… mà nguyên nhân có thể là do chủ quan hoặc khách

quan gây ra. Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại,
BLLĐ năm 2012 đã quy định cụ thể các trường hợp về BTTH trong quan hệ lao
động, ví dụ như: BTTH do đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật; bồi thường
thiệt hại về tiền lương; bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng; bồi thường thiệt
hại về tài sản của NSDLĐ…
BLLĐ năm 2012 và các văn bản hướng dẫn đã từng bước hoàn thiện chế
định về bồi thường thiệt hại trong LLĐ. Trong bối cảnh thị trường lao động thường
có biến động theo cung cầu, việc phát sinh những mâu thuẫn về quyền và lợi ích
giữa các bên là khó tránh khỏi. Thực tế, tình hình tranh chấp về lao động đang diễn
ra ngày càng phức tạp và có chiều hướng gia tăng về số lượng gây ảnh hưởng đến
đời sống của người lao động, danh dự, uy tín của người sử dụng lao động. Để xây
dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên trong quan hệ lao động thì việc xây dựng chế định về bồi thường thiệt
hại có ý nghĩa hết sức quan trọng. BLLĐ năm 2012 đã ghi nhận một số thay đổi về
nguyên tắc xử lý bồi thường thiệt hại, quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
người lao động theo tỷ lệ thương tật, thay đổi mức tính bồi thường thiệt hại theo
lương tối thiểu vùng… Tuy nhiên, các quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại
trong lao động hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc, việc áp dụng các quy định về bồi
thường thiệt hại trong lao động vào thực tế vẫn còn nhiều bất cập. Hiện nay, do tính
chất phức tạp của quan hệ lao động nên các tranh chấp lao động về BTTH phát sinh
ngày càng nhiều, gây ảnh hưởng đến đời sống của người lao động, danh dự, uy tín
của NSDLĐ. Do đó, yêu cầu đặt ra là cần phải hệ thống hóa được các trường hợp
BTTH hiện nay theo LLĐ, quy định chặt chẽ về cơ sở bồi thường; mức bồi thường;
giải quyết các tranh chấp về bồi thường, đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của các chủ

1


thể. Tác giả chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động từ
thực tiễn tỉnh Bắc Giang” sẽ góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật về các trường

hợp BTTH trong lao động, thực tiễn áp dụng các quy định về bồi thường thiệt hại
trong lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Giang và đưa ra một số kiến nghị, giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả của các chế định này trong thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Pháp luật về BTTH trong lĩnh vực lao động là một vấn đề có ý nghĩa quan
trọng trong việc đảm bảo quan hệ lao động được hài hòa, ổn định, tiến bộ. Đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ lao động. Từ khi BLLĐ năm
2012 ra đời, các công trình nghiên cứu trước đây thường chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu một số khía cạnh của BTTH trong lao động, ví dụ như:
- Nghiên cứu “Chế độ bồi thường trong Luật Lao động Việt Nam” (2006), tác
giả PGS.TS Nguyễn Hữu Chí - chủ biên. Tác giả đề cập đến vấn đề bồi thường
trong LLĐ theo quy định hiện hành. Từ đó, chỉ rõ những khó khăn, vướng mắc
trong quá trình thực hiện và phương hướng hoàn thiện đối với vấn đề này.
- Luận văn “Bồi thường thiệt hại trong pháp luật lao động Việt Nam và thực
tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” (2014) của tác giả Nguyễn Thị Bích
Nga - Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả đã tập trung nêu rõ một số vấn đề lý luận
về BTTH và điều chỉnh của pháp luật lao động. Đi sâu nghiên cứu về lịch sử hình
thành và phát triển pháp luật về BTTH trong pháp luật lao động. Thực trạng thi
hành các quy định về BTTH trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả BTTH trong pháp luật lao động Việt Nam.
- Luận văn “Trách nhiệm vật chất trong Luật lao động Việt Nam – thực trạng
và phương hướng hoàn thiện” (2010) của tác giả Nguyễn Thị Hường – Đại học
Quốc gia Hà Nội. Trong đó, luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ
các quy định của pháp luật lao động Việt Nam liên quan đến trách nhiệm vật chất,
vấn đề trách nhiệm vật chất trong kỷ luật lao động và vai trò quan trọng của trách
nhiệm vật chất đối với doanh nghiệp, so sánh với pháp luật lao động về trách nhiệm
vật chất của một số nước trên thế giới. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng để
đưa ra các đánh giá tổng quan về thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm vật
chất và nêu lên các kiến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc hoàn thiện về


