Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Kinh tế tri thức và việc dạy và học vấn đề này ở trường THPT hiện nay.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.71 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài.

Ngày nay thế giới đang bước vào một thời kỳ chuyển tiếp mạnh mẽ hơn,
đó là sự chuyển tiếp từ xã hội cơng nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp.
Trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, tri thức khoa học
và thông tin trở thành bộ phận cấu thành quan trọng hàng đầu của lực
lượng sản xuất, đồng thời đóng vai trò quyết định đối với nền sản xuất vật
chất trên quy mơ tồn cầu. Nền kinh tế thế giới đang biến động mạnh mẽ
trong cả cơ cấu, chức năng lẫn phương thức hoạt động và sự phát triển
của nó ngày càng phụ thuộc chủ yếu vào nhân tố tri thức – trí tuệ. Sự biến
đổi ngày càng mạnh mẽ đang tạo dựng một bước ngoặt lịch sử đánh dấu
kỷ nguyên hình thành nền kinh tế mới – kinh tế tri thức.
Đất nước ta đang trong q trình đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện như vậy, kinh tế tri thức trở thành yếu tố quan trọng, là
lực lượng sản xuất trực tiếp, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế.
Thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước, là người làm chủ tri thức,
bên cạnh hiểu biết về tình hình chính trị thì cũng cần có sự hiểu biết về
lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là sự phát triển kinh tế tri thức trong giai đoạn
hiện nay. Bởi không ai khác, chính họ là nhân tố quyết định đối với sự
phát triển kinh tế tri thức. Tuy nhiên sự hiểu biết về nền kinh tế tri thức
trong một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ cịn rất hạn chế. Vì vậy, việc
nâng cao trình độ hiểu biết của thế hệ trẻ về nền kinh tế tri thức trở thành
việc làm hết sức cần thiết.
Hiện nay, ở các trường THPT, trong chương trình SGK vấn đề về kinh tế
tri thức cũng đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo đề cập đến. Phần kinh tế tri
thức trong SGK có ý nghĩa rất quan trọng đối với học sinh THPT. Nó




giúp các em có những hiểu biết đúng đắn về kinh tế tri thức, thấy được
trách nhiệm của bản thân đối với sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, hiện nay việc dạy và học về nội dung kinh tế tri thức ở các
trường THPT còn một số bất cập. Nội dung chương trình cịn hạn hẹp,
chưa ổn định; thiếu tài liệu hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy học;
thiếu các tài liệu tham khảo, đội ngũ giáo viên chưa được bồi dưỡng, dẫn
đến tình trạng chưa truyền thụ hết kiến thức cần thiết cho học sinh, làm
cho học sinh nhận thức mơ hồ về nền kinh tế tri thức.
Hiện nay, SGK GDCD lớp 11 đã được điều chỉnh, bổ sung theo hướng
cải cách SGK. Mặc dù đã có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn
còn một số bất cập ảnh hưởng đến chất lượng dậy và học về kinh tế tri
thức.
Vì vậy, trong quá trình thực tập ở trường THPT và khảo sát thực tế, tôi
mạnh dạn chọn đề tài “ Kinh tế tri thức và việc dạy và học vấn đề này
ở trường THPT hiện nay”, với mong muốn góp một phần cơng sức nhỏ
của mình vào việc nâng cao việc dạy và học vấn đề này ở trường THPT.
2.

Tình hình nghiên cứu của đề tài

Vấn để kinh tế tri thức đã được nhiều tác giả nghiên cứu và đã có nhiều
bài viết được đăng trên nhiều sách báo, tạp chí.. Tiêu biểu có những đề tài
sau đây:
-

GS.VS Đặng Hữu ( chủ biên ): Phát triển kinh tế tri thức – rút ngắn

q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,

Hà Nội, năm 2001.
-

GS.TS Ngô Qúy Tùng: Kinh tế tri thức - xu thế mới của xã hội

thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Đại học quốc gia, Hà Nội, năm 2001.
-

GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền; PGS.TS Đào Duy Huân; TS. Lương

Minh Cừ: Hướng đến nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội, năm 2005.


-

Tần Ngôn Trước: Thời đại kinh tế tri thức. Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội, năm 2000.
Những vấn đề trên đã đi sâu nghiên cứu một số vấn đề khác nhau về nền
kinh tế tri thức. Nhưng tôi nhận thấy cho đến nay chưa có ai nghiên cứu
về “ Kinh tế tri thức và việc dạy và học vấn đề này ở trường THPT hiện
nay”. Vì vậy, tơi mạnh dạn chọn đề tài này với mong muốn góp phần
cơng sức nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng dạy và học về
vấn đề kinh tế tri thức ở trường THPT hiện nay.
3.

