Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nghiên cứu chỉ định mổ lấy thai theo phân loại Robson tại Bệnh viện Trung ương Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.15 KB, 6 trang )

SẢN KHOA – SƠ SINH

HOÀNG NGỌC TÚ, BẠCH CẨM AN, PHAN VIẾT TÂM, PHAN LÊ VY PHƯƠNG, NGÔ HOÀNG HIẾU, NGUYỄN THỊ ĐÔNG HIỀN

NGHIÊN CỨU CHỈ ĐỊNH MỔ LẤY THAI
THEO PHÂN LOẠI ROBSON
TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ
Hoàng Ngọc Tú, Bạch Cẩm An, Phan Viết Tâm, Phan Lê Vy Phương, Ngô Hoàng Hiếu, Nguyễn Thị Đông Hiền
Bệnh Viện Trung Ương Huế

Tóm tắt

Mục tiêu: Phân tích chỉ định mổ lấy thai tại Bệnh viện Trung ương
Huế theo phân loại Robson.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Gồm tất cả các sản phụ vào sinh
tại khoa Phụ sản Bệnh viện Trung ương Huế được chỉ định mổ lấy thai,
trong khoảng thời gian nghiên cứu kể từ 01/2015 - 12/2015. Mô tả cắt
ngang hồi cứu.
Kết quả: Tỷ lệ mổ lấy thai 57,57%, trong đó các nhóm 1, 2, 3 và 5
theo phân loại Robson có tỷ lệ đóng góp cao nhất với 47,57%. Các
biến chứng thường gặp trong và sau mổ lấy thai: rách cơ tử cung
đoạn dưới 1,13%, thương tổn bàng quang 0,85%, đờ tử cung 0,75%,
rối loạn chức năng ruột 16%, nhiễm trùng đường tiểu 8,8% và nhiễm
trùng vết mổ 4,4%. Đối với con: chỉ số Apgar thấp 1,7%, suy hô hấp
5,6% và nhiễm trùng sơ sinh 3,01%. Với trường hợp vết mổ cũ: tỷ
lệ rau tiền đạo gia tăng ý nghĩa ở những sản phụ có vết mổ cũ lấy
thai (1,76%) so với những người không có vết mổ cũ lấy thai (0,87%)
(RR:2); tỷ lệ rau cài răng lược không có sẹo mổ cũ là 3,14% tăng lên
44,44% ở sẹo mổ cũ.
Kết luận: Tình hình mổ lấy thai ở Bệnh viện Trung ương Huế gia
tăng rất nghiêm trọng, hệ lụy kéo theo nhiều biến chứng. Giải pháp


giảm tỷ lệ mổ lấy thai là làm giảm tỷ lệ 3 nhóm đầu tiên trong phân
loại 10 nhóm.

Tập 14, số 03
Tháng 07-2016

Abstract

38

Tác giả liên hệ (Corresponding author):
Hoàng Ngọc Tú,
email:
Ngày nhận bài (received): 10/06/2016
Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised):
24/06/2016
Ngày bài báo được chấp nhận đăng
(accepted): 30/06/2016

RESEARCH ON INDICATION OF CESAREAN
SECTION FOLLOW ROBSON CLASSIFICATION

Objectives: Study on indication of cesarean section follow Robson
classification.
Subjects and Methods: Include all the records of women which
hospitalized and delivered by cesarean during the 1-year period from
1/2015 to 12/2015 were reviewed. Retrospective cross-study.