2


vấn đề này và xây dựng cơ chế cho việc áp dụng chúng một cách phù hợp với pháp
luật và tập quán quốc tế.
Ngoài ra, cũng có thể kể đến một số nghiên cứu có liên quan khác như: Luận
văn “Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động – những vấn đề lý luận
và thực tiễn” (2013) của tác giả Nguyễn Thị Hoa Tâm – Đại học Luật thành phố Hồ
Chí Minh; luận văn “Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án theo pháp luật Việt
Nam”(2012) của tác giả Lê Thị Hường – Đại học Quốc gia Hà Nội; luận văn “An
toàn lao động và vệ sinh lao động theo pháp luật lao động Việt Nam” (2013) của tác
giả Cấn Thị Thùy Dung – Đại học Quốc gia Hà Nội…
Tuy nhiên, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu dưới một góc độ của pháp
luật về BTTH trong lao động chứ chưa có cái nhìn toàn diện, bao quát về bồi
thường thiệt hại trên thực tế cũng như trong giải quyết tranh chấp về bồi thường
thiệt hại trong lao động. Do vậy luận văn này hy vọng có thế đưa ra một góc nhìn
tổng quát, chuyên sâu về hệ thống các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường
thiệt hại trong lao động, giải quyết tranh chấp về BTTH, đánh giá thực trạng thực
hiện chế định về bồi thường thiệt hại trong lao động tại tỉnh Bắc Giang. Từ những
bất cập, vướng mắc và đề xuất giải pháp nằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp
luật về BTTH trong điều kiện hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần đánh giá thực trạng các quy
định pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động và thực tiễn thi hành trên địa
bàn tỉnh Bắc Giang. Từ đó kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Để đạt được những mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về bồi thường thiệt hại trong lao động;
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam về vấn đề bồi thường thiệt hại
trong lao động;

- Nghiên cứu tình hình thi hành pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao
động trên địa bàn tỉnh Bắc Giang;
- Nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại và
nâng cao hiệu quả thi hành trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.

3


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong LLĐ; thực tiễn thi hành pháp
luật về bồi thường thiệt hại trong lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào các nội dung: Các trường hợp
bồi thường thiệt hại trong lao động; giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại
trong lao động; thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phép biện chứng duy vật của
triết học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm phương pháp luận cho việc
nghiên cứu. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp so sánh, chứng minh... để nghiên cứu các vấn đề thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài theo nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của Luận văn
Kêt quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu ích sử
dụng cho việc học tập khi nghiên cứu những vấn đề về bồi thường thiệt hại trong
lao động, đồng thời nó cũng có giá trị nhất định đối với các cơ quan tổ chức trong
việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện những quy định về bồi thường thiệt hại trong
lao động.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại trong lao động và sự
điều chỉnh của pháp luật
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại trong lao
động và thực tiễn thi hành trên địa bàn Tỉnh Bắc Giang
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động và
nâng cao hiệu quả thi hành trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG LAO ĐỘNG VÀ
SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm, đặc điểm bồi thường thiệt hại trong lao động
1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại trong lao động
Quá trình tồn tại và phát triển các mối quan hệ xã hội của từng cá nhân đều
có khả năng gặp phải những rủi ro, thiệt hại về vật chất, tinh thần, nặng hơn có thể
là thiệt hại về sức khỏe, tính mạng. Nguyên nhân có thể do lỗi chủ quan hoặc khách
quan. Thiệt hại có thể phân làm hai loại là thiệt hại về vật chất (gồm những tài sản
bị mất, bị hủy hoại, bị hư hỏng, chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại
cùng hoa lợi, lợi tức không thu được mà đáng lẽ phải thu được và những tổn thất về
tinh thần như danh dự, uy tín, tên tuổi, nhân thân là những yếu tố có vai trò trong
việc tạo lập, duy trì và phát triển các mối quan hệ cá nhân và cộng đồng của chủ thể
bị xâm hại.
Bồi thường là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó khi một người vi
phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho chủ thể khác nhằm khôi phục tình
trạng tài sản, bù đắp, khắc phục tổn thất về vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại.
Vấn đề bồi thường thiệt hại được quy định khá chi tiết trong các ngành luật

khác nhau như: Luật dân sự, luật Hình sự, luật Lao động, luật Thương mại… thông
qua đó, Nhà nước đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể khi tham gia các quan
hệ pháp luật khác nhau.
Với quan điểm phân hệ thống pháp luật thành các ngành luật thì vấn đề bồi
thường thiệt hại thường được xem như lĩnh vực đặc trưng của luật dân sự. Tuy
nhiên, đây là loại chế định có phạm vi rộng, liên quan đến nhiều loại quan hệ pháp
luật khác nhau. Nếu quan hệ bồi thường phát sinh do một trong các bên của quan hệ

5


lao động gây thiệt hại cho bên kia khi thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động thì do
LLĐ điều chỉnh [23, tr.23].
Trong giáo trình LLĐ của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng không đưa ra
khái niệm đầy đủ về bồi thường thiệt hại trong lao động mà chỉ đưa ra khái niệm về
bồi thường thiệt hại vật chất trong quan hệ lao động như sau: “Bồi thường thiệt hại
vật chất trong quan hệ lao động là nghĩa vụ của NLĐ phải bồi thường những thiệt
hại về tài sản cho NSDLĐ do hành vi vi phạm kỷ luật lao động, vi phạm hợp đồng
trách nhiệm gây ra” [23, tr.323].
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Chí thì “Bồi thường thiệt hại trong LLĐ là một
loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi một bên trong quan hệ lao động có hành vi vi
phạm nghĩa vụ, gây thiệt hại cho bên kia nhằm khôi phục tình trạng tài sản, bù đắp
tổn thất về tinh thần, sức khỏe cho người bị thiệt hại [16, tr.45].
Từ những nghiên cứu về bồi thường thiệt hại ở những góc độ pháp luật khác
nhau, có thể đưa khái niệm chung về bồi thường thiệt hại trong lao động như sau:
Bồi thường thiệt hại trong lao động là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi
một bên chủ thể trong quan hệ lao động hoặc quan hệ liên quan đến quan hệ lao
động, có hành vi trực tiếp hay gián tiếp gây thiệt hại cho chủ thể bên kia, nhằm bù
đắp những tổn thất về vật chất, sức khỏe, tinh thần cho bên bị thiệt hại.
1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại trong lao động