Mục đích nghiên cứu

3.1


Mục đích chung

3.2

Mục đích cụ thể

-

Khái quát lý luận về kinh tế tri thức

-

Khảo sát thực trạng dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các

trường THPT hiện nay.
-

Tìm các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học về vấn đề

kinh tế tri thức ở các trương THPT hiện nay.
-

Thiết kế bài giảng về bài học có nội dung đề cập tới kinh tế tri

thức.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


4.1

Đối tượng nghiên cứu

Chủ yếu nghiên cứu việc triển khai dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở
các trường THPT hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
việc dạy va học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay.
4.2

Phạm vi nghiên cứu

4.2.1 Về không gian:


Nghiên cứu việc triển khai dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức tại các
trường THPT trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Bao gồm các trường sau:
-

Trường THPT Chuyên Quốc học

-

Trường THPT Hai Bà Trưng

-

Trường THPT Thuận An

-


Trường THPT Phong Điền

4.2.2 Về thời gian:
Nghiên cứu việc triển khai dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức trong thời
gian từ ngày 14/02/2011 đến ngày 2/04/2011.
4.2.3 Về nội dung
-

Nghiên cứu lý luận chung về kinh tế tri thức

-

Nghiên cứu việc dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường

THPT hiện nay.
5.

Phương pháp nghiên cứu.

-

Khảo sát thực tế kết hợp với phỏng vấn điều tra

-

Phương pháp phân tích tổng hợp

6.

Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài


-

Góp phần đổi mới việc giảng dạy về vấn đề kinh tế tri thức ở các

trường THPT
-

Cung cấp tài liệu tham khảo cho các giáo viên dạy môn GDCD ở

các trường THPT hiện nay.
-

Góp phần nâng cao nhận thức cho học sinh về vấn đề phát triển

kinh tế tri thức trong giai đoạn hiện nay.
7.

Những đóng góp về khoa học của đề tài

Về mặt lý luận: Cung cấp những vấn đề lý luận về kinh tế tri thức phù
hợp với chương trình giảng dạy THPT và đối tượng học sinh THPT.


Về mặt thực tiễn: Góp phần đổi mới nội dung và phương pháp tiếp cận về
vấn đề kinh tế tri thức gắn với học sinh THPT; nâng cao chất lượng dạy
và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay; cung cấp
tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
8.


Kết cấu của đề tài

Ngoài mở đầu, kết luận, kiến nghị và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm có 3 chương:
-

Chương 1: Lý luận về kinh tế tri thức và việc dạy và học vấn đề

này ở trường THPT hiện nay.
-

Chương 2: Thực trạng dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các

trường THPT hiện nay.
-

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học

về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường THPT hiện nay.

CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRI THỨC VÀ VIỆC DẠY
VÀ HỌC VẤN ĐỀ NÀY Ở TRƯỜNG THPT HIỆN NAY
1.1

Cơ sở lý luận về kinh tế tri thức

1.1.1 Khái niệm tri thức và kinh tế tri thức.
Để hiểu kinh tế tri thức là gì? Trước hết cần hiểu tri thức được quan niệm
như thế nào?. Theo quan niệm truyền thống, được ghi trong Từ điển
Tiếng Việt, tri thức là “ những điều hiểu biết có hệ thống về sự vật, hiện

tượng tự nhiên hoặc xã hội”. Trong thực tế hiện nay trên thế giới có nhiều
quan niệm về tri thức, nhưng tựu trung lại có thể hiểu tri thức như sau “
Tri thức là tập hợp những hiểu biết có được thơng qua học tập, nghiên
cứu hoặc hoạt động thực tiễn được hệ thống hóa. Tri thức có giá trị phổ


biến. Tùy theo đối tượng, tri thức được tiếp cận bằng những phương pháp
nhất định, và được xây dựng trên những mối quan hệ khách quan kiểm
nghiệm được” ( dòng 5, trang 189. Một số vấn đề kinh tế toàn cầu hiện
nay). Tri thức hình thành với yêu cầu phát triển sản xuất và chinh phục tự
nhiên. Tri thức phát triển cùng với khoa học và công nghệ, cùng với các
phương thức sản xuất, cùng với các giai đoạn văn minh nối tiếp của xã
hội loài người và từng bước trở thành nhân tố quan trọng nhất bên cạnh
lao động và tài nguyên.
Mọi sản phẩm do con người tạo ra ở mọi giai đoạn phát triển đều là kết
quả của sự tác động giữa tri thức với tài nguyên vật chất. Sản phẩm có
hàm lượng tri thức càng cao thì tác dụng càng lớn. Tri thức là sản phẩm
của lao động, nó khơng phải là vật chất, nhưng ln tồn tại dưới cái vỏ
vật chất ( giá đựng ). Tri thức (dưới dạng sản phẩm) khi đem sử dụng đòi
hỏi phải có cả một q trình học hỏi và nghiên cứu. Tri thức là một trong
các yếu tố quan trọng nhất của sản xuất và đời sống xã hội, là động lực
của tăng năng suất và tăng trưởng kinh tế. Vai trị của thơng tin, cơng
nghệ và giáo dục đào tạo đối với năng lực của nền kinh tế ngày nay trở
nên đặc biệt quan trọng. Thuật ngữ “ kinh tế tri thức” là xuất phát từ việc
thừa nhận vị trí của tri thức và cơng nghệ trong các nền kinh tế phát triển
nhất.
Thuật ngữ “ kinh tế tri thức” được sử dụng từ đầu những năm 1990 và
ngày càng được sử dụng rộng rãi. Kinh tế tri thức xuất hiện từ sự nhận
thức về vai trò của tri thức và công nghệ trong tăng trưởng kinh tế.
Những năm gần đây trong nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều hội nghị,