Trong vài thập niên trở lại đây, cùng với những

tiến bộ trong y học về trình độ tay nghề, kỹ thuật
mổ lấy thai, trình độ gây mê hồi sức và kháng
sinh nên vấn đề mổ lấy thai ngày nay tương đối
an toàn, thuận lợi hơn trước. Chỉ định mổ lấy thai
càng được mở rộng hơn. Cùng với đó sự xuất hiện
của rau tiền đạo, rau tiền đạo cài răng lược ở sản
phụ có vết mổ cũ lấy thai ngày càng gia tăng, gây
ra rất nhiều biến chứng đặc biệt nguy hiểm cho mẹ
và con không chỉ trong thời gian mang thai mà cả
trong giai đoạn chuyển dạ và xử trí [6,10].
Từ năm 1985, cộng đồng y tế quốc tế đã
coi tỷ lệ lý tưởng cho mổ lấy thai là giữa 10%
và 15%. Kể từ đó, mổ lấy thai ngày càng trở
nên phổ biến ở cả các nước phát triển và đang
phát triển. Khi chỉ định hợp lý vì vấn đề y khoa,
sinh mổ có thể ngăn chặn hiệu quả tỷ lệ tử vong
và bệnh tật ở bà mẹ và trẻ sơ sinh. Tuy nhiên,
không có bằng chứng cho thấy những lợi ích
của mổ lấy thai ở những sản phụ hay ở trẻ sơ
sinh không có nhu cầu về thủ thuật. Cũng như
với bất kỳ phẫu thuật nào, mổ lấy thai có liên
quan với nguy cơ ngắn hạn và dài hạn có thể
kéo dài nhiều năm vượt ra ngoài lần sinh hiện
tại và ảnh hưởng đến sức khỏe của sản phụ, của
trẻ sơ sinh, và những lần có thai trong tương lai.
Những rủi ro này còn cao hơn ở những phụ nữ ít
được chăm sóc sản khoa toàn diện [10].
Trong những năm gần đây, chính phủ và
các bác sĩ đã bày tỏ quan ngại về sự gia tăng


về số lượng ca sinh mổ và những hậu quả tiêu
cực cho sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh. Ngoài
ra, cộng đồng quốc tế ngày càng cần thiết phải
xem xét lại tỷ lệ được khuyến cáo năm 1985.
Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu
chỉ định mổ lấy thai theo phân loại Robson tại
Bệnh viện Trung ương Huế” nhằm tìm hiểu một
số vấn đề trong chỉ định mổ lấy thai theo phân
loại Robson, biến chứng, kết cục và dự hậu của
mổ lấy thai và qua đó rút ra giải pháp làm giảm
tỷ lệ mổ lấy thai.

2. Đối tượng và phương
pháp nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các sản phụ vào sinh tại Khoa Phụ sản
Bệnh viện Trung Ương Huế, trong khoảng thời gian
nghiên cứu kể từ ngày 01/01/2015 đến ngày
31/12/2015.
Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Tất cả các sản phụ vào viện và đã sinh mổ tại
khoa phụ sản.
- Tất cả các thai phụ có thai đủ tháng, hay non
tháng (≥ 35 tuần hay ≥ 8 tháng).
Tiêu chuẩn loại trừ:
- Thai phụ sau đẻ nơi khác bị tai biến chuyển
đến viện.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang hồi cứu.

Thời gian và địa điểm nghiên cứu:
- Thời gian: Từ 01/01/2015 đến 31/12/2015.

Tập 14, số 03
Tháng 07-2016

1. Đặt vấn đề

TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 14(03), 38 - 43, 2016

Results: Ratio 57.57% caesarean section, in which groups 1, 2, 3 and 5 in the classification
Robson have the highest contribution rate to 47.57% . Common complications during and after
cesarean section: tearing the lower segment of the uterus 1.13%, 0.85% bladder injuries , 0.75%
uterine , bowel dysfunction 16%, urinary tract infection 8.8% and 4.4% incisions. For children: a
low Apgar score of 1.7%, 5.6% respiratory failure, neonatal infections 3.01%. With having previous
cesarean: The incidence of placenta previa was significantly increased in those with the previous
cesarean section (1.76%) compared with those with an unscarred uterus (0.87%) (RR:2); the
incidence of placenta accreta was 3,14% among patients with placenta previa, 44,44% being in
patients with previous cesarean section.
Conclusion: The situation of cesarean section increased very serious, consequences entail many
complications. Solutions to reduce the rate of Caesarean section rate is reduced in the first 3 groups
classified 10 groups.

