Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LV Thạc sỹ_Hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và thiết bị công nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.72 KB, 106 trang )

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài.

Chúng ta đang trong giai đoạn những năm đầu của thế kỷ XXI, thế kỷ đã có
nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực: khoa học, công nghệ, thông tin, sinh học…đặc
biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin. Sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông
tin trên thế giới đã làm thúc đẩy sự phát triển của nhiều hoạt động khác, đặc biệt là
hoạt động sản xuất kinh doanh. Diệt vong hay tồn tại, thắng lợi hay thất bại, điều đó
trong giai đoạn hiện nay có thể nói là phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố thông tin. Vì
vậy, các công ty, các doanh nghiệp thuộc mọi ngành, mọi thành phần kinh tế luôn
phải suy nghĩ, tìm giải pháp làm thế nào để có thể thu được thông tin một cách
nhanh nhất, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, Việt Nam sau gần 20 năm đổi mới cũng đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn, trở thành một nước có nền kinh tế đang phát triển khá ổn định, là
nơi tập trung khá nhiều đầu tư của các nước Châu á và trên thế giới. Trước tình hình thế
giới và trong nước như vậy, các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế của
Việt Nam đã chú trọng, quan tâm rất nhiều đến yếu tố thông tin để có thể giành được vị trí
trong nền kinh tế.
Ngành sản xuất công nghiệp là một ngành luôn được Nhà nước ta quan tâm và đặt
vào vị trí quan trọng trong nền kinh tế, tuy vậy, các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của
nước ta trong những năm qua còn gặp khá nhiều khó khăn do cơ sở vật chất kỹ thuật yếu
kém, công nghệ lạc hậu, chậm phát triển rất nhiều so với nhiều quốc gia trên thế giới. Đến
nay, mặc dù đã có sự đi lên của một số doanh nghiệp, song lợi nhuận của các doanh nghiệp
thuộc ngành sản xuất công nghiệp vẫn còn khá khiêm tốn. Để có thể thu được lợi nhuận
cao đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm mọi cách giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp mới chỉ quan tâm đến khía cạnh này thì chưa đủ trong giai đoạn
hiện nay, khi mà thông tin trở nên rất cần thiết cho các quyết định của doanh nghiệp. Chính
vì vậy, hạch toán được chi phí sản xuất và tính giá thành chính xác mới chỉ là điều kiện
cần, nhưng để đủ thì song song với điều đó là cần quan tâm làm thế nào để có thể cung cấp
thông tin hữu ích nhất cho các nhà quản trị doanh nghiệp để có thể hoạch định nên các
chiến lược, chính sách, quyết sách của doanh nghiệp.




Với ý nghĩa này, tác giả đã đi đến lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện hạch toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại
các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp”
2. Mục đích nghiên cứu.
- Hệ thống hoá lý luận chung về hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm, lý luận
chung về hệ thống thông tin kế toán quản trị trong doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
- Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng hạch toán chi phí tính giá thành sản
phẩm, thực trạng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công
ty Máy và Thiết bị công nghiệp.
- Kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện hạch toán chi phí, tính giá thành sản
phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc
Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận, tình hình thực tế hạch toán chi phí tính
giá thành sản phẩm, thực tế hệ thống thông tin kế toán quản trị của các doanh nghiệp thuộc
Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy và
Thiết bị công nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với tư duy khoa học lô
gíc để nghiên cứu.
- Ngoài ra để nghiên cứu luận văn còn sử dụng các phương pháp khảo sát, phân tích,
tổng hợp, đối chiếu, quy nạp, diễn giải để đưa ra những nhận xét, kiến nghị.
5. Kết cấu của luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục bảng biểu, sơ đồ, chữ viết tắt,
tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá

thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp
sản xuất công nghiệp.
Chương 2: Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc
xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Máy
và Thiết bị công nghiệp.


Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp
thuộc Tổng công ty Máy và Thiết bị công nghiệp

Chương 1
Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán
chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc xây dựng hệ thống
thông tin kế toán quản trị tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
1.1. Lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.

1.1.1. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
1.1.1.1. Chi phí sản xuất.
Trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, thực hiện sản xuất ra những sản
phẩm nhất định và tiêu thụ những sản phẩm đó trên thị trường nhằm thu lợi nhuận
là hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp. Để tiến hành được các hoạt động sản xuất
thì các doanh nghiệp cần phải kết hợp ba yếu tố của quá trình sản xuất đó là: Lao
động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Quá trình sản xuất là quá trình người
lao động sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo nên sản
phẩm thoả mãn nhu cầu của xã hội. Đây cũng chính là quá trình tiêu hao các yếu tố
nói trên để hình thành nên các chi phí tương ứng. Đó là chi phí về lao động như tiền
lương, tiền công và các khoản trích theo lương gồm BHXH, BHYT, KPCĐ, chi phí
về tư liệu lao động như chi phí khấu hao TSCĐ, công cụ dụng cụ và chi phí về đối

tượng lao động như các loại nguyên vật liệu. Các chi phí này phát sinh thường
xuyên gắn liền với quá trình sản xuất được gọi là chi phí sản xuất. Hao phí về tư
liệu lao động và đối tượng lao động được gọi chung là hao phí về lao động vật hoá.
Vì vậy về mặt chất:
Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao
động vật hóa mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong
một thời kỳ nhất định.
Về mặt lượng, chi phí sản xuất phụ thuộc vào 2 yếu tố:


- Lượng hao phí lao động và hao phí tư liệu sản xuất trong kỳ.
- Giá cả của một đơn vị lao động đã hao phí và giá cả tư liệu sản xuất đã tiêu hao.
CPSX phát sinh bao gồm rất nhiều loại do đó cần phải phân loại CPSX nhằm quản lý
tốt chi phí, tạo ra các thông tin hữu ích cho việc ra quyết định tăng thêm, giảm bớt, cắt
bỏ…chi phí thích hợp và không thích hợp cho sản xuất. Có các cách phân loại CPSX như
sau:
* Phân loại CPSX theo yếu tố chi phí:
Đây là cách phân loại dựa vào nội dung kinh tế của chi phí. Về thực chất chỉ có 3 yếu
tố chi phí là chi phí về lao động, chi phí về tư liệu lao động và chi phí về đối tượng lao
động. Tuy nhiên để có thể cung cấp thông tin một cách cụ thể hơn nhằm phục vụ cho việc
xây dựng, phân tích định mức vốn lưu động, lập kiểm tra, phân tích dự toán chi phí nên các
yếu tố chi phí trên được chi tiết theo nội dung kinh tế cụ thể của chúng. Theo cách phân
loại này thì chi phí sản xuất bao gồm 7 yếu tố:
- Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu
phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ …sử dụng vào sản xuất (loại trừ giá trị dùng
không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi cùng với nhiên liệu, động lực).

- Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất trong kỳ.
- Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và các
khoản phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho công nhân viên chức.

- Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương và
phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức.
- Yếu tố khấu hao TSCĐ: Phản ánh tổng số khấu hao TSCĐ phải trích trong kỳ của
tất cả TSCĐ sử dụng cho hoạt động sản xuất trong kỳ.
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng
cho sản xuất trong kỳ.
- Yếu tố chi phí khác bằng tiền: Phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản
ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất trong kỳ.