hội thảo quốc tế và trong nhiều văn bản chiến lược phát triển của các
quốc gia, người ta đã dùng nhiều tên gọi khác nhau cho giai đoạn phát
triển mới của nền kinh tế thị trường. Chẳng hạn:
-

“ Kinh tế thông tin – Information economy” ( nói lên động lực chủ

yếu của kinh tế là thông tin – tri thức sự học tập suốt đời của con người ).


-

“ Kinh tế dựa vào tri thức – Knowledge bass economy” – “ Kinh tế

dẫn dắt bởi tri thức – Knowledge driven economy”, “ Kinh tế tri thức –
Knowledge economy” ( nói lên vai trị quyết định của tri thức và công
nghệ đối với phát triển kinh tế ).
-

“ Kinh tế mới – New economy” nhấn mạnh sự phân biệt với các

nền kinh tế đã và đang tồn tại trong lịch sử loài người.
Trong số các tên gọi trên, kinh tế tri thức là tên gọi thường dùng nhất.
Vậy nền kinh tế tri thức là gì? Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kinh
tế tri thức. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD ) năm 1996 đã
đưa ra định nghĩa “Kinh tế tri thức là những nền kinh tế dựa trực tiếp
vào sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức và thông tin”. Nhưng cũng có
nhiều định nghĩa khác nói lên vai trị quyết định của tri thức đối với phát
triển kinh tế, ví dụ ở Anh, người ta gọi nền kinh tế dẫn dắt bởi tri thức là
nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra và khai thác tri thức giữ vai trò nổi

bật nhất trong việc tạo ra của cải (Bộ Công nghiệp và Thương mại Anh,
1998).
Định nghĩa của OECD dẫn đến một sự hiểu lầm là phát triển kinh
tế tri thức có nghĩa là phát triển các ngành kinh tế dựa nhiều vào tri thức,
tức là các ngành kinh tế cơng nghệ cao. Do vậy đã có một số nước quá
tập trung chú trọng vào phát triển công nghệ cao mà không quan tâm đầy
đủ đến phát triển và ứng dụng tri thức vào tất cả các lĩnh vực kinh tế.
Năm 2000, OECD và APEC ( Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á –
Thái Bình Dương) đã điều chỉnh lại: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong
đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất
của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành
kinh tế. Định nghĩa này muốn nhấn mạnh việc sử dụng tri thức trong tất
cả các lĩnh vực kinh tế.
Với định nghĩa trên, có thể hiểu kinh tế tri thức là trình độ phát
triển cao của lực lượng sản xuất xã hội, theo đó trong q trình lao động


của từng người lao động và toàn bộ lao động xã hội, trong từng sản phẩm
và trong tổng sản phẩm quốc dân thì hàm lượng lao động cơ bắp, hao phí
lao động cơ bắp giảm đi vơ cùng nhiều trong khi hàm lượng tri thức, hao
phí lao động trí óc tăng lên vô cùng lớn.
Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn
tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành
tựu mới của khoa học cơng nghệ. Đó có thể là những ngành kinh tế mới
dựa trên cơng nghệ cao (như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
cơng nghệ vật liệu mới...); nhưng cũng có thể là những ngành kinh tế
truyền thống (như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được ứng dụng
khoa học công nghệ cao.
Nền kinh tế tri thức hình thành và phát triển là nhờ năng lực sáng
tạo của con người, năng lực tạo ra tri thức mới và vận dụng tri thức, biến

tri thức thành của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển con người
và phát triển xã hội. Sáng tạo là điều kiện cần nhưng chưa đủ; phải có
năng lực đổi mới, tức là năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn thúc đẩy
sự đổi mới và phát triển; và trong đổi mới cũng cần yếu tố sáng tạo. Sáng
tạo và đổi mới là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, là nguồn gốc
của nền kinh tế tri thức ngày nay.
1.1.2 Vai trò của tri thức đối với phát triển kinh tế - xã hội
Thế kỷ XX sắp đi qua, nền kinh tế vất chất dựa chủ yếu trên cơ sở sản
xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên, sản xuất chế biến, phân phối sử dụng sản phẩm vật chất làm nền
tảng, đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, trong đó việc sản xuất,
truyền tải, sử dụng tri thức chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế. Từ nay
các giá trị kinh tế lớn nhất được làm ra không phải trong khu vực trực
tiếp sản xuất của cải vật chất mà trong khu vực khoa học, kỹ thuật, dịch
vụ. Vai trò của tài nguyên thiên nhiên và của cải vật chất sẵn có ngày


