Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

LV Thạc sỹ_Tăng cường hoạt động thanh tra giám sát của ngân hàng nhà nước đối với các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.68 KB, 80 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1/ Tính cấp thiết của đề tài:

Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, lĩnh vực hoạt động Ngân
hàng trở nên sôi động và nhạy cảm hơn bao giờ hết. Hoạt động Ngân hàng có
nhiều tác động trực tiếp và hết sức to lớn đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội, đến sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. Mặc dù trong
những năm qua, hệ thống Ngân hàng đã phát triển khá nhanh cả về loại hình và
nghiệp vụ kinh doanh, góp phần đắc lực cho công cuộc xây dựng, phát triển
kinh tế và đòi hỏi của hội nhập khu vực, quốc tế. Nhưng bên cạnh những thành
tựu đạt được thì hoạt động Ngân hàng trong thời gian gần đây còn bộc lộ nhiều
tồn tại, yếu kém và bất cập so với yêu cầu đặt ra. Những tồn tại, yếu kém và bất
cập đó, bên cạnh những nguyên nhân khách quan, những nguyên nhân chủ quan
của bản thân các Ngân hàng thương mại, có những nguyên nhân thuộc về vai trò
quản lý của Ngân hàng Nhà nước trên lĩnh vực Ngân hàng, trong đó tổ chức
thanh tra, một thiết chế quan trọng, một công cụ đắc lực trong cơ cấu tổ chức
của Ngân hàng Nhà nước, thực hiện chức năng tham gia giám sát hoạt động của
Ngân hàng thương mại cũng còn những tồn tại yếu kém và bất cập.
Tất cả những điều trên đã đặt ra những vấn đề vô cùng to lớn bức xúc và
phức tạp cho thanh tra Ngân hàng Nhà nước trong việc thực hiện chức năng
thanh tra giám sát việc hoạt động của Ngân hàng thương mại, nhằm đưa hoạt
động của các Ngân hàng thương mại kinh doanh an toàn, có hiệu quả đúng pháp
luật, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động, hạn chế các tiêu cực, giữ được “ chữ
tín” đối với khách hàng. Là một cán bộ tại Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước địa
phương, có nhiều trăn trở và ý thức trách nhiệm với sự thịnh, suy của hệ thống
Ngân hàng Việt nam. Tôi mạnh dạn chọn đề tài “Tăng cường hoạt động thanh
tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại
trên địa bàn tỉnh Nghệ An” mong muốn góp một phần nhỏ bé trong việc luận
giải nguyên nhân, từ đó đề ra giải pháp khắc phục những hạn chế để hoạt động
thanh tra giám sát Ngân hàng ngày càng hoàn thiện và có hiệu lực cao.



2/ Mục đích nghiên cứu:
Hoạt động Ngân hàng mang những tính đặc thù riêng so với các ngành,
hoạt động Ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro có liên quan đến nhiều ngành, nghề
và tác động lớn đến nền kinh tế. Do vậy mọi nghiên cứu về Ngân hàng không
ngoài mục đích góp phần làm ổn định tiền tệ tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Nghiên cứu về công tác thanh tra là một góc của nhiều góc độ trong
đó công tác quản lý Ngân hàng thương mại là vấn đề quan trọng để củng cố
hoàn thiện các nghiệp vụ Ngân hàng, xây dựng những đường lối, chính sách
đúng đắn, hợp lý đưa hoạt động Ngân hàng ngày một chuẩn mực hơn, đi đúng
hướng phát triển như các Ngân hàng phát triển trên thế giới.
Trên địa bàn Nghệ An cũng như các tỉnh khác, hệ thống Ngân hàng phát
triển mạnh mẽ, nhất là các Ngân hàng thương mại cổ phần, mạng lưới ngân hàng
phát triển nhanh nhưng còn nhiều bất cập, hoạt động còn nhiều sai phạm, do vậy
công tác thanh tra cần phải phát huy hết khả năng nhằm củng cố các Ngân hàng
thương mại để góp phần đưa các Ngân hàng thương mại hoạt động có hiệu quả
hơn.
3/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động thanh tra của Ngân
hàng Nhà nước với các Ngân hàng thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu tập trung và giới hạn chủ yếu đến hoạt động thanh
tra với các Ngân hàng thương mại nhà nước trên địa bàn tỉnh Nghệ An, có tính
đến kinh nghiệm tổ chức và hoạt động thanh tra Ngân hàng của các nước và
Ngân hàng Trung ương.
4/ Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, suy luận
logic kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, phân tích, đánh giá ...
Đặc biệt là nghiên cứu thực tiễn hoạt động thanh tra đối với các Ngân hàng
thương mại để đạt được mục đích nghiên cứu.