39


SẢN KHOA – SƠ SINH

HOÀNG NGỌC TÚ, BẠCH CẨM AN, PHAN VIẾT TÂM, PHAN LÊ VY PHƯƠNG, NGÔ HOÀNG HIẾU, NGUYỄN THỊ ĐÔNG HIỀN


- Địa điểm: Tại khoa phụ sản, Bệnh Viện Trung
Ương Huế.
Phương pháp thu thập số liệu:
Dùng phiếu điều tra thu thập các dữ kiện liên
quan đến nghiên cứu.
Cỡ mẫu và cách chọn mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu này áp dụng kỹ thuật chọn mẫu
chủ định, là toàn bộ sản phụ sinh mổ trong năm
2015 tại khoa phụ sản Bệnh Viện Trung Ương Huế.
Các bước tiến hành nghiên cứu
- Ghi nhận bệnh sử, tiền sử sản khoa
- Đánh giá chỉ định phẫu thuật lấy thai theo
phân loại Robson. Phân loại
Robson dựa trên cơ sở các thông tin về dịch
tễ, kết cục mẹ và con, chi phí và cách tổ chức
thực hiện. Nó có nhiều ý nghĩa lâm sàng hơn.
Theo phân loại Robson, mổ lấy thai được sắp
xếp trong 10 nhóm:
+ Con so, đơn thai, ngôi đầu, ≥ 37 tuần, chuyển
dạ tự nhiên.
+ Con so, đơn thai, ngôi đầu ≥ 37 tuần, khởi
phát chuyển dạ/MLT trước khi chuyển dạ.
+ Con rạ (không có VMC), đơn thai, ngôi đầu ≥
37 tuần, chuyển dạ tự nhiên.
+ Con rạ (không có VMC), đơn thai, ngôi đầu
≥ 37 tuần, khởi phát chuyển dạ/MLT trước khi
chuyển dạ
+ VMC, đơn thai, ngôi đầu ≥ 37 tuần.
+ Tất cả các trường hợp con so, ngôi mông.
+ Tất cả các trường hợp đa thai, ngôi mông

(bao gồm có VMC).
+ Tất cả các trường hợp đa thai (bao gồm
có VMC).
+ Tất cả các trường hợp ngôi bất thường (bao
gồm có VMC).
+ Tất cả các trường hợp đơn thai, ngôi đầu, ≤
36 tuần (bao gồm có VMC)
- Ghi nhận các biến chứng ở mẹ, con sau mổ
lấy thai.

Tập 14, số 03
Tháng 07-2016

3. Kết quả nghiên cứu

40

3.1. Tỷ lệ sinh mổ
Trong năm 2015, có tổng cộng 8.593 trường
hợp vào sinh. Trong đó có 4.947 trường hợp mổ
lấy thai chiếm tỷ lệ 57,57% và 3.646 trường
hợp sinh thường qua ngã âm đạo chiếm tỷ lệ
42,43%.

Phân bố chỉ định mổ lấy thai theo phân loại
Robson:
Bảng 1. Hệ thống phân loại 10 nhóm cho mổ lấy thai
Năm 2015 Kích
Nhóm
Mô tả

4947/8593 cỡ mỗi
(57,57%) nhóm (%)
Con so, đơn thai, ngôi
1 đầu, ≥ 37 tuần, chuyển 712/2.019 23,5
dạ tự nhiên.
Con so, đơn thai, ngôi
đầu ≥ 37 tuần, khởi phát
874/1.057 12,3
2
chuyển dạ/MLT trước khi
chuyển dạ.
Con rạ (không có VMC),
3 đơn thai, ngôi đầu ≥ 37 554/2.156 25,1
tuần, chuyển dạ tự nhiên.
Con rạ (không có VMC),
đơn thai, ngôi đầu ≥
4 tuần, khởi phát chuyển
253/627
7,3
dạ/MLT trước khi
chuyển dạ.
VMC, đơn thai, ngôi đầu
1695/1736 20,2
5
≥ 37 tuần.
Tất cả các trường hợp con
373/404
4,7
6
so, ngôi mông

Tất cả các trường hợp đa
7 thai, ngôi mông (bao
116/137
1,6
gồm có VMC).
Tất cả các trường hợp đa
142/198
2,3
8
thai (bao gồm có VMC).
Tất cả các trường hợp
9 ngôi bất thường (bao
69/69
0,8
gồm có VMC).
Tất cả các trường hợp đơn
10 thai, ngôi đầu, <=36
158/189
2,2
tuần (bao gồm có VMC).