càng giảm so với tiềm năng trí tuệ, tinh thần, văn hóa. Tri thức trở thành
sức mạnh to lớn cải tạo kinh tế, biến đổi xã hội.Hiện nay, chúng ta đang
vượt qua thời đại văn minh công nghiệp, tiến vào thời đại văn minh kinh
tế tri thức. Ở thời đại này, động lực thúc đẩy sự phát triển nền sản xuất xã
hội khơng cịn là lượng tiền vốn (tư bản), cũng không phải là sức mạnh
của lao động giản dơn, mà là tri thức. Tri thức tồn tại trong bộ óc con
người, vai trò tự chủ của con người là tiền đề để con người phát huy đầy
đủ tri thức. Chỉ có sự hợp tác rộng rãi với mọi người, năng lực của bản
thân con người hiện đại mới được phát triển đầy đủ, mới có thể nâng cao
hiệu quả sản xuất theo cấp số nhân.
Toffler, nhà tương lai học người Mỹ trong cuốn sách Sự chuyển dịch
quyền lực cho rằng: ...“tri thức thay cho tư bản, ngoài việc thay thế vật
chất, vận tải và năng lượng ra, nó cịn có thể tiết kiệm thời gian. Ở góc độ

lý thuyết, tri thức là nguồn tài sản lấy không hết, dùng không cạn, là vật
thay thế cuối cùng, đã trở thành nguồn tài nguyên cuối cùng của của cải.
Tri thức là nhân tố tăng trưởng kinh tế then chốt trong thế kỷ XXI”.
( trang 17, dòng 3- Thời đại kinh tế tri thức).
Tri thức thường được phân ra thành mấy loại:
Biết cái gì ( know – what) nói về sự nhận biết các sự kiện, các vật thể, các
hiện tượng...; ở đây tri thức rất gần gũi với thông tin, khối lượng tri thức
có thể đo bằng bite. Trong một số lĩnh vực các chuyên gia phải có rất
nhiều cái biết này mới có thể làm trịn nhiệm vụ;
Biết tại sao (know – why) thường để chỉ tri thức khoa học, hiểu biết về
bản chất tự nhiên. Tri thức này là cơ sở cho những tiến bộ công nghệ, đổi
mới các sản phẩm trong phần lớn các ngành công nghiệp; tạo ra các tri
thức này thường là từ các cơ quan nghiên cứu và các trường đại học;
Biết thế nào (know – how) là để chỉ kỹ năng hoặc năng lực làm một việc
gì. Đây là loại tri thức đặc trưng cho năng lực cạnh tranh của một doanh


nghiệp. Người ta thường lập một mạng lưới công nghiệp để các doanh
nghiệp có thể chia sẻ và tổ hợp các yếu tố của loại tri thức này;
Biết ai (know – who) là cái biết quan trọng nhất. “Biết ai” bao gồm thơng
tin về ai biết cái gì, ai biết làm thế nào, làm những gì. Đó cũng là tri thức
về quan hệ xã hội, về tổ chức tập hợp lực lượng, về cách tiếp cận với các
chuyên gia và sử dụng hiệu quả nhất tri thức của họ...Đối với người quản
lý và các tổ chức, tri thức này là hàng đầu để đổi mới ngày càng nhanh.
Có hai dạng tri thức: Tri thức tiềm ẩn và tri thức mã hóa.
Với sự phát triển của cơng nghệ thơng tin, tri thức mã hóa tăng nhanh, tri
thức tiềm ẩn của con người phát triển qua tiếp thu tri thức mã hóa (học
tập) và qua hoạt động thực tiễn. Năng lực lựa chọn thông tin, xử lý và
giải mã thông tin, cũng như học tập những kỷ năng mới, bỏ đi những kỷ
năng cũ là rất cần thiết. Chỉ có thơng qua học tập mới có thể tích lũy tri

thức tiềm ẩn cần thiết để tri thức mã hóa trên các cơng nghệ thơng ton
đem lại lợi ích nhiều nhất.
Nền kinh tế tri thức coi việc phổ cập và sử dụng tri thức và thông tin là
rất quan trọng, ngang với sự tạo ra chúng.
Sự thành đạt của các doanh nghiệp cũng như của các quốc gia ngày nay
liên quan nhiều nhất với việc thu nhận và sử dụng có hiệu quả nhất tri
thức.
1.1.3 Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức
Những đặc trưng chủ yếu của ba trình độ kinh tế