Tác dụng trực tiếp của cách phân loại này là để tập hợp chi phí theo nội dung
kinh tế ban đầu đồng nhất của chi phí mà không xét đến công dụng, địa điểm phát
sinh của chi phí. Ngoài ra cách phân loại này còn có ý nghĩa rất lớn trong quản lý
CPSX, nó cho biết tỷ trọng từng yếu tố CPSX qua đó đánh giá, phân tích tình hình
thực hiện dự toán CPSX, cung cấp tài liệu cho việc lập dự toán CPSX. Tuy nhiên


cách phân loại này có nhược điểm là không tính được giá thành cho từng đơn vị sản
phẩm do không phân biệt chi phí theo mục đích và công dụng của chi phí.
* Phân loại CPSX theo khoản mục chi phí trong GTSP.
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong GTSP và để thuận tiện cho việc tính giá thành,
CPSX được phân loại theo khoản mục. Hiện nay, CPSX bao gồm các khoản mục sau:
- Chi phí NVLTT: bao gồm giá trị của nguyên liệu, vật liệu dùng trực tiếp cho sản
xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
- Chi phí NCTT: Bao gồm toàn bộ tiền lương và các khoản trích theo lương: BHXH,
BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm.
- Chi phí SXC: là những khoản chi phí phát sinh ở dưới phân xưởng, bộ phận sản
xuất còn lại ngoài CPNVLTT và CPNCTT.
Cách phân loại này dựa vào mục đích, công dụng của chi phí mà không phân biệt chi
phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Cách phân loại này giúp cho nhà quản trị doanh
nghiệp dự toán được các khoản mục chi phí trọng yếu trong CPSX sản phẩm, cung cấp số

liệu cho việc xây dựng định mức giá thành và quản lý giá thành theo khoản mục, tính toán
nhanh giá thành thành phẩm và bán thành phẩm trong quá trình quản lý chi phí, phân tích
tình hình thực hiện giá thành theo khoản mục chi phí. Từ đó xác định nguyên nhân, đề ra
các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ GTSP, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
* Phân loại CPSX theo mối quan hệ với đối tượng tập hợp chi phí.
- Chi phí trực tiếp: Là CPSX có liên quan trực tiếp đến sản xuất từng loại sản phẩm,
đơn hàng. Vì vậy có thể tập hợp trực tiếp cho từng loại sản phẩm, đơn hàng đó. Thuộc loại
chi phí này có CPNVLTT, CPNCTT.

- Chi phí gián tiếp: Là các chi phí có liên quan đến sản xuất nhiều loại sản
phẩm, đơn hàng khác nhau. Loại chi phí này phải tập hợp chung rồi tiến hành phân
bổ cho các đối tượng, sản phẩm, đơn hàng theo một tiêu thức phù hợp. Thuộc loại
chi phí này có CPSXC.
Cách phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định phương pháp tập hợp và
phân bổ CPSXC cho các đối tượng, sản phẩm có liên quan một cách chính xác, hợp
lý.
Các cách phân loại chi phí nêu trên là cần thiết cho công tác quản lý chi phí và
tính GTSP. Tuy nhiên không sử dụng được cho việc lập kế hoạch, kiểm tra và ra
quyết định kinh doanh được. Do đó để cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch,


kiểm tra và ra quyết định kinh doanh, CPSX được phân loại theo mối quan hệ với
khối lượng sản phẩm hoàn thành.
* Phân loại CPSX theo mối quan hệ của chi phí với khối lượng sản phẩm hoàn
thành.
Theo cách phân loại này, CPSX được chia thành biến phí và định phí.

- Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng sản
phẩm sản xuất trong kỳ, chẳng hạn CPNVLTT, CPNCTT…Biến phí tính trên một
đơn vị sản phẩm thì lại có tính cố định.

- Định phí: Là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng sản phẩm
sản xuất trong kỳ, chẳng hạn các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng,
phương tiện kinh doanh v.v…Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì
lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi.
- Chi phí hỗn hợp: Là loại chi phí bao gồm cả yếu tố biến phí và yếu tố định
phí, chẳng hạn như chi phí điện thoại, chi phí sửa chữa thường xuyên TSCĐ. ở một
khối lượng sản phẩm sản xuất nhất định thì chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của
định phí. Vượt trên khối lượng đó thì chi phí hỗn hợp thể hiện đặc điểm của biến
phí.
Quá trình sản xuất là quá trình thống nhất của 2 mặt: mặt hao phí sản xuất và
mặt kết quả sản xuất. CPSX là chỉ tiêu được dùng để phản ánh hao phí sản xuất, còn
kết quả sản xuất được thể hiện bằng chỉ tiêu GTSP.
1.1.1.2. Giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động
sống và lao động vật hóa có liên quan đến một khối lượng sản phẩm hoàn thành nhất định.

GTSP là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả sử dụng vật tư, tài sản, tiền
vốn và lao động trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời phản ánh
kết quả của các giải pháp tổ chức kinh tế kỹ thuật cũng như công nghệ mà doanh
nghiệp đã sử dụng. Do đó giá thành là căn cứ đánh giá chất lượng và hiệu quả của
doanh nghiệp.
Để đáp ứng yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hóa, GTSP được xem
xét dưới nhiều góc độ khác nhau.


* Theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành, giá thành được chia làm 3
loại:
- Giá thành kế hoạch: được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá
thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.


- Giá thành định mức: Giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt
đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên
cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch,
giá thành định mức được xây dựng trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại
từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá
thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt
được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
- Giá thành thực tế: Là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản
phẩm dựa trên cơ sở các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.

* Theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được chia làm 2 loại:
- Giá thành sản xuất: Là chỉ tiêu phản ánh tất cả các chi phí phát sinh liên quan
đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
- Giá thành toàn bộ: Là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh
liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Cả CPSX và GTSP đều là các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh quá trình sản
xuất. Mỗi chỉ tiêu có bản chất kinh tế và cách tính riêng song giữa chúng có mối
quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Để hiểu rõ cần nghiên cứu mối quan hệ giữa
CPSX và GTSP.
1.1.2. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
CPSX và GTSP đều là các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hai mặt thống
nhất của quá trình sản xuất. CPSX phản ánh mặt hao phí sản xuất còn GTSP phản
ánh mặt kết quả của sản xuất. Do đó xét về bản chất cả CPSX và GTSP đều là biểu
hiện bằng tiền của hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp
đã bỏ ra trong quá trình sản xuất.
CPSX và GTSP có mối quan hệ mật thiết với nhau. CPSX là tiền đề, là cơ sở
để tính GTSP. Không tính được CPSX thì không tính được GTSP và ngược lại,
không có GTSP thì không thể biết được lượng chi phí tạo ra giá trị sản phẩm là bao