Tỷ lệ MLT Đóng góp tỷ lệ
của nhóm MLT mỗi nhóm
(%)
57,57%
35,28

8,29

82,68


10,17

25,69

6,45

40,35

2,95

97,63

19,73

92,32

4,34

84,67

1,35

71,72

1,65

100

0,8


83,59

1,84

3.2. Những biến chứng mổ lấy thai
3.2.1. Biến chứng đối với mẹ
Bảng 2. Biến chứng trong mổ
Đặc điểm
Rách cơ tử cung đoạn dưới
Thương tổn bàng quang
Thương tổn niệu quản
Thương tổn ruột
Đờ tử cung
Cắt tử cung

Số lượng (n = 4.947)
56
42
2
1
37
25

Tỷ lệ (%)
1,13
0,85
0,04
0,02
0,75

0,5

Bảng 3. Biến chứng sau mổ
Đặc điểm
Nhiễm trùng vết mổ
Hở thành bụng
Nhiễm trùng đường tiểu
Rối loạn chức năng ruột
Biến chứng về tắc mạch
Viêm tắc mạch chậu

Số lượng
217
15
435
792
5
3

Tỷ lệ (%)
4,4
0,3
8,8
16
0,1
0,06

3.2.2. Biến chứng đối với thai



Tỷ lệ (%)
1,7
5,6
3,01
0,46

3.2.3. Đặc điểm vết mổ cũ
Bảng 5. Đặc điểm vết mổ cũ
Đặc điểm
Vết mổ thành bụng dính
Cơ tử cung mỏng (< 5 mm)
Vỡ tử cung dưới thanh mạc
Vết mổ cũ đau

Số lượng (n = 503)
138
415
21
135

Tỷ lệ (%)
27,43
82,5
4,17
28,84

3.2.4. Rau tiền đạo và rau cài răng lược
Bảng 6. Tỷ lệ nhau tiền đạo và nhau cài răng lược
Số Nhau tiền Giá trị P và nguy Nhau cài răng Giá trị P và nguy
lượng đạo (% của cơ tương đối (độ lược (% của cơ tương đối (độ

sinh số sinh) tin cậy 95%) nhau tiền đạo) tin cậy 95%)
Không có VMC 8090 70 (0,87)
2 (3,14)
P < 0,01
P < 0,01
Có vết mổ cũ 503 9 (1,76)
RR. 2,0
4 (44,44)
RR. 13,7
1,37-3,2
6,23-31,02
Tổng số
8593 79 (0,92)
6 (7,6)

4. Bàn luận

Trong năm 2015, có tổng cộng 8.593 trường
hợp vào sinh. Trong đó có 4.947 trường hợp mổ
lấy thai chiếm tỷ lệ 57,57% và 3.646 trường hợp
sinh thường qua ngã âm đạo chiếm tỷ lệ 42,43%.
Như vậy, tỷ lệ mổ lấy thai đã tăng lên rất cao,
chiếm hơn một nửa trường hợp các sản phụ vào
sinh. Trong khi tỷ lệ mổ lấy thai khuyến cáo là nằm
trong khoảng 10 – 15% được xem tỷ lệ mổ lấy thai
lý tưởng tại một cơ sở khám chữa bệnh [10]. Vậy
nguyên do nào làm tăng tỷ lệ mổ lấy thai. Chúng
ta sẽ phân tích thông qua hệ thống phân loại mổ
lấy thai 10 nhóm (TGCS) hay còn gọi là phân loại
Robson [7]. Qua đó tìm giải pháp để nhằm làm

giảm tối đa tỷ lệ mổ lấy thai về tiệm cận tỷ lệ mổ
lấy thai lý tưởng nếu có thể.
Nhìn vào Bảng 1 chúng ta thấy rằng nhóm 1,
2, 3 và 5 có kích thước lớn nhất, chiếm đa số các
trường hợp sản phụ vào sinh. Cũng như có tỷ lệ
đóng vào tỷ lệ mổ lấy thai là chủ yếu. Còn với các
nhóm 6,7,8,9 và 10 là các nhóm nhỏ, mặc dù có tỷ
lệ mổ lấy thai trong nhóm rất cao nhưng tỷ lệ phân
bố thấp, các giá trị dao động thấp, khả năng đóng
góp vào tỷ lệ mổ lấy thai chung khá thấp với xấp
xĩ 10% (so với 47,7% của bốn nhóm 1,2,3 và 5).