Bồi thường thiệt hại trong lao động là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh
từ quan hệ lao động nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý như: Do cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng; áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm
pháp luật; luôn mang đến hậu quả bất lợi cho chủ thể bị áp dụng và được bảo đảm
thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế Nhà nước… thì bồi thường thiệt hại trong lao
động còn mang những đặc điểm riêng sau đây:
Về cơ sở pháp lý
Bồi thường thiệt hại trong lao động là một loại trách nhiệm pháp lý chịu sự
điều chỉnh của pháp luật lao động. Quan hệ bồi thường phát sinh khi một bên chủ
thể trong quan hệ lao động gây thiệt hại cho bên kia và bên bị thiệt hại có yêu cầu
bồi thường.

6


Về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
Bồi thường thiệt hại trong lao động chỉ được đặt ra khi thỏa mãn các điều
kiện nhất định như: Có thiệt hại xảy ra; có hành vi vi phạm pháp luật lao động gây
thiệt hại; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và sự thiệt hại xảy ra;
có lỗi của người vi phạm. Đây là những điều kiện phải chứng minh khi áp dụng
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động. Tuy nhiên pháp luật lao
động với điểm đặc thù là bảo vệ người lao động nên việc quy định về chế độ bồi
thường thiệt hại trong lao động cũng có điểm khác biệt so với các ngành luật khác.
BLLĐ năm 2012 quy định có trường hợp NSDLĐ không có lỗi nhưng về nguyên
tắc vẫn phải bồi thường cho người lao động hoặc có trường hợp người lao động vi
phạm kỷ luật lao động gây thiệt hại nhưng người sử dụng lao động không thể áp
dụng trách nhiệm vật chất đối với họ.
Về chủ thể bị áp dụng trách nhiệm
Ngoài người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì BTTH trong lao động còn
được áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành

niên, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp
nhân gây ra thiệt hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành
niên, các trung tâm bảo trợ người khuyết tật gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ
sở dạy nghề…
1.1.3. Sự khác biệt giữa bồi thường thiệt hại trong luật lao động với bồi thường
trong luật dân sự
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh
Nếu như Bộ luật dân sự điều chỉnh các quan hệ về nhân thân và tài sản của
cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý
chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự)
thì LLĐ điều chỉnh quan hệ lao động giữa NLĐ làm công ăn lương với NSDLĐ và
các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động, trong đó quan hệ lao
động được coi là nền tảng, tiền đề của nhiều quan hệ khác có liên quan.
Các quan hệ lao động đó được thiết lập dưới hình thức HĐLĐ. Mặc dù đều
là mối quan hệ thiết lập trên cơ sở thỏa thuận tự nguyện, bình đẳng nhưng điểm

7


khác biệt cơ bản giữa HĐLĐ với hợp đồng dân sự là ở chỗ đối tượng của HĐLĐ
không phải hoàng hóa dịch vụ thông thường mà là việc làm, là sức lao động, nó
được coi là một thứ hàng hóa đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. Việc ký kết
HĐLĐ gắn liền với tư cách cá nhân, có tính chất đích danh nên các chủ thể không
thể chuyển giao quyền và nghĩa vụ lao động của họ cho người khác.
BTTH trong pháp luật lao động chỉ phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động,
dưới hình thức HĐLĐ. Trách nhiệm BTTH trong pháp luật dân sự không chỉ phát
sinh dựa trên quan hệ dân sự (hợp đồng dân sự) mà có thể phát sinh từ hành vi gây
thiệt hại ngoài hợp đồng, có nghĩa là giữa các bên không cần tồn tại một quan hệ
hợp đồng nào cả cũng có thể phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu như
hành vi đó trái pháp luật và gây thiệt hại cho chủ thể khác. Mặt khác, chủ thể trong