nhiêu, có hợp lý, hiệu quả không. Mặt khác, khi doanh nghiệp tiết kiệm được CPSX
cũng có nghĩa là hạ thấp được GTSP. Vì vậy CPSX, GTSP không chỉ có mối quan
hệ biện chứng trong lĩnh vực tính toán mà còn có sự gắn bó mật thiết với nhau trong
lĩnh vực quản lý kinh tế. Tuy nhiên, giữa CPSX và GTSP có những điểm khác biệt
quan trọng:
- Về phạm vi thời gian: CPSX luôn gắn liền với một thời kỳ nhất định, còn
GTSP lại gắn với khối lượng sản phẩm hoàn thành nhất định có thể vừa liên quan
đến kỳ này, vừa liên quan đến kỳ trước.
- Về phạm vi tính toán: CPSX trong kỳ bao gồm những chi phí phát sinh thực
tế trong kỳ không phân biệt chi phí đó phải trả cho kỳ trước hoặc trả cho kỳ sau.
Trong khi đó GTSP bao gồm phần lớn CPSX kỳ này và một phần CPSX đã chi ra
kỳ trước (tồn tại dưới dạng chi phí SPDD đầu kỳ) nhưng cho sản phẩm trong kỳ
này.
- Trong quá trình sản xuất, CPSX kỳ trước chuyển sang kỳ này thường không
khớp với chi phí sản xuất kỳ này chuyển sang kỳ sau nên tổng CPSX trong một kỳ
thường không trùng với tổng GTSP hoàn thành kỳ đó.
Mối quan hệ CPSX và GTSP được thể hiện qua sơ đồ sau:
CPSX dở dang đầu kỳ

CPSX phát sinh trong kỳ

A

B

C

Tổng GTSP hoàn thành

D

CPSX dở dang cuối kỳ

Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa CPSX và GTSP.
Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD - CD hay:

Tổng
GTSP

=

Chi phí sản xuất
dở dang đầu kỳ

+

Chi phí sản xuất
phát sinh trong
kỳ

-

Chi phí sản xuất
dở dang cuối kỳ

hoàn

Khi AB = CD thì AC = BD hay khi giá trị SPDD đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau

thành


hoặc trong các ngành sản xuất không có SPDD thì tổng GTSP bằng tổng CPSX phát
sinh trong kỳ.
1.1.3. Vai trò của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.


Với bản chất của CPSX và GTSP nêu trên thì hạch toán CPSX và tính GTSP
có ý nghĩa vô cùng to lớn không chỉ với các doanh nghiệp ở tầm vi mô mà cả với
tầm quản lý vĩ mô là Nhà nước.
* Vai trò của hạch toán CPSX và tính GTSP đối với doanh nghiệp.
Hạch toán đúng, đủ chi phí sản xuất, tính đúng giá thành sản phẩm giúp cho
doanh nghiệp nắm được thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, qua đó xác định được kết quả của những chi phí đã bỏ ra, từ đó có biện
pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, là điều kiện để nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Mặt khác, thông qua hạch toán chi phí
sản xuất, tính giá thành sản phẩm cũng giúp doanh nghiệp tìm được những khâu,
những bộ phận yếu kém, không hiệu quả để mà hạn chế và có biện pháp xử lý kịp
thời, phát hiện được những khả năng tiềm ẩn để phát huy nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp.
* Vai trò của hạch toán CPSX và tính GTSP đối với Nhà nước.
Thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp là cơ
sở số liệu cho Nhà nước tổng hợp đánh giá kết quả chung của toàn bộ nền kinh tế,
đồng thời qua đó Nhà nước nắm được thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp từ đó hoạch định các chính sách, chế độ quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Mặt khác, còn giúp cho Nhà nước thực hiện nhiệm vụ kiểm tra kinh tế tài chính của
doanh nghiệp, góp phần làm lành mạnh hoá nền tài chính của doanh nghiệp cũng
như của toàn đất nước.
1.1.4. Nội dung hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong
các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
1.1.4.1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành.


Để hạch toán CPSX và tính GTSP được chính xác, kịp thời đòi hỏi công việc
đầu tiên nhà quản lý phải làm là xác định đối tượng hạch toán CPSX và đối tượng
tính GTSP. Việc xác định đối tượng hạch toán CPSX chính là việc xác định giới hạn
tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và đối tượng chịu chi
phí. Còn xác định đối tượng tính giá thành chính là việc xác định thành phẩm, bán
thành phẩm, công việc nhất định đòi hỏi phải tính giá thành một đơn vị. Đối tượng


đó có thể là sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất hay đang trên dây chuyền
sản xuất tùy theo yêu cầu của hạch toán kinh tế nội bộ và tiêu thụ sản phẩm.
Để xác định đối tượng hạch toán CPSX và đối tượng tính GTSP cần dựa vào các căn
cứ sau đây:
* Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất: sản xuất giản đơn hay phức tạp.

Với sản xuất giản đơn, đối tượng hạch toán CPSX có thể là sản phẩm hay là
toàn bộ quá trình sản xuất (nếu sản xuất một thứ sản phẩm) hoặc có thể là nhóm sản
phẩm (nếu sản xuất nhiều thứ sản phẩm trong cùng một quá trình lao động). Còn
đối tượng tính giá thành là sản phẩm cuối cùng.
Với sản xuất phức tạp, đối tượng hạch toán CPSX có thể là bộ phận, chi tiết sản
phẩm, các giai đoạn chế biến, phân xưởng hoặc nhóm chi tiết, bộ phận sản phẩm… Còn
đối tượng tính giá thành là thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng hay bán thành phẩm ở
từng bước chế tạo.
* Căn cứ vào loại hình sản xuất: đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất
hàng loạt với khối lượng lớn.
Với sản xuất đơn chiếc hay sản xuất hàng loạt nhỏ: đối tượng hạch toán CPSX là các
đơn đặt hàng riêng biệt, còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn.
Đối với sản xuất hàng loạt khối lượng lớn, phụ thuộc vào quy trình công nghệ sản
xuất (giản đơn hay phức tạp) mà đối tượng hạch toán CPSX có thể là sản phẩm, nhóm sản
phẩm, chi tiết, nhóm chi tiết, giai đoạn công nghệ… và đối tượng tính giá thành có thể là
sản phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm như đã nêu trên.

* Căn cứ vào yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh:
Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng hạch toán CPSX và tính GTSP ở các góc
độ khác nhau, ngược lại với trình độ thấp thì đối tượng đó có thể bị hạn chế và thu hẹp lại.