Tập 14, số 03
Tháng 07-2016

Số lượng (n = 4.947)
83
276
149
23

Như vậy, để giảm tỷ lệ mổ lấy thai cần
nghiên cứu làm giảm tỷ lệ mổ lấy thai trong các
nhóm 1, 2, 3 và 5. Đối với nhóm 5 là nhóm các
sản phụ có VMC, đơn thai, ngôi đầu ≥ 37 tuần,
mặc dù có tỷ lệ đóng góp vào mổ lấy thai nói
chung rất cao nhưng không thể kiểm soát được
vết mổ cũ trong quá trình chuyển dạ nên khó có
thể làm giảm tỷ lệ mổ lấy thai trong nhóm này.
Các nhóm 1 và 3 có đặc điểm gần tương đương

nhau, chỉ khác về số lần sinh, không có yếu tố về
khởi phát chuyển dạ nên chỉ liên quan đến vấn
đề đẻ khó. Còn nhóm 2 có tỷ lệ mổ lấy thai như
vậy khá cao bất thường liên quan đến quá trình
khởi phát chuyển dạ hoặc sự kém đáp ứng của
cơ tử cung, cũng như sự dung nạp của thai nhi
với vấn đề khởi phát.
Vậy vấn đề then chốt ở đây là để làm giảm tỷ
lệ mổ lấy thai nói chung cần giảm tỷ lệ mổ lấy thai
trong 3 nhóm đầu tiên. Trong 3 nhóm này nguyên
nhân dẫn đến mổ lấy thai vì lý do thai nhi (không
có khởi phát chuyển dạ bằng oxytocin) và lý do
đẻ khó. Cần siết chặt về các chỉ định mổ lấy thai
cũng như xem xét kỹ lưỡng đối với các lý do này thì
khả năng làm giảm tỷ lệ mổ lấy thai khả thi hơn.
Những chỉ định mổ lấy thai được thực hiện trong
chuyển dạ tự nhiên hoặc sau khi chuyển dạ được
khởi phát. Các nguyên tắc của phân loại này là để
phân biệt giữa mổ lấy thai được thực hiện vì lý do
thai nhi (không có oxytocin) và mổ lấy thai được
tiến hành vì đẻ khó (chuyển dạ thất bại). Việc sử
dụng nhu cầu về oxytocin như là điểm phân biệt
giữa lý do thai nhi và đẻ khó. Nó cũng mô tả hai
loại phổ biến của chuyển dạ đẻ khó dẫn đến mổ
lấy thai: chuyển dạ tiến triển ở mức dưới 1 cm mỗi
giờ (hoạt động tử cung không hiệu quả, IUA) và
những tiến triển ở mức hơn 1 cm mỗi giờ ban đầu
và rồi sau đó tiến triển thất bại (hoạt động tử cung
hiệu quả, EUA). IUA và EUA sau đó được chia nhỏ
thành nhiều phân mục. Căn cứ vào cách phân loại

các nguyên nhân mổ lấy thai này để tránh can
thiệp quá mức vào quá trình chuyển dạ, cũng như
hạn chế đến mức tối đa nhu cầu mổ lấy thai.
Ở các Bảng 2, 3 và 4 là hệ lụy của tình trạng
tăng tỷ lệ mổ lấy thai gây ra. Tỷ lệ rách cơ tử cung
đoạn dưới khá cao với 1,13%, nguyên nhân có thể
do cơ tử cung đoạn dưới mỏng chiếm 82,5% các
trường mổ lấy thai có vết mổ cũ (Bảng 4). Các biến

TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 14(03), 38 - 43, 2016

Bảng 4. Biến chứng đối với thai
Đặc điểm
Chỉ số Apgar thấp (≤ 3)
Suy hô hấp trong 24h
Nhiễm trùng sơ sinh
Tử vong sơ sinh