2



5/ Những đóng góp của luận văn:
- Làm rõ chức năng quản lý nhà nước của thanh tra Ngân hàng đối với các
tổ chức tín dụng, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại.
- Giới thiệu kinh nghiệm thanh tra Ngân hàng một số nước trên thế giới.
- Phân tích thực trạng hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối
với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đánh giá những thành
công, hạn chế. Tìm nguyên nhân và giải pháp nâng cao hiệu lực thanh tra đối với
các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh.
6/ Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1:

Những vấn đề cơ bản về thanh tra của Ngân hàng Nhà nước

đối với các Ngân hàng thương mại.
CHƯƠNG 2:

Thực trạng hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối

với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
CHƯƠNG 3:

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra của Ngân

hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

3



CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1- Chức năng và vai trò của Ngân hàng nhà nước:
Will Rogers đã tổng kết các phát minh lớn nhất của loài người như sau:
“từ khi thời gian bắt đầu cho đến nay đã có ba phát minh lớn: Lửa, Bánh xe và
Ngân hàng Trung ương” (21). Điều này cho ta thấy tầm quan trọng của Ngân
hàng Trung ương trong tiến trình phát triển kinh tế của thế giới. Ngân hàng
Trung ương ra đời chính là do yêu cầu của sự phát triển hệ thống ngân hàng
trong lịch sử, là tất yếu khách quan khi hoạt động kinh doanh tiền tệ phát triển,
là quá trình chuyển hoá của Ngân hàng thương mại (NHTM) thành ngân hàng
Trung ương. Ở Việt nam, Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò như Ngân hàng
Trung ương các nước. Vì vậy, để thống nhất, từ đây luận văn chỉ dùng thuật ngữ
Ngân hàng Nhà nước và viết tắt là NHNN.
1.1.1- Chức năng của NHNN:
Nhiệm vụ cơ bản của NHNN là kiểm soát trong phạm vi cả nước việc
cung ứng tiền tệ, giám sát hoạt động của hệ thống Ngân hàng nhằm ổn định giá
trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động Ngân hàng và hệ thống các tổ
chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Để thực hiện
nhiệm vụ đó, NHNN có các chức năng chủ yếu sau:
1.1.2- Vai trò của NHNN:
Được nắm trong tay một trong những công cụ quan trọng nhất trong điều
hành kinh tế vĩ mô của nhà nước là chính sách tiền tệ, NHNN đóng vai trò là cơ
quan chủ quản trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia, tạo lập mối liên kết chặt chẽ và đồng bộ giữa chính sách tiền tệ với các
chính sách kinh tế, đảm bảo cho chính sách tiền tệ được thực hiện trong mối
quan hệ tương hỗ với các chính sách kinh tế, nhất là với chính sách tài chính
quốc gia.

Gắn liền với việc thực hiện vai trò truyền thống độc quyền phát hành tiền,
NHNN áp dụng các biện pháp kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng
thông qua thị trường tiền tệ và hoạt động của các tổ chức tài chính nhằm tác
4


động đến mặt bằng giá cả, bao gồm cả giá cả hàng hoá và tỷ giá hối đoái của
đồng bản tệ, qua đó điều chỉnh và kích thích tăng trưởng kinh tế theo mục tiêu.
Thực hiện quản lý và điều khiển hệ thống tài chính quốc gia. NHNN là cơ
quan thi hành luật của nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng và ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành luật đó; đóng vai trò là cơ quan chủ quản trong việc
ban hành các quy chế về tổ chức hoạt động, về cơ chế nghiệp vụ hoạt động kinh
doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối để vận hành hệ thống tài chính tín dụng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và theo một chế độ thống nhất,
tạo môi trường pháp lý và những điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tài chính tín dụng hoạt động một cách năng động và có hiệu quả, cùng cạnh tranh để tồn
tại và phát triển.
Trong quan hệ kinh tế - tiền tệ quốc tế, NHNN là người đóng vai trò
hướng dẫn, chỉ đạo và tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng quan hệ kinh
doanh ngân hàng trên thị trường quốc tế, phát triển các dịch vụ thanh toán và
dịch vụ tài chính quốc tế nhằm phục vụ đắc lực cho việc thực hiện chiến lược
kinh tế mở, nhất là phục vụ cho việc phát triển đầu tư, thương mại.
Trong nền kinh tế hiện đại, NHNN còn là một trong những cơ quan nhà
nước có vai trò chủ yếu trong việc khai thác các nguồn tài chính sẵn có trong
nền kinh tế, tạo ra nguồn vốn ở trong nước và thu hút các nguồn vốn từ nước
ngoài, cùng với nguồn vốn trong nước phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế.
Với tư cách là cơ quan quản lý vĩ mô, NHNN có vai trò vô cùng quan
trọng trong việc theo dõi, thanh - kiểm tra, giám sát hoạt động các ngân hàng, áp
dụng các biện pháp có hiệu lực để đảm bảo cho toàn hệ thống ngân hàng hoạt
động theo kỉ cương pháp luật, chấp hành nghiêm túc các quy định của NHNN,
nhất là các quy định về dự trữ bắt buộc, hệ số an toàn và đảm bảo khả năng
thanh toán, các quy định về tỷ lệ huy động vốn và cho vay. Bảo vệ quyền lợi

của người gửi tiền, quyền lợi quốc gia, đảm bảo cho hoạt động của toàn hệ
thống an toàn, ổn định và hiệu quả.
1.2- Hoạt động thanh tra của NHNN đối với các NHTM:
1.2.1- Sự cần thiết khách quan của hoạt động thanh tra đối với các
Ngân hàng thương mại:
5