quan hệ BTTH trong pháp luật lao động chỉ có thể là NLĐ, NSDLĐ trong khi đó
chủ thể tham gia quan hệ bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự có thể là cá
nhân, tổ chức bất kỳ thỏa mãn điều kiện của Luật dân sự.
Thứ hai, về chế độ bồi thường thiệt hại
Xuất phát từ những đặc trưng nêu trên nên vấn đề BTTH trong quan hệ lao
động cũng mang những nét tương đồng và khác biệt so với BTTH trong quan hệ
dân sự. Phát sinh trong quan hệ hợp đồng gắn liền với hành vi vi phạm và lỗi của
người vi phạm là những đặc điểm chung của BTTH trong tất cả các ngành luật. Bên
cạnh đó, bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động còn có một số điểm khác biệt
so với trách nhiệm BTTH trong các quan hệ khác. Cụ thể như sau:
- BLLĐ năm 2012 được ban hành với rất nhiều quy định được sửa đổi bổ
sung theo hướng bảo vệ quyền lợi của NLĐ, đề cao quyền con người. Thông
thường, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của LLĐ
cũng như trong Luật dân sự đều đòi hỏi bốn yếu tố: Hành vi vi phạm; thiệt hại về
tài sản; quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm với thiệt hại xảy ra và có lỗi của
người vi phạm.
Tuy nhiên, căn cứ để xác định hành vi vi phạm trong LLĐ không chỉ bao
gồm các cam kết trong hợp đồng, quy định của pháp luật mà còn là quy định trong

8


nội quy đơn vị sử dụng lao động. Đặc biệt là khi NSDLĐ áp dụng trách nhiệm vật
chất đối với NLĐ, nếu không có nội quy lao động quy định trước thì NSDLĐ không
thể áp dụng trách nhiệm vật chất với NLĐ mặc dù có thể NLĐ có hành vi vi phạm
gây thiệt hại cho NSDLĐ. Đây là quy định thể hiện nguyên tắc đặc thù của LLĐ là
bảo vệ NLĐ.
- Trong trách nhiệm bồi thường do vi phạm Luật dân sự hầu như tất cả các
trường hợp thì lỗi cố ý hay vô ý đều không ảnh hưởng đến việc xác định trách
nhiệm cũng như mức độ bồi thường thiệt hại. Còn đối với quan hệ BTTH trong

LLĐ thì việc xác định lỗi cố ý hay vô ý có ảnh hưởng lớn đến việc xác định trách
nhiệm BTTH. Trừ một số trường hợp cụ thể LLĐ quy định khi không có yếu tố lỗi
nhưng NSDLĐ vẫn phải bồi thường cho NLĐ.
Thứ ba, về nguyên tắc bồi thường
Nguyên tắc BTTH theo quy định của LLĐ có sự khác biệt cơ bản so với các
quy định của Luật dân sự. Trong quan hệ dân sự thì chủ thể gây thiệt hại trái pháp
luật phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra, bao gồm cả những thiệt hại
trực tiếp và thiệt hại gián tiếp, trong khi đó BLLĐ quy định người gây thiệt hại có
thể bồi thường một phần thiệt hại hoặc toàn bộ thiệt hại. Đồng thời, người gây thiệt
hại chỉ phải bồi thường những thiệt hại trực tiếp từ hành vi vi phạm của mình chứ
không phải bồi thường những thiệt hại gián tiếp.
Thứ tư, về thủ tục áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Về thủ tục áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trong Luật dân sự
nguyên tắc có tính xuyên suốt chỉ đạo trong quá trình giải quyết bồi thường thiệt hại
là đơn giản, nhanh gọn… trong khi thủ tục áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong LLĐ lại theo một trình tự phức tạp, trong đó có sự tham gia của Công đoàn-tổ
chức đại diện cho tập thể NLĐ. Việc thực hiện trách nhiệm bồi thường cũng có sự
đặc biệt, đối với NSDLĐ, nguyên tắc là bồi thường toàn bộ thiệt hại và bồi thường
1 lần, còn đối với NLĐ thì có thể chỉ bị trừ dần vào lương hàng tháng với tỷ lệ
không quá 30% lương tháng.

9


1.2. Điều chỉnh pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động
Khái niệm pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động
Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động là một bộ phận của pháp luật
lao động. Nó bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội phát sinh về bồi

thường thiệt hại và giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại trong lao động.
Về phương diện pháp lý, trong quan hệ lao động, khi NLĐ và NSDLĐ xác
lập một quan hệ lao động thì giữa họ xuất hiện quan hệ nghĩa vụ. Nghĩa vụ này có
thể do pháp luật quy định hoặc do các bên tự thỏa thuận với nhau trong hợp đồng
lao động. Do đó, khi một bên vi phạm nghĩa vụ (không thực hiện, hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ) gây thiệt hại cho bên kia về tính mạng, sức khỏe, tài
sản… thì phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp luật đã dự liệu trước đó,
đó là trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Như vậy, pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động là cơ sở pháp lý để
mọi cá nhân, tổ chức, thành phần kinh tế đều được bình đẳng trong quan hệ lao
động. Đối với NLĐ, bồi thường thiệt hại giúp bảo đảm về quyền và lợi ích cho bản
thân NLĐ và gia đình họ khi tham gia vào quan hệ lao động. Nội dung của pháp
luật về BTTH trong lao động bao gồm tổng thể các quy định của pháp luật có liên
quan như: Các trường hợp BTTH trong lao động; căn cứ áp dụng trách nhiệm
BTTH trong lao động…
Vai trò của pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động
Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật về bồi thường
thiệt hại trong lao động cũng có những vai trò của pháp luật nói chung và cũng có
những vai trò mang nét đặc trưng riêng của nó, được thể hiện cụ thể như sau:
Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động là căn cứ pháp lý để đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên trong quan hệ lao động, là cơ sở để thỏa
thuận các quyền và nghĩa vụ cụ thể cho phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế
của các bên trong quan hệ lao động, là một trong các căn cứ để giải quyết tranh
chấp lao động khi xảy ra mâu thuẫn.