Đối tượng hạch toán CPSX và đối tượng tính giá thành là hai khái niệm khác
nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết. Việc xác định hợp lý đối tượng hạch toán
CPSX là điều kiện để tính giá thành theo các đối tượng tính giá thành trong doanh
nghiệp. Trong thực tế, một đối tượng hạch toán CPSX có thể trùng với một đối
tượng tính giá thành. Trong nhiều trường hợp khác, một đối tượng hạch toán CPSX
lại bao gồm nhiều đối tượng tính GTSP. Ngược lại, một đối tượng tính giá thành
cũng có thể bao gồm nhiều đối tượng hạch toán CPSX. Mối quan hệ giữa đối tượng


hạch toán CPSX và đối tượng tính giá thành sẽ quyết định việc lựa chọn phương
pháp tính giá thành và kỹ thuật tính giá thành ở doanh nghiệp.
1.1.4.2. Hạch toán chi phí sản xuất.
Sau khi đã xác định được đối tượng tập hợp CPSX thì hàng kỳ căn cứ vào chứng từ
kế toán chi phí tiến hành tập hợp CPSX theo từng đối tượng hạch toán CPSX.
* Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
CPNVLTT là chi phí có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng hạch toán chi phí. Vì
vậy hàng ngày căn cứ vào các chứng từ xuất kho vật liệu trực tiếp cho sản xuất sản phẩm
để tập hợp CPNVLTT cho từng đối tượng.
Tài khoản sử dụng: TK 621.
Nội dung kết cấu tài khoản này như sau:
Bên nợ: Tập hợp CPNVLTT thực tế phát sinh trong kỳ
Bên có: Kết chuyển CPNVLTT cho các đối tượng liên quan.
Sau khi kết chuyển tài khoản này không có số dư.
TK 621 được mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán CPSX: phân xưởng, bộ phận
sản xuất, sản phẩm …
* Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp.

CPNCTT cũng là chi phí thường liên quan trực tiếp đến từng đối tượng chịu chi phí,
vì vậy căn cứ vào bảng thanh toán lương để hạch toán cho từng đối tượng. Trường hợp
CPNCTT liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí thì cần phân bổ cho từng đối tượng
theo tiêu thức phù hợp. Thường sử dụng tiêu thức số giờ lao động trực tiếp, sản lượng sản
phẩm sản xuất, chi phí định mức…
Tài khoản sử dụng: TK 622- Chi phí nhân công trực tiếp.
Nội dung kết cấu:
Bên nợ: Tập hợp CPNCTT thực tế phát sinh trong kỳ.
Bên có: Kết chuyển hoặc phân bổ CPNCTT.
Sau khi kết chuyển, phân bổ TK 622 không có số dư.
* Hạch toán chi phí sản xuất chung.
CPSXC là những khoản chi phí phát sinh ở dưới phân xưởng, bộ phận sản xuất còn
lại ngoài CPNVLTT và CPNCTT. Để hạch toán chính xác, đầy đủ CPSXC thì cần phải
phân loại CPSXC:
- Theo nội dung kinh tế của chi phí: CPSXC bao gồm:
+ Chi phí nhân viên phân xưởng.


+ Chi phí vật liệu.
+ Chi phí dụng cụ sản xuất.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài.
+ Chi phí bằng tiền khác.

- Theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm sản xuất ra, CPSXC được phân
loại thành:
+ Chi phí SXC cố định
+ Chi phí SXC biến đổi.
Kết cấu tài khoản 627- Chi phí sản xuất chung như sau:
Bên nợ:


- Tập hợp CPSXC thực tế phát sinh trong kỳ.

Bên có:

- Các khoản ghi giảm CPSXC.

- Kết chuyển hoặc phân bổ CPSXC.
TK 627 cuối kỳ không có số dư và được hạch toán chi tiết cho từng phân xưởng, bộ
phận sản xuất …

Trong các doanh nghiệp sản xuất thì đối với khoản mục CPSXC trước hết
doanh nghiệp tập hợp CPSXC theo nội dung kinh tế của chi phí kết hợp với việc chi
tiết chi phí đó là CPSXC cố định hay CPSXC biến đổi. Cuối kỳ mới tiến hành phân
bổ CPSXC cho các đối tượng chịu chi phí theo tiêu thức phù hợp.
- Đối với CPSXC cố định:
+ Nếu mức sản xuất thực tế bằng hoặc cao hơn mức công suất bình thường thì
CPSXC cố định được phân bổ hết vào chi phí chế biến sản phẩm. Kế toán ghi:
Nợ TK 154
Có TK 627 – Chi tiết CPSXC cố định.

+ Nếu mức sản xuất thực tế thấp hơn mức công suất bình thường thì kế toán
phải tính và xác định CPSXC cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho mỗi đơn vị
sản phẩm theo mức công suất bình thường. Khoản CPSXC cố định không phân bổ
(không tính vào GTSP số chênh lệch giữa tổng CPSXC cố định thực tế phát sinh lớn
hơn CPSXC cố định được tính vào GTSP) được hạch toán vào giá vốn hàng bán
trong kỳ. Kế toán ghi:
Nợ TK 154: Phần CPSXC cố định theo mức công suất bình thường.
Nợ TK 632: Phần CPSXC cố định không phân bổ.



Có TK 627: Chi tiết CPSXC cố định.

- Đối với CPSXC biến đổi: CPSXC biến đổi được phân bổ hết vào chi phí chế biến
sản phẩm theo số thực tế phát sinh.
Nợ TK 154
Có 627- Chi tiết CPSXC biến đổi.
Do đặc điểm CPSXC là chi phí gián tiếp liên quan đến nhiều đối tượng vì vậy phải
phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng theo tiêu thức phù hợp.

Mức

phân bổ cho
từng

Tổng CPSXC (cố định

CPSXC
đối

=

hay biến đổi) cần phân
bổ

Tiêu
x

thức
phân


thức
bổ củacông
tất cảnhân
các trực tiếp sản xuất, số
Tiêu thức thường được sử Tổng
dụng tiêu
ở đây
là: phân
tiền lương
bổ của
đối tượng
tượng
giờ làm việc của công nhân trực tiếp sản xuất…

từng

* Tổng hợp chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp.

đối

Để đánh giá SPDD và tính GTSP thì các chi phí NVLTT, CPNCTT, CPSXC
sau khi
tượng
tập hợp được đến cuối kỳ cần kết chuyển sang tài khoản tổng hợp chi phí theo từng đối
tượng chịu chi phí.
- Với phương pháp kê khai thường xuyên: kế toán sử dụng tài khoản 154 –chi phí sản
xuất kinh doanh dở dang để tổng hợp chi phí sản xuất.
Nội dung kết cấu TK 154 như sau:
Bên nợ:


- Kết chuyển CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC

Bên có:

- Các khoản ghi giảm chi phí.
- Giá thành sản phẩm hoàn thành.

TK 154 được mở chi tiết cho từng đối tượng hạch toán chi phí (phân xưởng, bộ phận
sản xuất, công trình, sản phẩm…)
- Với phương pháp kiểm kê định kỳ:
Kế toán sử dụng TK 631- Giá thành sản xuất để tổng hợp chi phí sản xuất.
Nội dung kết cấu TK 631 như sau:

Bên nợ:
- Kết chuyển CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC.
- Kết chuyển CPSX kinh doanh dở dang cuối kỳ.
Bên có:
- Giá thành sản phẩm hoàn thành.