41


Tập 14, số 03
Tháng 07-2016

SẢN KHOA – SƠ SINH

HOÀNG NGỌC TÚ, BẠCH CẨM AN, PHAN VIẾT TÂM, PHAN LÊ VY PHƯƠNG, NGÔ HOÀNG HIẾU, NGUYỄN THỊ ĐÔNG HIỀN

42


chứng nghiêm trọng như thương tổn niệu quản và
thương tổn ruột mặc dù có nhưng tỷ lệ thấp với
lần lượt với 0,04% và 0,02% (Bảng 2). Những biến
chứng sau mổ thường gặp (Bảng 3) là rối loạn chức
năng ruột như liệt ruột cơ năng sau mổ, đây là
biến chứng thường xảy ra đối với các trường hợp
phẫu thuật vùng bụng nói chung, chiếm tỷ lệ 16%
các trường hợp. Nhiễm trùng đường tiểu chiếm
8,8% do đặt sonde tiểu và hậu phẫu kéo dài. Tỷ
lệ nhiễm trùng vết mổ chiếm 4,4% là nguyên nhân
làm tăng số ngày điều trị và chi phí nằm viện cho
bệnh nhân. Các biến chứng về tắc mạch bao gồm
cả viêm tắc mạch chậu khá hiếm gặp với 8 trường
hợp chiếm tỷ lệ 0,16%.
Những biến chứng thường gặp đối với thai nhi
(Bảng 4) là suy hô hấp trong 24 giờ sau sinh và
nhiễm trùng sơ sinh sớm với lần lượt 5,6% và 3,01%.
Đối với các thai nghén mổ lấy thai khi chưa có
chuyển dạ hoặc khởi phát chuyển dạ thất bại như
trong các nhóm 1 và 2 thường làm tăng các bệnh
lý về hô hấp và đặc điểm miễn dịch của thai nhi
thường kém hơn là các trường hợp trẻ sinh thường.
Có 1,7% số trẻ mổ lấy thai có chỉ số Apgar thấp
sau sinh, đây có thể là nguyên nhân của 0,46%
trường hợp tử vong trẻ sơ sinh.
Đối với các trường hợp có vết mổ cũ với 503
trường hợp, về đặc điểm của vết mổ thể hiện
trong Bảng 5. Có đến 82,5% trường hợp vết mổ ở
đoạn dưới mỏng (dưới 5 mm) và vỡ tử cung dưới
thanh mạc là 4,17%. Tỷ lệ sản phụ đau vết mổ lấy

thai chiếm 28,84% và vết mổ thành bụng dính là
27,43%. Có lẽ vì vết mổ cũ mỏng nên làm gia tăng
tỷ lệ xuất hiện rau tiền đạo và rau cài răng lược bởi
sự giảm tưới máu ở nơi vị trí rau bám, bánh rau
phải tăng kích thước và độ rộng để tìm kiếm nguồn
dinh dưỡng cho thai nhi.
Theo y văn, tỷ lệ rau tiền đạo thay đổi trong
khoảng 0,30% đến 1,9% [6]. Khoảng thay đổi khá
rộng đó liên quan đến sự xuất hiện rau tiền đạo
theo độ tuổi của sản phụ và số lần sinh ở các quần
thể được khảo sát khác nhau. Tỷ lệ chung của rau
tiền đạo trong nghiên cứu của chúng tôi ở Bảng 6
cũng nằm trong khoảng đó, tức là 0,92%. Từ khi
Bender [1] lần đầu tiên đưa ra giả thuyết về mối
quan hệ giữa mổ lấy thai trước với sự xuất hiện
rau tiền đạo ở các lần mang thai sau, đã có nhiều
nghiên cứu báo cáo tỷ lệ rau tiền đạo ở những sản

phụ có vết mổ cũ lấy thai gia tăng gấp 2-5 lần tỷ
lệ rau tiền ở những sản phụ không có vết mổ cũ
lấy thai. Tỷ lệ rau tiền đạo cao nhất ở sản phụ có
vết mổ cũ lấy thai được Singh báo cáo là 3,9% [8].
Theo tác giả To và cộng sự [9], tỷ lệ rau tiền đạo
trên vết mổ cũ lấy thai là 1,31% so với 0,75% rau
tiền đạo không có vết mổ cũ lấy thai, tăng gấp
1,64 lần. Theo Getahun D [5], tỷ lệ đó lần lượt là
0,63% và 0,38%, tăng gấp 1,5 lần. Còn theo tác
giả Chattopadhyay và cộng sự [3], thì tỷ lệ đó lần
lượt là 2,54% và 0,44%, tăng gấp 5 lần. Từ kết quả
nghiên cứu của chúng tôi ở Bảng 6 cho thấy, tỷ lệ