10


Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động là cơ sở pháp lý cho việc
thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực lao động.

Việc thanh tra, giám sát được thực hiện thường xuyên, định kỳ hoặc đột xuất theo
các văn bản do Nhà nước ban hành, còn việc xử lý vi phạm được áp dụng cho mọi
tổ chức cá nhân có hành vi vô ý, hoặc cố ý vi phạm trong lĩnh vực lao động.
Có thể thấy pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực lao động hiện
nay có vai trò hết sức quan trọng, nó thể hiện được sự quan tâm của Nhà nước trong
lĩnh vực lao động ngày càng được nâng cao. Nhìn chung, pháp luật về bồi thường
thiệt hại trong lao động đã tạo hành lang pháp lý để các chủ thể trong quan hệ lao
động thực hiện đầy đủ, triệt để các quy phạm pháp luật, tạo cơ sở vững chắc cho
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về lao động.
1.2.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về bồi thường thiệt hại trong lao động
1.2.2.1. Nguyên tắc thực hiện bồi thường thiệt hại trong lao động
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại theo LLĐ được hiểu là những tư tưởng chỉ
đạo có tính chất bắt buộc, xuyên suốt các quy phạm pháp luật lao động về bồi
thường thiệt hại trong các quan hệ pháp luật lao động. Những nguyên tắc này cũng
là những tư tưởng có tính chất định hướng đối với hoạt động giải quyết tranh chấp
về bồi thường thiệt hại trong thực tế. Cụ thể là những nguyên tắc sau đây:
- Bồi thường thiệt hại thực tế và kịp thời
Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong việc giải quyết vấn đề bồi
thường thiệt hai nói chung, vấn đề bồi thường thiệt hại theo LLĐ nói riêng bởi căn
cứ đầu tiên để xác định trách nhiệm bồi thường là phải có thiệt hại về tài sản hoặc
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe… về mặt thực tế, để xác định chính xác mức độ bồi
thường nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên.
Trong quan hệ pháp luật lao động, khi một bên gây thiệt hại cho bên kia về
tài sản, tính mạng, sức khỏe, bên bị thiệt hại có quyền yêu cầu được bồi thường theo
đúng những thiệt hại thực tế mà họ phải gánh chịu. Nghĩa là bên gây thiệt hại làm
tổn hại, mất mát, hư hỏng hoặc giảm sút về giá trị vật chất ở mức nào thì phải bồi
thường theo thời giá thị trường những thiệt hại thực tế mà tại thời điểm xảy ra thiệt
hại đã xác định. Việc xác định nguyên tắc bồi thường này nhằm đảm bảo tính công

11



bằng của pháp luật, tạo niềm tin cho mọi công dân về công lý và công bằng xã hội.
Tuy nhiên, trong trường hợp NLĐ bị thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, việc xác định
mức thiệt hại thực tế rất khó chính xác. Do đó, việc bồi thường của NSDLĐ trong
trường hợp này chỉ là một biện pháp nhằm bảo vệ NLĐ trong quan hệ lao động như:
Bố trí việc làm phù hợp; trả lương trong thời gian điều trị tai nạn lao động hoặc
bệnh nghề nghiệp; bồi thường theo mức luật định…
Cũng theo nguyên tắc này, việc giải quyết bồi thường theo LLĐ cần được
thực hiện nhanh chóng, kịp thời. Có như vậy mới kịp thời khôi phục các quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của bên bị thiệt hại. Bồi thường kịp thời có ý nghĩa to
lớn trong việc giúp người bị thiệt hại nhanh chóng khắc phục khó khăn, ổn định
cuộc sống hay sản xuất, đặc biệt đối với những trường hợp bồi thường thiệt hại về
sức khỏe đối với người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp – là những người
gặp khó khăn do mất thu nhập và phải điều trị thương tật. Nguyên tắc bồi thường
nhanh chóng, kịp thời đối với các thiệt hại còn thể hiện tính chất dân chủ và công
bằng. Trên cơ sở đó tạo cho bên gây thiệt hại ý thức trách nhiệm và tôn trọng quyền
lợi của phía bên kia.
- Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải căn cứ vào lỗi của người
gây thiệt hại
Lỗi được xem là thước đo của trách nhiệm pháp lý, nó là kết quả của sự tự
lựa chọn và quyết định của một chủ thể trong khi chủ thể đó có đủ điều kiện khách
quan và chủ quan để lựa chọn một xử sự khác phù hợp hơn với yêu cầu của xã hội.
Nhưng vì chủ thể đã lựa chọn và thực hiện hành vi gây thiệt hại nên chủ thể đó sẽ bị
coi là có lỗi trong hành vi trái pháp luật gây thiệt hại của mình. Lỗi trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của LLĐ cũng như trong Luật dân sự được chia làm hai
loại là lỗi vô ý và lỗi cố ý. Lỗi cố ý là lỗi của một bên nhận thức rõ hành vi của
mình vi phạm pháp luật lao động và sẽ gây thiệt hại cho phía bên kia mà vẫn thực
hiện dù mong muốn hoặc không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho thiệt hại
xảy ra. Lỗi vô ý là lỗi của một bên không thấy trước được hành vi của mình có khả

năng gây ra thiệt hại cho bên kia dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy
ra nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