- Kết chuyển chi phí dở dang cuối kỳ.
Tùy thuộc vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp có thể
mở TK 631 chi tiết theo các đối tượng tập hợp chi phí như đối với TK 154.
1.1.4.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm
Phương pháp tính GTSP là một phương pháp hoặc một hệ thống phương pháp được
sử dụng để tính GTSP và đơn vị sản phẩm. Để tính được GTSP các doanh nghiệp phải căn
cứ vào đặc điểm của quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp mình, vào
đặc điểm sản phẩm, yêu cầu của quản lý, của hạch toán để có phương pháp tính giá thành
phù hợp. Có các phương pháp tính giá thành sau:

- Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn)
Công thức tính: Zsp hoàn thành = Dđk + C - Dck

Phạm vi áp dụng: áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại hình sản xuất
giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản xuất khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất kinh
doanh ngắn như nhà máy điện, nước, các doanh nghiệp khai thác quặng, than, gỗ…
- Phương pháp tổng cộng chi phí:
Công thức tính: Giá thành sản phẩm = z1 + z2 + z3 +……+ zn
trong đó: zi (i = 1-n) là chi phí sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay
tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ phận sản xuất tạo nên thành phẩm.
Phạm vi áp dụng: áp dụng ở các doanh nghiệp mà quá trình sản xuất được thực
hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công nghệ, đối tượng tập hợp CPSX
là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn công nghệ hay bộ phận sản xuất.
Phương pháp này được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp khai thác, dệt
nhuộm, cơ khí chế tạo, may mặc…
- Phương pháp hệ số:
n

Công thức tính:

Zi =

QH =

∑ (Q
i =1

i

x H i ) ; i= 1, n


Tổng giá thành sản xuất các loại sản phẩm

x Qi x H i

QH

Phạm vi áp dụng: áp dụng ở các doanh nghiệp mà cùng một quy trình công
nghệ sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên vật liệu và một lượng lao động nhưng


thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng được
cho từng sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho quá trình sản xuất.
- Phương pháp tỷ lệ:
Công thức tính:

Tổng giá thành sản xuất
Tỷ lệ chi phí

Giá

thực tế của các loại sản

=

thành

thực

tế


Tổng giá thành sản xuất kế hoạch (hoặc định
phẩm
mức) của các loại sản phẩm
=

đơn vị sản

Giá

thành

kế

hoạch (hoặc định
mức) đơn vị sản

x

Tỷ
lệ

chi

Phạm
vi áp từng
dụng: áp dụng
trong các
doanh
nghiệp mà trongphí

cùng một quy
phẩm
phẩm
từng
loại
trình công nghệ, cùng các yếu tố đầu vào, sản xuất ra nhóm sản phẩm cùng loại

loại

nhưng có quy cách, phẩm chất, kích cỡ khác nhau.
- Phương pháp loại trừ giá trị sản phẩm phụ:
Công thức tính:
Tổng giá
thành sản =
phẩm chính

Giá trị sản
phẩm

+

Tổng
phí

chi
sản

-

Giá

sản

trị

-

Giá trị sản
phẩm

chính
dở đối xuất
Phạm vi áp
dụng: áp dụng
với các phát
doanh nghiệp
mà trong cùngchính
một quá
phẩm

dở

trình sản xuất, dang
bên cạnh các
sản phẩm
chính thu được còn
có thể
thu được
những cuối
dang
sinh

đầu
phụ
thu
sản phẩm phụ. Để
kế toán
trừ giá trị sản phẩm
kỳ phụ
trong
kỳ phải loại
kỳtính được GTSP chính
hồi
khỏi tổng CPSX sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể xác định theo nhiều phương
pháp như giá có thể sử dụng được, giá ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban
đầu…
- Phương pháp liên hợp:
Là phương pháp áp dụng trong các doanh nghiệp có tổ chức sản xuất, tính chất
quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính giá thành phải
kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như các doanh nghiệp hóa chất, dệt kim,
đóng giầy, may mặc…Kế toán có thể kết hợp các phương pháp trực tiếp với tổng
cộng chi phí, hệ số với loại trừ giá trị sản phẩm phụ.
* Vận dụng phương pháp tính giá thành sản phẩm trong một số loại hình
doanh nghiệp chủ yếu.


- Doanh nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng.
Trong các doanh nghiệp này, đối tượng hạch toán CPSX là từng đơn đặt hàng,
còn đối tượng tính giá thành là sản phẩm của từng đơn. Đối với các chi phí trực tiếp
(NVLTT, NCTT) phát sinh trong kỳ liên quan trực tiếp đến đơn đặt hàng nào thì
hạch toán trực tiếp cho đơn đặt hàng đó theo các chứng từ gốc, đối với CPSXC, sau
khi tập hợp xong sẽ phân bổ cho từng đơn theo tiêu chuẩn phù hợp (giờ công sản

xuất, CPNCTT). Phương pháp tính giá thành tùy theo tính chất và số lượng sản
phẩm của từng đơn để áp dụng phương pháp thích hợp như phương pháp trực tiếp,
phương pháp hệ số, phương pháp tổng cộng chi phí hay phương pháp liên hợp v.v…
- Doanh nghiệp áp dụng hệ thống hạch toán định mức.
Công thức tính:
Giá thành thực tế
sản phẩm

=

Giá thành định
mức sản phẩm

±

Chênh lệch do thay
đổi định mức

±

Chênh lệch so
với định mức

Trên cơ sở hệ thống định mức tiêu hao lao động, vật tư hiện hành và dự toán
về chi phí sản xuất, kế toán sẽ xác định giá thành định mức của từng loại sản phẩm.
Đồng thời hạch toán riêng những chênh lệch do thay đổi định mức và chênh lệch so
với định mức. Từ đó tiến hành tính giá thành thực tế theo công thức trên.
- Doanh nghiệp sản xuất phức tạp kiểu chế biến liên tục.
Các doanh nghiệp này có thể sử dụng một trong 2 phương pháp sau:
+ Tính giá thành phân bước theo phương án hạch toán có bán thành phẩm.

Phương án hạch toán này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có yêu cầu hạch
toán kinh tế nội bộ cao hoặc bán thành phẩm ở các bước có thể dùng để bán ra
ngoài. Trình tự hạch toán CPSX và tính GTSP theo phương pháp này được phản ánh
qua Sơ đồ 1.2
+ Tính giá thành phân bước theo phương án hạch toán không có bán thành
phẩm. áp dụng ở những doanh nghiệp mà yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ không
cao hoặc bán thành phẩm chế biến ở từng bước không bán ra ngoài
Cách tính giá thành thể hiện qua Sơ đồ 1.3
Giá

trị

sản

Chi
+

phí

NVL

Chi
+

phí

Giá

trị


chế biến - sản

Giá
=

thành

phẩm dở

chính

phát sinh

phẩm dở

bán

dang đầu

phát sinh

trong kỳ

dang

thành

kỳ

trong kỳ


bước 1

cuối

1

bước

bước 1

bước 1

kỳ

phẩm


Giá

trị

sản

Chi
+

phẩm

dang


bước
kỳ

+

1

chuyển

bước 2 trị
Giá
sản

Chi

bán thành

phẩm dở
đầu

phí

sang
Chi
+

phí

bán


phẩm dở

thành

dang đầu

phẩm

+

phí

Giá

chế biến

-

trị

Giá

sản

thành

=

phát


phẩm dở

bán

sinh

dang

thành

trong kỳ

cuối

bước
2
Chi
phí chế
biến phát sinh
trong kỳ bước
n

kỳ

phẩm

bước 2 trị
Giá


bước 2
Giá

sản

-

=

thành

phẩm dở

thành

dang

phẩm

Sơ đồ
1.2: Trình bước
tự hạch toán
giá thành kỳ
sản phẩm theo
kỳ
bước
n chi phí sản xuất và tính cuối
có bán thành phẩm
nphương án phân bước
chuyển


Chi

phí

sang

bước n

Chi

phí

Chi

phí

NVL chính

chế

biến

chế

biến

tính

bước


cho

1
cho

bước
tính

2

phí

chế

biến

bước

thành

tính

phẩm

thành phẩm
thành Tổng giá thànhthành

thành


phẩm

phẩm

phẩm

cho

….