T
T

I
Các đặc trưng

III

Kinh tế sức Kinh tế tài Kinh tế tri
người

1

II

Tầm quan trọng của Nhỏ

nguyên

thức


Lớn

Rất lớn

1-2%

Trên 3%

nghiên cứu khoa học
2

Tỷ lệ kinh phí dành Dưới 0,3%


cho nghiên cứu khoa
học trên GDP
3

Tỷ lệ đóng góp của Dưới 10%

Trên 40%

Trên 80%

Lớn

Rất lớn

2-3%


6-8%

KH & CN cho tăng
trưởng kinh tế
4

Tầm quan trọng của Nhỏ
giáo dục

5

Tỷ lệ kinh phí dành Dưới 1%
cho giáo dục trên
GDP

6

Bình quân trình độ Tỷ lệ mù Trung học

Trung

văn hóa

chun

chữ cao

học


nghiệp
7

Kết cấu cơng nghệ:
- Cơng

nghệ -

3-5%

Gần 15%

-

2%

Gần 10%

- Công nghệ sinh -

2%

Gần 10%

thông tin
học

Gần 10%

- Công nghệ năng -


2%

Gần 5%

lượng tái sinh và -

1%

Gần 5%

năng lượng mới

1%

Gần 5%

-

Gần 5%

-

- Công nghệ biển
- Công nghệ sạch

-

- Công nghệ vật liệu mới
- Công


nghệ

không gian
- Công nghệ mềm

-


8

Kết cấu sức lao
động

Trên 50%

10-20%

Dưới 10%

- Nông nghiệp

15-20%

Trên 30%

Dưới 20%

- Công nghiệp


-

10-15%

Trên 40%

36

60-70

Trên 70

Cao

Thấp

Rất thấp

25%

70%

Thấp <70%

Lớn

Rất lớn

Phức tạp


Rất phức tạp

Khá cao

Rất cao

- Công nghệ cao
9

Tuổi thọ

10

Tỷ lệ tăng dân số

11

Mức độ đơ thị hóa

12

Vai trị của truyền Khơng lớn
thơng

13

Trình độ tổ chức xã Đơn giản
hội

14


Mức độ tồn cầu hóa Thấp
kinh tế thế giới

Nguồn : Ngô Qúy Tùng. Kinh tế tri thức – xu thế mới của xã hội thế lỷ
XXI. NXB KHKT Bắc Kinh, 1998, tr.33.
Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế sức người là sức lao động cơ bắp của
con người và tài nguyên thiên nhiên, là cơ sở chủ yếu tạo ra cuẩ cải vật
chất đáp ứng nhu cầu của con người. Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế
tài nguyên , tuy đã có sự trrowj giúp của máy móc nhưng sức cơ bắp của
con người và tài nguyên vẫn giữ vị trí trọng yếu. Tuy nhiên trong nền
KTTT, tri thức con người chiếm vị trí ngày càng cao hơn.
Kinh tế tri thức có những đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức. Của
cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa vào tài nguyên thiên nhiên và
sức lao động cơ bắp, tuy vốn và lao động vẫn là yếu tố cơ bản không thể
thiếu.


Giá trị sản xuất được tạo ra nhiều nhất là từ tri thức; khi sử dụng nhiều
công nghệ mới, tri thức quản lý mới, một hecta đất nơng nghiệp có thể
cho giá trị gấp nhiều lần mà chi phí vật chất không tăng, như thế giá trị
gia tăng chủ yếu là do tri thức tạo ra; khi ngành cơ khí truyền thống
chuyển lên tự động hóa, sử dụng cơng nghệ số,tự động hóa, quang điện
tử... thì ngành đó trở thành ngành kinh tế tri thức. Trong các ngành kiến
trúc, xây dựng, việc sử dụng công nghệ viễn thám, hệ thống thông tin địa
lý để thay thế cho việc khảo sát thủ cơng, sử dụng cơng nghệ mơ phỏng,
tự động hóa trong thiết kế, sử dụng vật liệu mới, các thiết bị tự động hóa
trong thi cơng cũng tạo ra giá trị gia tăng cao, giảm tiêu hao vật liệu, giảm
hàm lượng lao động cơ bắp, các ngành đó đi theo hướng kinh tế tri thức.

Cịn trong các ngành cơng nghiệp cơng nghệ cao, nhất là cơng nghệ phần
mềm thì rõ ràng giá trị tạo ra chủ yếu là do tri thức, các chi phí vật chất
khơng đáng kể, đó thực sự là những ngành kinh tế dựa vào tri thức.
Trong khi nền kinh tế công nghiệp dựa vào sự tổ chức sản xuất hàng loạt,
quy chuẩn hóa, thì nền kinh tế tri thức được tổ chức trên cơ sở sản xuất
linh hoạt hàng hóa và dịch vụ dựa vào cơng nghệ cao, đây cũng là kinh tế
văn phịng. Nói như thế khơng có nghĩa là sự chế tạo hàng loạt là không
quan trọng, cũng không phải là sản phẩm chế tạo hoặc thực phẩm ít đi;
mà đó là do nhịp độ tăng năng suất trong sản xuất công nghiệp và nông
nghiệp rất cao.
Trong nền KTTT các ngành công nghiệp và dịch vụ mới dựa vào công
nghệ cao, dựa vào tri thức mới phát triển rất nhanh, đóng góp lớn cho
tăng trưởng GDP; các ngành này là đầu tàu thúc đẩy đổi mới tồn bộ nền
kinh tế. Các doanh nghiệp cơng nghệ cao, nhất là doanh nghiệp công
nghệ thông tin, phát triển nhanh nhất, trở thành những doanh nghiệp đứng
hàng đầu trong nền kinh tế tồn cầu, thay thế vị trí các doanh nghiệp dầu
mỏ, ô tô trước đây.