12


Tuy nhiên pháp luật lao động với điểm đặc thù là bảo vệ NLĐ nên những
quy định về chế độ bồi thường thiệt hại trong sẽ có nhiều điểm khác biệt so với các
ngành luật khác. Trong một số trường hợp NSDLĐ dù không có lỗi nhưng về
nguyên tắc vẫn phải bồi thường cho NLĐ hoặc có trường hợp NLĐ vi phạm kỷ luật
lao động gây thiệt hại nhưng NSDLĐ không thể áp dụng trách nhiệm vật chất đối
với họ.
- Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải căn cứ vào khả năng kinh
tế, ý thức, thái độ của người gây thiệt hại
Thông thường, khi xác định trách nhiệm bồi thường theo LLĐ cần dựa trên
các căn cứ luật định để xác định mức bồi thường của bên gây thiệt hại. Tuy nhiên,
không phải bao giờ bên gây thiệt hại cũng phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại
do mình gây ra. Trong thực tế, trách nhiệm bồi thường còn được xác định dựa vào
hoàn cảnh kinh tế của bên gây thiệt hại. Nguyên tắc này được khuyến khích áp dụng
đối với trách nhiệm bồi thường theo LLĐ do xuất phát từ tính chất xã hội của quan
hệ lao động. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong trường hợp người phải bồi thường
là NLĐ, bởi họ là người không có khả năng về tiền bạc, là người làm thuê, bán sức
lao động để có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình...
Mặt khác, nếu người gây thiệt hại đã thấy được lỗi của mình và tỏ ra ăn năn,
hối lỗi thì trách nhiệm bồi thường cũng không nên xác định quá nghiêm khắc nhằm
tạo cho họ cơ hội để tự ý thức được trách nhiệm, điều chỉnh hành vi khi tham gia
quan hệ pháp luật lao động. Điều này còn có tác dụng làm dịu đi những bất đồng
giữa các bên trong quan hệ lao động, giúp cho các bên thân thiện hơn nếu tiếp tục
hợp tác với nhau.
- Bồi thường toàn bộ, kịp thời, ngang giá và hoặc bồi thường một phần thiệt

hại gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại vừa theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ,
kịp thời, ngang giá những thiệt hại xảy ra, vừa theo nguyên tắc bồi thường một phần
thiệt hại xảy ra. Thông thường, nếu bên bồi thường là NSDLĐ thì thường áp dụng
theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại theo thời giá thị trường; ngược lại, bên
bồi thường là NLĐ thì mức bồi thường có thể là một phần hoặc toàn bộ thiệt hại tùy

13


từng trường hợp cụ thể. Hơn nữa, trong quan hệ lao động, pháp luật chỉ quy định
trường hợp bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho NLĐ, còn vấn đề bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe cho NSDLĐ không được đặt ra. Điều này
vừa phù hợp với đặc điểm của quan hệ lao động, vừa phù hợp với điều kiện và khả
năng thực tế của mỗi bên trong quan hệ lao động.
1.2.2.2. Căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lao động
Thông thường, các căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lao
động cũng giống như căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường dân sự, bao gồm:
- Có hành vi vi phạm của bên gây thiệt hại
Hành vi vi phạm pháp luật thường được biểu hiện ở hành động vi phạm
những quy định của pháp luật hoặc cũng có thể được biểu hiện dưới dạng không
hành động (không thực hiện nghĩa vụ mà pháp luật quy định phải thực hiện, hoặc
thực hiện không đúng với yêu cầu của pháp luật) nên gây thiệt hại cho xã hội.
Hành vi vi phạm pháp luật lao động là hành vi trái pháp luật lao động do chủ
thể có năng lực hành vi lao động thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới
quan hệ lao động và các quan hệ liên quan đến quan hệ lao động được pháp luật bảo
vệ và phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm của mình. Đối với
NLĐ thì hành vi vi phạm được thể hiện bằng hành vi vi phạm kỷ luật lao động
không hoàn thành nghĩa vụ lao động được giao hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
đó, vi phạm hợp đồng lao động. Đối với NSDLĐ là hành vi vi phạm các quy định

về an toàn vệ sinh lao động, vi phạm hợp đồng lao động.
Vi phạm pháp luật lao động có thể chia thành hai loại là vi phạm trực tiếp và
vi phạm gián tiếp. Vi phạm trực tiếp pháp luật lao động là những hành vi trái với
quy định của Nhà nước về quan hệ lao động, về an toàn, vệ sinh lao động và những
quy định trong lĩnh vực quản lý lao động.
Vi phạm gián tiếp các quy định của pháp luật lao động là những hành vi vi
phạm các quy định khác có tính chất thỏa thuận trong quan hệ lao động như vi
phạm thỏa ước lao động tập thể, vi phạm hợp đồng lao động, vi phạm nội quy, quy
chế lao động.