Chi

tính

n
cho

Sơ đồ 1.3: Trình tự hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo
phương án phân bước không có bán thành phẩm
1.2. Hệ thống thông tin kế toán quản trị doanh nghiệp.

1.2.1. Bản chất của hệ thống thông tin kế toán quản trị doanh nghiệp.
Quản trị là sự tác động có tổ chức của chủ thể quản trị lên đối tượng bị quản trị
nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức. Thuật ngữ quản trị tiếng Anh là
management, vừa có nghĩa là quản lý, vừa có nghĩa là quản trị, nhưng được dùng
chủ yếu với nghĩa quản trị. Ngoài ra tiếng Anh còn dùng một thuật ngữ nữa là
administration với nghĩa là quản lý hành chính, quản lý chính quyền. Tiếng Pháp
cũng có hai từ ngữ tương đương: gestion ( tương đương management của tiếng Anh)
là quản trị kinh doanh còn administration (tương đương administration trong tiếng
Anh) được dùng với nghĩa là quản lý các hoạt động hành chính, chính quyền.



Như vậy có thể thấy rằng quản lý là thuật ngữ được dùng với các cơ quan Nhà
nước trong việc quản lý xã hội nói chung và quản lý kinh tế nói riêng còn quản trị là
thuật ngữ được dùng đối với cấp cơ sở trong đó có các tổ chức – doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp cần được quản trị. Quản trị này gọi là quản trị doanh
nghiệp. Quản trị doanh nghiệp là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hướng
đích của chủ doanh nghiệp lên tập thể những người lao động trong doanh nghiệp, sử
dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội để thực hiện một cách tốt nhất mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo
đúng luật định và thông lệ xã hội.
Để quản trị doanh nghiệp có hiệu quả, các nhà quản trị cần nắm vững tình hình
một cách chính xác, kịp thời bằng những con số cụ thể. Muốn vậy phải có thông tin.
Thông tin trở thành khâu đầu tiên, có tính cơ bản của quản trị kinh doanh.
Thông tin quản trị doanh nghiệp là những tin tức mới, được thu nhận, được
cảm thụ và được đánh giá là có ích cho việc ra quyết định hoặc giải quyết một
nhiệm vụ nào đó trong quản trị kinh doanh.
Hệ thống thông tin quản trị doanh nghiệp được quan niệm là tập hợp các
phương tiện, các phương pháp và các cơ quan có liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm
đảm bảo cho việc thu thập, lưu trữ, tìm kiếm, xử lý và cung cấp những thông tin cần
thiết cho quản trị kinh doanh.
Hệ thống thông tin quản trị doanh nghiệp thường gồm 3 phân hệ cơ bản:
- Hệ thống thông tin khoa học công nghệ.
- Hệ thống thông tin thị trường.
- Hệ thống thông tin kế toán thống kê.
trong đó hệ thống thông tin kế toán thống kê có tầm quan trọng đặc biệt, phản ánh
trạng thái của đối tượng quản trị mà thiếu nó thì hệ thống quản trị không thể tác
động một cách chính xác với hiệu quả cao lên đối tượng quản trị kinh doanh.
Như vậy hệ thống thông tin kế toán là một bộ phận của hệ thống thông tin
quản trị doanh nghiệp. Chức năng của kế toán là cung cấp và truyền đạt các thông

tin kinh tế về một tổ chức cho các đối tượng sử dụng khác nhau. Vì vậy, thông tin kế
toán phục vụ cả trong và ngoài doanh nghiệp. Để phục vụ được 2 loại đối tượng
này, kế toán được chia làm 2 nhánh: nhánh kế toán cung cấp thông tin cho quản lý,


điều hành hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp được gọi là kế toán quản trị, nhánh
kế toán cung cấp thông tin cho những đối tượng bên ngoài doanh nghiệp được gọi là
kế toán tài chính.
Kế toán tài chính liên quan đến quá trình báo cáo hoạt động của một tổ chức,
doanh nghiệp cho các thành phần bên ngoài qua các hình thức: bảng cân đối kế
toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệv.v… Đó là
các báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh các mặt hoạt động của toàn doanh nghiệp.
Như vậy, thông tin mà kế toán tài chính cung cấp là các tài liệu phản ánh các nghiệp
vụ phát sinh trong kỳ đã qua, cho nên số liệu có tính lịch sử, không đủ đáp ứng nhu
cầu quản lý của nhà quản trị ở trong doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay.
Khác với kế toán tài chính, kế toán quản trị cung cấp thông tin nhằm thoả mãn
nhu cầu của nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp. Việc ra quyết định của họ có
tác động đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Như vậy nếu thông tin
không đầy đủ, các nhà quản trị sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý điều hành doanh
nghiệp. Nếu thông tin không chính xác, các nhà quản trị có thể đưa ra các quyết
định sai lầm, ảnh hưởng đến quá trình sinh lợi của doanh nghiệp; nếu thông tin
không đáp ứng kịp thời thì các vấn đề tồn tại không được giải quyết và có thể mất
cơ hội trong kinh doanh. Kế toán quản trị đã tạo ra phần lớn các thông tin nhằm
giúp các nhà quản trị ra các quyết định điều hành sản xuất kinh doanh ở doanh
nghiệp.
Như vậy hệ thống thông tin kế toán bao gồm 2 phân hệ:
- Hệ thống thông tin kế toán tài chính
- Hệ thống thông tin kế toán quản trị.
Để hiểu rõ hơn về hệ thống thông tin kế toán quản trị, cách tốt nhất là so sánh

hệ thống thông tin kế toán tài chính và kế toán quản trị. Những điểm khác biệt cơ
bản giữa hai hệ thống thông tin này thể hiện trên bảng 1.1 như sau:
Bảng 1.1: Phân biệt hệ thống thông tin kế toán quản trị và hệ thống thông tin kế
toán tài chính.
Hệ thống thông tin
Hệ thống thông tin
Tiêu thức
kế toán quản trị
kế toán tài chính
Đối tượng sử Các cấp quản lý khác nhau Các thành phần ở bên ngoài


dụng
trong nội bộ doanh nghiệp.
Đặc điểm thông Linh hoạt thích hợp hướng

doanh nghiệp.
Phản ánh quá khứ, biểu hiện

tin

bằng giá trị.

về tương lai, biểu hiện

bằng giá trị và hiện vật
Nguyên tắc cung Do người quản lý quyết định, Tuân theo chuẩn mực, nguyên
cấp thông tin
Phạm


vi

hữu ích cho quản lý, không có tắc kế toán.

nguyên tắc chung.
thông Từng bộ phận, từng khâu công Toàn doanh nghiệp.

tin.
Kỳ báo cáo

việc
Thường xuyên, tuỳ yêu cầu Định kỳ quý năm.

quản lý
Mức độ chính xác Chú trọng tính kịp thời, ít chú Tính chính xác cao.
của thông tin
Tính pháp lệnh.

trọng tính chính xác.
Không có tính pháp lệnh

Có tính pháp lệnh.