Như vậy, nền kinh tế tri thức được đặc trưng trước hết bởi sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng các ngành kinh tế có giá trị gia tăng
cao dựa nhiều vào tri thức: đó là các ngành công nghiệp thông tin, công
nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ dựa vào xử lý thơng tin, tài
chính ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát triển công nghệ...
Thứ hai, sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng
nhất, tiên tiến nhất , tiêu biểu của nền sản xuất tương lai và chuyển giao
công nghệ chiếm thị phần chủ yếu trên thị trường.
Các ngành KTTT đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát
triển. Các doanh nghiệp đều tiến hành sản xuất cơng nghệ cao, thậm chí
có nhiều doanh nghiệp chun sản xuất cơng nghệ cao, có thể gọi là

doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hóa,
khơng cịn sự cách biệt, phân biệt phịng thí nghiệm với cơng xưởng,
những người làm việc trrong đó là công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu
vừa sản xuất.
Nhờ sản xuất công nghệ cao trở thành phổ biến, thường xuyên của các
doanh nghiệp nên đã làm cho nền kinh tế thường xuyên chuyển giao công
nghệ, thường xuyên đổi mới công nghệ hiện đại, làm cho thị trường công
nghệ phát triển nhanh lan tỏa toàn cầu và chiếm thị phần lớn trên thị
trường, làm cho năng suất lao động ngày càng tăng, chủng loại sản phẩm
ngày càng đa dạng phong phú, chất lượng ngày càng cao, hàm lượng tri
thức chiếm trong sản phẩm chiếm đại bộ phận và trở nên giàu có. Thí dụ
như ở Mỹ có Microsoft của Bill Gates cũng chỉ mới hơn 20 năm sản xuất
kinh doanh mà đã trở thành doanh nghiệp lớn nhất thế giới về cơng nghệ
thơng tin.
Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp là yếu tố rất quan trọng
thúc đẩy phát triển nhanh sự ra đời các công nghệ mới. Đây là những
vườn ươm cơng nghệ; ở đây có các điều kiện thuận lợi để nhất thể hóa
q trình nghiên cứu, thực nghiệm khoa học, triển khai công nghệ và sản


xuất, nhờ đó các ý tưởng khoa học nhanh chóng trở thành công nghệ và
đưa ra sản xuất.
Thương mại điện tử, thị trường ảo, tổ chức ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ
xa...được thiết lập làm cho công việc sản xuất kinh doanh rất nhanh nhạy,
linh hoạt, khoảng cách bị xóa dần, ý nghĩa của vị trí địa lý giảm đi.
Vì nền sản xuất dựa vào cơng nghệ cao, tiêu hao ít nguyên liệu, năng
lượng, thải ra ít phế thải, cho nên trong nền KTTT có thể thực hiện được
sản xuất sạch, khơng gây ơ nhiễm mơi trường. KTTT có khả năng là nền
kinh tế phát triển bền vững.
Thứ ba, xã hội tri thức là một xã hội thông tin – nhân tố tích cực cho sự

phát triển con người tồn diện.
Trong KTTT, nhờ cơng nghệ thơng tin phát triển ở đỉnh cao, mọi gia đình
đều co

1.2

Sự cần thiết phải phát triển kinh tế tri thức ở nước ta

Thứ nhất, phát triển kinh tế tri thức ở nước ta la con đường tất yếu để đi
lên chủ nghĩa xã hội, là phù hợp với đường lối, chính sách cơ bản của
Đảng ta. Sự xuất hiện của kinh tế tri thức và xu thế phát triển tất yếu của
nó đã trở thành một xu hướng lịch sử và một quy luật phát triển khách
quan trên phạm vi quốc tế ngày nay. Vì vậy phủ nhận xu hướng đó là phủ
nhận tính khách quan của lịch sử. Việt nam cũng không nằm ngồi xu
hướng đó. Nước ta khơng thể bỏ lỡ cơ hội này, bỏ qua xu thế khách quan
của thời đại sẽ làm cho nước ta ngày càng tụt hậu so với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, ở nước ta, phát triển kinh tế tri thức là để đẩy nhanh và rút
ngắn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng đi, đường lối