14


- Có thiệt hại xảy ra
Là yếu tố cấu thành cơ bản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đây là điều
kiện được coi là bắt buộc và quyết định việc có phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại hay không. Thiệt hại xảy ra trong quan hệ pháp luật lao động khác với thiệt
hại trong quan hệ pháp luật hình sự vì trách nhiệm hình sự được đặt ra do tính chất
nguy hiểm của hành vi gây ra hoặc có khả năng gây ra hậu quả mà phải chịu trách
nhiệm hình sự, còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong quan hệ lao động
phải phát sinh thiệt hại thì người gây thiệt hại mới phải bồi thường. Thông thường,
thiệt hại được hiểu là sự suy giảm lợi ích vật chất hoặc tinh thần của một người khi
có sự kiện gây thiệt hại của người khác được xác định mức độ, giá trị bằng một
khoản tiền cụ thể. Dưới góc độ xã hội, thiệt hại động chạm và làm ảnh hưởng đến
những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Còn dưới góc độ pháp luật lao động
thì thiệt hại tự nó đã nói lên một điều rằng hành vi vi phạm đã xâm phạm đến những
quyền, lợi ích hợp pháp khác của các bên trong quan hệ lao động. NLĐ khi tham gia
vào quan hệ lao động cần được bảo đảm về tính mạng, sức khỏe, cần được bảo đảm
nguồn thu nhập ổn định do bán sức lao động. Còn NSDLĐ chính là sự giảm sút về
số lượng cũng như chất lượng của hàng hóa sức lao động, là thiệt hại về tài sản và

thu nhập đáng lẽ ra các bên có được hoặc là những thiệt hại về danh dự, uy tín của
các bên. Tuy nhiên, tính chất của thiệt hại phải như thế nào mới đặt ra vấn đề bồi
thường thiệt hại. Yêu cầu đối với những nhà làm luật và những người áp dụng pháp
luật khi đánh giá một thiệt hại làm cơ sở cho việc quy trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là phải nhìn nhận thiệt hại một cách khách quan. Có thiệt hại xảy ra và thiệt hại
đó phải được định giá bằng tiền, được thể hiện bằng sự giảm sút thu nhập của người
lao động, sự mất mát về tư liệu sản xuất của người sử dụng lao động (nếu thiệt hại
về tài sản), về tính mạng, sức khỏe, danh dự bị xâm phạm của người lao động (nếu
là thiệt hại tinh thần) thì mới đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và sự thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phải phát sinh khi thiệt hại là kết quả
trực tiếp tất yếu của hành vi vi phạm. Đó là mối liên hệ của sự vận động nội tại mà
về nguyên tắc, nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả và hành vi trái pháp luật phải

15


là nguyên nhân trực tiếp hoặc là nguyên nhân quan trọng có ý nghĩa quyết định với
việc xảy ra thiệt hại. Đây là mối quan hệ biểu hiện luôn nội dung của cặp phạm trù
nguyên nhân - kết quả trong phép duy vật biện chứng.
Một thiệt hại có thể xảy ra do một hoặc nhiều hành vi vi phạm và ngược lại,
một hành vi vi phạm có thể gây ra nhiều thiệt hại khác nhau. Điều quan trọng là
phải xác định hành vi vi phạm gây thiệt hại là hành vi độc lập hay ở trong mối
quan hệ tổng hợp và có sự tác động qua lại của nhiều hiện trường chứa đựng khả
năng thực tế làm phát sinh thiệt hại, phải xem xét trường hợp thiệt hại có thể do
một hành vi trái pháp luật khác xen vào gây ra chứ không phải do hành vi có chứa
đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại gây ra. Hành vi trái pháp luật (với
vai trò là nguyên nhân) có ý nghĩa quyết định làm phát sinh thiệt hại, nhưng diễn
biến của thiệt hại xảy ra theo chiều hướng nào thì lại phụ thuộc vào các yếu tố
khách quan khác tác động vào. Hành vi trái pháp luật tự nó mới chỉ có khả năng

gây ra thiệt hại chứ chưa xác định hoàn toàn. Thiệt hại trên thực tế thì tùy từng
hoàn cảnh, điều kiện khác nhau sẽ có hậu quả khác nhau. Xem xét mối quan hệ
này, ngoài ý nghĩa làm căn cứ cho việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thệt hại
còn có ý nghĩa xác định mức bồi thường thiệt hại. Vì vậy, ta phải đánh giá tất cả
các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan, toàn diện và đầy đủ, từ đó
mới có thể rút ra kết luận đúng đắn. Nói tóm lại, để đánh giá chính xác mối quan hệ
nhân quả cần phải chú ý đến nhiều vấn đề, trong đó cần xác định chính xác những
vấn đề chủ yếu sau:
Hành vi vi phạm phải xảy ra trước hậu quả thiệt hại;
Hành vi vi phạm xảy ra độc lập hoặc trong mối liên hệ với các sự kiện hiện
tượng khác, phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả;
Đối với hậu quả thiệt hại xảy ra phải là sự hiện thực hóa khả năng thực tế
làm phát sinh thiệt hại của hành vi vi phạm.
- Có lỗi của người vi phạm
Lỗi là trạng thái tâm lý của con người nhận thức được hành vi vi phạm và
hậu quả của hành vi đó. Lỗi được xem là biểu hiện của thái độ, tiêu cực chống đối
xã hội của chủ thể vi phạm.