Tuy nhiên giữa hệ thống thông tin kế toán tài chính và hệ thống thông tin kế
toán quản trị cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau ở chỗ:
- Cả hai hệ thống thông tin này hợp thành hệ thống thông tin kế toán thống
nhất của doanh nghiệp.
- Hệ thống thông tin kế toán quản trị không độc lập với hệ thống thông tin kế
toán tài chính mà có thể dựa trên cơ sở hệ thống thông tin kế toán tài chính đồng
thời phát triển, gia tăng những thông tin đó nhằm phục vụ cho nhu cầu quản trị

doanh nghiệp.
1.2.2. Vai trò hệ thống thông tin kế toán quản trị doanh nghiệp.
Trách nhiệm của nhà quản lý trong doanh nghiệp là điều hành và quản lý các
mặt hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, để làm tốt các chức năng quản lý, nhà
quản trị phải có thông tin cần thiết để có thể ra các quyết định đúng đắn. Kế toán
quản trị là nguồn chủ yếu, dù không phải là nguồn duy nhất, cung cấp nhu cầu
thông tin đó. Vai trò của hệ thống thông tin kế toán quản trị thể hiện trong các khâu
của quá trình quản lý như sau:
* Trong giai đoạn lập kế hoạch và dự toán.


Lập kế hoạch là xây dựng các mục tiêu cần phải đạt và vạch ra các bước thực
hiện để đạt được các mục tiêu đó. Các kế hoạch này có thể là kế hoạch dài hạn hay
ngắn hạn.
Dự toán cũng là một loại kế hoạch nhằm liên kết các mục tiêu và chỉ rõ cách
huy động, sử dụng các nguồn lực để đạt mục tiêu đề ra.
Để chức năng lập kế hoạch và dự toán được thực hiện tốt, để các kế hoạch, dự
toán được lập đảm bảo tính khoa học và tính khả thi cao đòi hỏi phải dựa trên thông
tin đầy đủ, thích hợp và có cơ sở. Các thông tin này chủ yếu do kế toán quản trị
cung cấp. Chẳng hạn, khi xây dựng chỉ tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp phải xác định
cách làm cụ thể để đạt mục tiêu đó. Kế toán viên của bộ phận kế toán quản trị sẽ
cung cấp cho các nhà quản trị các thông tin, số liệu có cơ sở để nhà quản trị lựa
chọn phương án tối ưu nhất, như chọn được sản phẩm sinh lợi cao nhất, huy động
các nguồn lực hợp lý và có hiệu quả cao nhất, định giá bán hợp lý và có tính cạnh
tranh cao nhất….
* Trong giai đoạn tổ chức thực hiện.
Trong khâu tổ chức thực hiện, các nhà quản trị phải biết cách liên kết tốt nhất
các yếu tố, tổ chức, con người và các nguồn lực sao cho kế hoạch được thực hiện ở
mức cao nhất và hiệu quả nhất. Để thực hiện tốt các chức năng này, nhà quản trị
phải có nhu cầu thông tin rất lớn về các thông tin kế toán quản trị. Chẳng hạn, nhà

quản trị cần được kế toán cung cấp thông tin để ra quyết định kinh doanh đúng đắn
tron quá trình điều hành, chỉ đạo thực hiện các quyết định hàng ngày – các quyết
định ngắn hạn. Ngoài ra, các quyết định dài hạn trong quá trình thực hiện các quyết
định đầu tư dài hạn cũng cần phải có các thông tin cần thiết và đầy đủ.
* Trong giai đoạn kiểm tra và đánh giá.
Nhà quản trị sau khi đã lập kế hoạch đầy đủ và hợp lý, tổ chức thực hiện kế
hoạch, đòi hỏi phải kiểm tra, đánh giá việc thực hiện kế hoạch. Phương pháp thường
dùng là so sánh giữa số liệu thực hiện với số liệu kế hoạch và dự toán, xác định
những sai biệt giữa kết quả đạt được và mục tiêu đã đề ra. Do đó, nhà quản trị cần
được các kế toán viên quản trị cung cấp các báo cáo thực hiện để nhận diện những
vấn đề còn tồn tại và cần có tác động của quản lý.
* Trong khâu ra quyết định.


Phần lớn các thông tin do kế toán quản trị cung cấp nhằm giúp các nhà quản
trị ra quyết định. Đó là một chức năng quan trọng, xuyên suốt các khâu quản trị
doanh nghiệp, từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện đến việc kiểm tra đánh giá.
Các quyết định của nhà quản trị có thể là các quyết định đầu tư dài hạn, có thể
là các quyết định ngắn hạn cho một khoảng thời gian trước mắt, cũng có thể là các
quyết định mang tính tác nghiệp, điều hành hàng ngày, được vận dụng liên tục trong
suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Để các các quyết định đúng đắn và kịp thời, các nhà quản trị phải có các thông
tin đầy đủ, đáng tin cậy và thích hợp, nếu không thì không thể ra được các quyết
định quản lý hiệu quả. Nếu có quá nhiều thông tin nhiễu loạn cũng khó có thể ra
quyết định quản lý. Nhưng các thông tin thích hợp để ra quyết định thường không
có sẵn. Kế toán quản trị thực hiện các nghiệp vụ phân tích chuyên môn, chọn lọc
những thông tin cần thiết, rồi tổng hợp, trình bày chúng theo một trình tự dễ hiểu
nhất và giải thích quá trình phân tích đó cho các nhà quản trị.
Kế toán quản trị giúp các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định không chỉ
bằng cung cấp thông tin thích hợp, mà còn bằng cách vận dụng các kỹ thuật phân

tích vào những tình huống khác nhau, từ đó nhà quản trị lựa chọn ra quyết định
thích hợp nhất.
Như vậy thông tin kế toán quản trị rất đa dạng, phong phú, xuyên suốt các
khâu của quá trình quản lý. Vì vậy, để cung cấp thông tin có hệ thống cho nhà quản
trị cần thiết phải phân loại thông tin kế toán quản trị.
1.2.3. Phân loại hệ thống thông tin kế toán quản trị doanh nghiệp.
* Căn cứ vào mối quan hệ với các chức năng quản lý. Thông tin kế toán quản
trị bao gồm:
- Các chỉ tiêu kinh tế được chính thức hoá từ các mục tiêu của doanh nghiệp.
- Các dự toán chung và các dự toán chi tiết.
- Thông tin về kết quả thực hiện các mục tiêu.
- Các báo cáo kế toán quản trị.
Tác dụng của cách phân loại này là nhằm cung cấp thông tin cho các giai đoạn
khác nhau của quá trình quản lý. Tuy nhiên nhược điểm của cách phân loại này là


chưa cho biết cụ thể thông tin đó phục vụ cho quản trị phần hành kế toán nào. Vì
vậy cần căn cứ vào nội dung của thông tin để phân loại hệ thống thông tin kế toán
quản trị như sau:
* Căn cứ vào nội dung của thông tin, hệ thống thông tin kế toán quản trị
doanh nghiệp bao gồm:
- Thông tin kế toán quản trị các yếu tố sản xuất kinh doanh: hàng tồn kho,
TSCĐ, lao động và tiền lương.
- Thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành.
- Thông tin kế toán quản trị doanh thu và kết quả kinh doanh.
- Thông tin kế toán quản trị các hoạt động đầu tư tài chính.
- Thông tin kế toán quản trị các hoạt động khác.
trong đó thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành được xem là bộ phận cơ
bản, quan trọng nhất.
1.2.4. Nội dung hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành.