đã chọn để xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, phát triển kinh tế tri thức là nắm bắt, vận dụng những tri thức
mới, những thành quả mới về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý,
sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh hơn nữa công cuộc đổi mới, vận dụng
kinh tế tri thức để tạo ra những bứt phá lớn, có ý nghĩa.
Thứ tư, bằng sử dụng tri thức mới ( tri thức cơng nghệ, tri thức quản
lý....) có thể chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các
ngành có giá trị gia tăng cao, nâng cao chất lượng hiệu quả, năng lực

cạnh tranh nền kinh tế, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng dài hạn, đảm bảo sự
phát triển bền vững. Đồng thời, sử dụng tri thức mới để tạo ra nhiều việc
làm, xóa đói giảm nghèo, giải quyết những nhu cầu cơ bản và cấp thiết
của nhân dân, góp phần thúc đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Thứ năm, trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phải thực hiện
đồng thời hai q trình từ kinh tế nơng nghiệp lên kinh tế công nghiệp
và từ kinh tế công nghiệp lên kinh tế tri thức. Hai qua trình đó lồng ghép
vào nhau............
1.3

Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình dạy và học về vấn dề

kinh tế tri thức ở trường THPT hiện nay.
1.3.1 Đặc điểm dạy học về kinh tế tri thức ở trường THPT.
1.3.1.1

Đặc điểm môn giáo dục công dân ở trường THPT

Mục tiêu đào tạo của nhà trường phổ thơng chúng ta là hình thành và phát
triển tồn diện nhân cách tốt đẹp cho thế hệ trẻ. Đó là những công dân
tương lai, những người lao động mới phát triển hài hịa trên tất cả các mặt
đức dục, trí dục, mỹ dục, thể dục, lao động; những người sẽ xây dựng đất
nước ngày càng phồn vinh, sẽ nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nhân dân ngày càng tươi đẹp và hạnh phúc.


Để hình thành và phát triển những con người như vậy, nhà trường phổ
thơng phải có chương trình, nội dung giáo dục, giáo dục phù hợp với đất
nước, con người Việt Nam, phù hợp với thời đại. Yêu cầu khách quan đó

được qn triệt trong tất cả chương trình và nội dung học tập của tồn bộ
các mơn học trong nhà trường nói chung, trong trường phổ thơng trung
học nói riêng. Từ năm học 1990 – 1991 chúng ta đã xác định môn giáo
dục công dân là môn khoa học xã hội trong trường phổ thông trung học.
Cùng với các mơn khoa học khác, mơn giáo dục cơng dân góp phần hình
thành và phát triển nhân cách, năng lực, phẩm chất cho học sinh phổ
thông trung học. Khác với môn khoa học xã hội khác, mơn giáo dục cơng
dân hình thành phẩm chất chính trị, tư tưởng đạo đức; nó gắn liền với
đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Môn giáo dục công dân ở trường phổ thông trung học luôn luôn khái quát
những thành tựu của các khoa học khác, của hoạt động vật chất và tinh
thần của con người, sẽ luôn luôn được bổ sung những tri thức mới về triết
học, về sự phát triển của xã hội và đời sống xã hội, về đường lối xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, về đạo đức và pháo luật.
Kết cầu chương trình, nội dung của mơn học bao giờ cũng theo một hệ
thống tri thức xác định. Hệ thống đó vừa đảm bảo tri thức phổ thơng cơ
bản, hiện đại và hiện thực, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi,
với trình độ nhận thức của học sinh, phù hợp với yêu cầu phát triển của
đất nước và con người Việt Nam, với xu thế phát triển của thế giới và
thời đại. Những tri thức được xác định trong hệ thống đó mang tính pháp
lệnh, buộc giáo viên phải tuân thủ nghiêm ngặt.
Tri thức của mơn giáo dục cơng dân gắn rất chặt với tình hình thực tế của
các khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học tư duy, của đời sống xã
hội, sự phát triển của thế giwois, của đất nước và con người Việt Nam.
Thế giới khách quan ( tự nhiên, xã hội và tư duy ) luôn luôn vận động và
biến đổi. Hàng ngày, hàng giờ trên Trái đất và trên đất nước ta có biết bao


những biến động. Đó chính là những thực tế rất sinh động góp phần đắc
lực vào việc làm sáng tỏ, minh chứng cho lý thuyết khoa học của bộ môn.