rau tiền đạo có vết mổ cũ lấy thai là 1,76% so với
rau tiền đạo không có vết mổ cũ lấy thai là 0,87%,
tăng gấp 2 lần. Như vậy kết quả của chúng tôi phù
hợp với nhận định rằng vết mổ cũ làm gia tăng rau
tiền đạo lên 2-5 lần và cũng phù hợp với tỷ lệ của
các tác giả kể trên.
Trong nghiên cứu về rau cài răng lược bám
chặt, rau cài răng lược trong cơ và xuyên cơ, Breen
[2] nhận xét việc đánh giá mô học cho thấy thiếu
màng rụng là yếu tố chủ yếu trong hầu hết các
trường hợp này, và tỷ lệ rau cài răng lược gia tăng
đáng kể do vết mổ cũ lấy thai. Cũng trong nghiên
cứu này, tỷ lệ rau tiền đạo mặt trước cao hơn có ý
nghĩa ở những người có một vết mổ cũ (P < 0,05)
so với những người không có vết mổ cũ. Nguy cơ
rau cài răng lược ở bệnh nhân có cả rau tiền đạo
và vết mổ cũ lấy thai được ước tính là 9,3% theo To
[9], 15% bởi Singh [8] và 30% bởi Clark [4], còn
kết quả của chúng tôi là 44,44% cao hơn so với
các tác giả trên. Điều này phản ánh đúng sự gia
tăng có ý nghĩa của nhau cài răng lược khi xuất
hiện trên sản phụ có cả rau tiền đạo và vết mổ cũ,
với nguy cơ tương đối là 13,7.

5. Kết luận

Tình hình mổ lấy thai ở Bệnh viện TW Huế gia
tăng rất nghiêm trọng, hệ lụy kéo theo các biến
chứng trong và sau mổ đối với mẹ và con tăng cao,
đặc biệt rau tiền đạo và rau cài răng lược ngày

càng nhiều.
Giải pháp để giảm tỷ lệ mổ lấy thai là làm giảm
tỷ lệ mổ lấy thai trong 3 nhóm đầu tiên trong phân
loại 10 nhóm, bằng cách nghiên cứu chỉ định khởi
phát chuyển dạ và sinh khó để có tỷ lệ mổ lấy thai
hợp lý.


6. Kennare R, Tucker G, Heard A and Chan A (2007), “Risks of Adverse
Outcomes in the Next Birth After a First Cesarean Delivery”, Obstetrics &
Gynecology, 109(2), Part 1, p.270-276.
7. Robson M et al., “Quality assurance: The 10-Group Classification
System (Robson classification), induction of labor, and cesarean delivery”
International Journal of Gynecology and Obstetrics, 131 (2015), S23–S27.
8. Singh PM, Rodriques C, Gupta AN (1981), “Placenta previa and
previous cesarean section”, Acta Obstet Gynecol Scand, 60, p.367-368.
9. To W, Leung W (1995). “Placenta previa and previous cesarean
section”, International Journal of Gynecology & Obstetrics, 51, p.25-31.
10. World Health Organization. WHO Statement on Caesarean Section
Rates. WHO/RHR/15.02. Geneva: WHO; 2015. http: //apps.who.int/iris/
bitstream/10665/161442/1/WHO_RHR_15.02_eng.pdf?ua=1.

Tập 14, số 03
Tháng 07-2016

1. Bender S (1954), “Placenta previa and previous lower segment
cesarean section”, Surg Gynecol Obstet, 98, p.625-627.
2. Breen JL, Neubecher R, Gregori C, Franklin J (1977), “Placenta
accreta, increta, percreta: A survey of 40 cases”, Obstet Gynecol, 49,
p.43-47.

3. Chattopadhyay SK, Khariff H, Sherbeeni MM (1993), “Placenta
previa and accreta after previous cesarean section”, Eur J Obstet
Gynecol Reprod Biol, 52, p.151- 156.
4. Clark SL, Koonings PP, Phelan JP (1985), “Placenta previa/accreta
and prior cesarean section”, Obstet Gynecol, 66(1), p.89-92.
5. Getahun D, Oyelese Y, Salihu H, Ananth C (2006), “Previous cesarean
delivery and risks of placenta previa and placental abruption”, Obstet
Gynecol, 107(4), p.771-778.

TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 14(03), 38 - 43, 2016

Tài liệu tham khảo

43



×