Về bản chất, thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành là thông tin về CPSX,
GTSP phục vụ cho nhu cầu quản trị doanh nghiệp của nhà quản trị.
Hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí giá thành bao gồm các mảng thông
tin sau:
- Thông tin về các loại chi phí sản xuất.
- Thông tin về giá thành sản phẩm.
- Thông tin về dự toán chi phí sản xuất.
1.2.4.1. Thông tin về các loại chi phí sản xuất.
Nhằm phục vụ cho việc hoạch định, kiểm soát và ra quyết định của nhà quản
trị thì các khoản chi phí chi ra cần được các kế toán viên quản trị phân loại, tập hợp
để cung cấp thông tin chi phí cần thiết cho nhà quản trị. Những thông tin về các loại
CPSX mà nhà quản trị cần đó là:
* Chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất.
- Chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí có liên quan đến việc chế tạo sản phẩm
trong một thời kỳ nhất định. Chi phí sản xuất bao gồm 3 khoản mục: chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp, chi phí lao động trực tiếp, chi phí sản xuất chung.


- Chi phí ngoài sản xuất bao gồm hai loại: Chi phí bán hàng và tiếp thị, chi phí
quản lý.
Để có thông tin về các loại chi phí này kế toán quản trị cần phải phân loại chi
phí theo chức năng hoạt động của chi phí, nghĩa là xem xét vai trò của chi phí đối
với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc nắm được hai loại chi phí này sẽ cho phép nhà quản trị doanh nghiệp
biết được tương quan của các chi phí này trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, từ đó có biện pháp để khống chế các chi phí này ở mức hợp lý.
* Chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
- Chi phí sản phẩm: Là những khoản chi phí gắn liền với quá trình sản xuất
sản phẩm. Chi phí sản phẩm bao gồm: CPNVLTT, CPNCTT, CPSXC. Chi phí sản
phẩm chỉ tính ở kỳ mà sản phẩm tiêu thụ. Khi sản phẩm chưa được tiêu thụ thì chi

phí sản phẩm được chuyển vào giá trị của hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán,
còn khi sản phẩm được tiêu thụ thì chi phí sản phẩm được chuyển vào chỉ tiêu giá
vốn hàng bán trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chi phí thời kỳ: Là những khoản chi phí phát sinh trong kỳ hạch toán. Chi
phí thời kỳ có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận trong kỳ mà chi phí này phát sinh.
Chi phí thời kỳ bao gồm: Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Chi phí
thời kỳ phát sinh kỳ nào được tính ngay vào chi phí kỳ đó. Các chi phí thời kỳ được
chuyển vào chỉ tiêu chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trên báo cáo
kết quả kinh doanh. Nhà quản trị rất khó kiểm soát chi phí thời kỳ nếu để những chi
phí này phát sinh quá mức cần thiết.
* Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
- Chi phí trực tiếp: Là chi phí có thể tách biệt, phát sinh một cách riêng biệt
cho một hoạt động cụ thể của doanh nghiệp như một sản phẩm, một phân xưởng sản
xuất, một đại lý. Xét về bản chất thì chi phí trực tiếp là chi phí mà tự bản thân nó
hiển nhiên được chuyển vào đơn vị sản phẩm hoặc một đơn vị của tổ chức, cơ quan.
- Chi phí gián tiếp: Là các chi phí chung hay chi phí kết hợp, không có liên
quan đến hoạt động cụ thể nào mà liên quan cùng lúc tới nhiều hoạt động. Do vậy
để xác định chi phí gián tiếp của một hoạt động cụ thể phải áp dụng phương pháp
phân bổ.


Trên góc độ quản trị doanh nghiệp thì chi phí trực tiếp thường mang tính chất
có thể tránh được, nghĩa là phát sinh và mất đi cùng với sự phát sinh và mất đi của
hoạt động cụ thể. Chi phí gián tiếp, trái lại mang tính không thể tránh được và
chúng phát sinh để phục vụ cho ít nhất hai hoạt động trở lên cho nên chúng vẫn sẽ
tồn tại khi một hoặc một vài hoạt động mà chúng phục vụ bị đình chỉ.
Để ra quyết định kinh doanh trong từng tình huống cụ thể, nhà quản trị cần
thông tin về các loại chi phí sau:
* Định phí, biến phí và chi phí hỗn hợp.
Đây là những thông tin về chi phí phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm tra và

chủ động điều tiết chi phí của nhà quản trị. Nghĩa là căn cứ vào thông tin về các loại
chi phí này do kế toán quản trị cung cấp, các nhà quản trị sẽ thấy được sự biến động
của chi phí có phù hợp với sự biến động của mức độ hoạt động hay không và từ đó
có các biện pháp hữu hiệu nhằm quản lý tốt các chi phí. Những thông tin chi phí
này có được nhờ cách phân loại chi phí theo cách ứng xử của chi phí.
- Định phí: Là những khoản chi phí không biến đổi trong một phạm vi phù hợp
của mức độ hoạt động. Định phí có đặc điểm là: Tổng định phí không thay đổi trong
phạm vi phù hợp của mức độ hoạt động. Định phí tính cho một đơn vị hoạt động
căn cứ thì thay đổi. Nhằm phục vụ cho mục tiêu lập kế hoạch thì định phí được
phân ra thành 2 loại:
+ Định phí tùy ý: Là định phí có thể được thay đổi nhanh chóng bằng hành
động của nhà quản trị. Các nhà quản trị quyết định mức độ và số lượng định phí này
trong các quyết định hàng năm.
+ Định phí bắt buộc: Là định phí không thể được thay đổi một cách nhanh
chóng vì chúng thường liên quan đến tài sản cố định và cấu trúc cơ bản của doanh
nghiệp.
- Biến phí: Là những khoản chi phí thay đổi tỷ lệ thuận với biến động về mức
độ hoạt động. Biến phí có đặc điểm là: Biến phí tính cho một đơn vị hoạt động thì
không thay đổi. Biến phí khi không có hoạt động thì bằng 0. Biến phí được chia làm
2 loại: Biến phí tỷ lệ và biến phí cấp bậc.


×