1.3.1.2

Đặc điểm dạy và học về kinh tế tri thức ở trường THPT

1.3.1.3

Yêu cầu về dạy và học vấn đề kinh tế tri thức ở trường

THPT hiện nay


Đối với giáo viên

-

Thiết kế, tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học

tập với các hình thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn phù hợp với nội
dung bài học, với đặc điểm và trình độ của học sinh, với điều kiện cụ thể
của lớp, trường, địa phương.
-

Thiết kế và hướng dẫn học sinh thực hiện các dạng câu hỏi và bài

tập liên quan đến bài học có nội dung nói về vấn đề kinh tế tri thức,
hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề
thực tiễn cuộc sống đặt ra.
-

Động viên, khuyến khích, tạo cơ hội và điều kiện cho học sinh


tham gia một cách tích cực, chủ động, sáng tạo vào quá trình lĩnh hội tri
thức; chú ý khai thác vốn kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng đã có của học
sinh; tạo niềm vui, hứng khởi, thái độ tự tin trong học tập và nhu cầu, khả
năng hành động trong cuộc sống, giúp các em phát triển tối đa năng lực
của mình.
-

Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách

hợp lý, có hiệu quả, linh hoạt phù hợp với bài học, phù hợp với đặc điểm
và trình độ nhận thức của học sinh, các điều kiện dạy học của lớp, trường,
địa phương.



Đối với học sinh

-

Tích cực, chủ động, sáng tạo trong quá trình tham gia vào các hoạt

động học tập để tự khám phá và lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng và
xây dựng thái độ hành vi đúng đắn.


-

Có ý thức xây dựng bài, mạnh dạn trình bày và bảo vệ quan điểm,


ý kiến của bản thân trước thầy cơ, bạn bè; tích cực thảo luận, tranh luận
trong q trình lĩnh hội kiến thức.
-

Tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập, thực hành thí nghiệm,

xây dựng và thực hiện kế hoạch học tập phù hợp với khả năng và điều
kiện, vận dụng những kiến thức đã học vào giải quyết những vấn đề đặt
ra trong cuộc sống một cách phù hợp, đúng đắn.
1.3.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình dạy và học về vấn dề
kinh tế tri thức ở trường THPT hiện nay
1.3.2.1


Cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên

Về cơ sở vật chất:

Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến sự nghiệp phát triển giáo dục. Đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Nhận thức được điều đó, Đảng
và Nhà nước ta đã đề ra những chính sách chủ trương đúng đắn để phát
triển giáo dục. Vì vậy cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho quá trình dạy
học ngày càng được nâng cao và đáp ứng ngày càng đầy đủ cho nhiều
lớp, trường ở nhiều địa phương. Tuy nhiên, đối với môn học giáo dục
công dân, Bộ Giáo dục và đào tạo chưa thực sự đầu tư về cơ sở vật chất
kỹ thuật. Hơn nữa còn thiếu sự đồng bộ giữa nông thôn và thành thị. Môn
giáo dục công dân là một môn khoa học xã hội mang tính thực tiễn cao,
vì vậy địi hỏi có cơ sở vật chất đầy đủ. Nhưng trong thực tế các giáo viên
giảng dạy môn GDCD chưa được trang bị đầy đủ những thiết bị dạy học.
Đặc biệt là SGK. SGK là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến

quá trình tiếp nhận tri thức của học sinh. SGK GDCD là tài liệu cụ thể
hóa chương trình qua một hệ thống các bài học. Đối với học sinh, SGK
GDCD khơng chỉ có chức năng cung cấp những kiến thức, chuẩn mực và
cần thiết mà cịn góp phần hướng dẫn phương pháp học tập, củng cố kiến
thức đã học, tạo điều kiện hình thành và phát triển nhân cách, kỹ năng
cho học sinh. Đối với giáo viên, SGK GDCD là tài liệu để thể hiện khối


lượng và mức độ nội dung kiến thức cần giảng dạy. Hiên nay, SGK đã có
sự điều chỉnh, cải cách cho phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh


Về đội ngũ giáo viên

Nhờ sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, đội ngũ giáo viên
THPT nói chung và đội ngũ giáo viên giảng dạy môn GDCD nói riêng
ngày càng đơng đảo về số lượng và chất lượng cũng ngày càng được nâng
cao. Hầu hết giáo viên đạt trình độ chuẩn, được đào tạo vững vàng cả về
chuyên môn lẫn nghiệp vụ. Giáo viên nhiệt huyết với nghề nghiệp, tận
tâm, tận lực, thương yêu học sinh, có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt.
Tuy nhiên, các cấp lãnh đạo vẫn chưa thực sự chú ý đến việc xây dựng
đội ngũ giáo viên đáp ứng được yêu cầu vừa phải tăng nhanh quy mô
vừa phải đảm bảo nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Một số giáo
viên có kiến thức chưa sâu, tay nghề chưa thành thạo, chưa có sự đổi mới
trong dạy học
1.3.2.2

Phương pháp dạy học

1.3.2.3


Học sinh

1.4

Kinh nghiệm dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở trường

THPT.

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG DẠY VÀ HỌC VỀ VẤN ĐỀ KINH
TẾ TRI THỨC Ở CÁC TRƯỜNG THPT HIỆN NAY.

2.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.2 Tình hình dạy và học về vấn đề kinh tế tri thức ở các trường
THPT hiện nay
2.2.1 Về cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên



×