16


Hành vi là biểu hiện bên ngoài, là yếu tố vật chất thực tế của lỗi. Một hành vi
gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi là yếu tố lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa
chọn và quyết định của một chủ thể trong khi chủ thể đó có đủ điều kiện khách quan
và chủ quan để lựa chọn một cách xử xự khác phù hợp hơn với yêu cầu của xã hội.
Nhưng vì chủ thể đã lựa chọn và thực hiện hành vi gây thiệt hại nên chủ thể đó sẽ bị
coi là có lỗi trong hành vi trái pháp luật gây thiệt hại của mình. Lỗi được xem như
là thước đo của trách nhiệm pháp lý và suy cho cùng, mọi trách nhiệm pháp lý do
lỗi đều gắn liền với một hành vi, tức là sự biểu lộ ra ngoài ý chí của một người
thông qua cách hành xử cụ thể. Lỗi được chia làm hai loại, lỗi vô ý và lỗi cố ý. Lỗi

cố ý là lỗi của một bên nhận thức rõ hành vi của mình vi phạm pháp luật lao động,
vi phạm hợp đồng lao động và sẽ gây thiệt hại cho phía bên kia mà vẫn thực hiện dù
mong muốn hoặc không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho thiệt hải xảy ra.
Lỗi vô ý là lỗi của một bên không thấy trước được hành vi của mình có khả năng
gây ra thiệt hại cho bên kia dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra
hoặc thấy được thiệt hại nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hặc có thể ngăn
chặn được.
Tuy nhiên pháp luật lao động với điểm đặc thù là bảo vệ người lao động nên
đương nhiên những quy định về chế độ bồi thường có nhiều điểm khác biệt so với
các ngành luật khác LLĐ quy định có trường hợp NSDLĐ không có lỗi nhưng về
nguyên tắc vẫn phải bồi thường cho NLĐ hoặc có trường hợp NLĐ vi phạm kỷ luật
lao động gây thiệt hại nhưng NSDLĐ không thể áp dụng trách nhiệm vật chất đối
với họ.
1.2.2.3. Các trường hợp bồi thường thiệt hại trong lao động
- Bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật
Hợp đồng lao động là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ lao động giữa
NLĐ và NSDLĐ. Đây là thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của cả 2 bên dựa trên cơ
sở nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp
đồng lao động, xuất phát từ nhiều lý do khách quan và chủ quan, các bên trong quan
hệ lao động có thể có những hành vi vi phạm hợp đồng lao động, dẫn đến phải bồi

17


thường thiệt hại. Trường hợp cơ bản và quan trọng nhất khi vi phạm hợp đồng lao
động dẫn đến phải bồi thường thiệt hại đó chính là đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động trái pháp luật.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là sự kiện pháp lý xảy ra khi người
lao động hoặc người sử dụng lao động có thể tự chấm dứt hợp đồng, không cần thỏa

thuận với bên còn lại nhưng vẫn được pháp luật công nhận. Thông thường, khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động người lao động hay người sử dụng lao động
đều phải đáp ứng những điều kiện nhất định do pháp luật quy định, bao gồm các
điều kiện về lý do chấm dứt và thủ tục chấm dứt. Nếu vi phạm một trong các điều
kiện này thì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động bị coi là trái pháp luật.
Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp gây thiệt
hại cho bên bị chấm dứt như: người lao động bị mất tiền lương, bảo hiểm; người sử
dụng lao động bị tổn hại về vật chất, uy tín… Vì vậy, pháp luật quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của bên đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong
trường hợp này.
- Bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng cho người lao động
NLĐ là người trực tiếp thực hiện hoạt động lao động, sản xuất nên trong quá
trình lao động có thể tồn tại một hoặc nhiều yếu tố nguy hiểm, có hại, nếu không
được phòng ngừa, ngăn chặn, chúng có thể tác động vào con người gây chấn
thương, bệnh nghề nghiệp, làm giảm sút, mất khả năng lao động hoặc gây tử vong.
Do đó khi tham gia vào quan hệ lao động, người sử dụng lao động là người có
quyền tổ chức, quản lý việc sản xuất và chịu trách nhiệm về công tác bảo hộ lao
động. Trường hợp khi có sự cố gây ra tai nạn lao động hoặc người lao động mắc
bệnh nghề nghiệp thì người sử dụng lao động là chủ thể đầu tiên phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho NLĐ, bao gồm cả trường hợp không phải do lỗi trực
tiếp của NSDLĐ và trường hợp do lỗi nguyên nhân khách quan. Điều này xuất phát
từ bản chất của quan hệ lao động, vì sức lao động được coi là loại hàng hóa đặc biệt
và bản thân NLĐ thường là người không có tư liệu sản xuất, họ bán sức lao động để
kiếm sống và nuôi gia đình. Cho nên khi NSDLĐ mua sức lao động của NLĐ cũng
đồng nghĩa với việc mua luôn cả quá trình sử dụng sức lao động đó. Khi NLĐ bị tai

18



×