1.2.1.1- Sự cần thiết của công tác thanh tra trong hoạt động quản lý
nhà nước:
Như chúng ta đã biết, trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội
loài người, nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của giai cấp nhằm bảo vệ
quyền lợi cho giai cấp thống trị. Để làm tốt chức năng quản lý, nhà nước phải sử
dụng các công cụ của mình trên các lĩnh vực, trong đó thanh tra là một công cụ
đắc lực. Như vậy, thanh tra là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với nhà nước và
là công cụ phục vụ cho giai cấp thống trị xã hội. Tuy tên gọi và hình thức tổ
chức có khác nhau, nhưng thanh tra đều là công cụ để nhà nước kiểm tra, kiểm
soát các hoạt động của nền kinh tế trong công tác quản lý xã hội.
Trong lịch sử nước ta, công tác thanh tra đã có từ thời xa xưa và được
quan tâm thích đáng. Các triều đại phong kiến đều có cơ quan thanh tra chuyên
trách với tên gọi "ngự sử đài", cán bộ thanh tra là các Quan ngự sử. Sau cách
mạng tháng 8/1945, mặc dù công việc còn bộn bề nhưng Hồ Chủ Tịch cũng đã
sớm nhận rõ được tầm quan trọng của công cụ thanh tra với sắc lệnh số 64/SL
ngày 23-11-1945 thành lập ban thanh tra đặc biệt để sớm quản lý đất nước đi
vào kỷ cương. Năm 1990, Pháp lệnh Thanh tra được ban hành đã thể hiện một
bước tiến trong quản lý pháp luật về thanh tra. Đến 15/6/2004 Luật Thanh tra
chính thức được Quốc hội thông qua và trở thành quy chuẩn cho mọi hoạt động
thanh tra, điều này tiếp tục khẳng định thanh tra là một chức năng thiết yếu của
cơ quan quản lý nhà nước.
Trong nền kinh tế hiện đại, thanh tra là một trong ba yếu tố cấu thành sự

lãnh đạo của nhà nước, đó là: ban hành quy chế; tổ chức thực hiện quy chế; và
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy chế đó. Như vậy, thanh tra là một
trong 3 khâu của quá trình quản lý nhà nước mà thiếu nó thì quá trình quản lý
tất yếu sẽ bất thành.
Về nguyên tắc, hoạt động thanh tra chỉ tuân theo pháp luật, đảm bảo
chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời. Mặt khác, hoạt động thanh
tra phải gắn bó một cách hữu cơ với các cơ quan quản lý nhà nước bởi vì nếu
các cơ quan quản lý đứng ngoài cuộc thì hiệu lực thanh tra không thể có được.
Đồng thời, thông qua hoạt động thanh tra còn có tác dụng giúp cho cơ quan
quản lý kiểm tra tính đúng đắn của các quyết định quản lý, góp phần hoàn thiện
cơ chế chính sách, khắc phục những sơ hở, yếu kém trong quản lý, giữ vững kỷ
6


cương pháp luật, đảm bảo lợi ích của nhà nước và các quyền lợi hợp pháp của
công dân.
Trong thực tiễn công tác quản lý, những khái niệm và thuật ngữ: thanh
tra, kiểm tra, kiểm soát và giám sát được sử dụng hàng ngày. Tuy nhiên, giữa
chúng cũng có những điểm giống và khác nhau cần phân biệt rõ:
- Thanh tra là đến tận nơi xem xét sự việc, là thực hiện kiểm tra các hoạt
động kinh tế-xã hội nhằm đưa các hoạt động đó theo định hướng và các quy
trình, quy phạm đã được xác định trên các văn bản quản lý nhà nước và nghiệp
vụ quản lý kinh tế. Thanh tra luôn mang tư cách nhà nước.
- Kiểm tra, kiểm soát là việc xem xét để phát hiện và ngăn chặn kịp thời
những hành vi, hoạt động trái quy định.
- Giám sát là việc trông nom, theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng
những điều quy định hay không.
Qua những khái niệm trên, có thể thấy những đặc thù chung của các hoạt
động này là việc xem xét quá trình chấp hành, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết,
quy chế và quyết định quản lý có nghiêm túc, kịp thời, hay có vướng mắc gì

không. Tuy nhiên, các loại hình hoạt động vẫn có sự khác biệt, chẳng hạn:
+ Thanh tra là việc tổ chức kiểm tra từ bên ngoài của đối tượng bị kiểm
tra, là hoạt động của cơ quan quản lý cấp trên đối với đối tượng, còn kiểm tra
nhiều khi do bản thân đơn vị thực hiện.
+ Hoạt động kiểm tra của một cơ quan bên ngoài thường kết thúc bằng
những nhận xét, lời khuyên còn thanh tra kết thúc bằng văn bản kết luận, trong
đó đánh giá đúng thực trạng, xác định nguyên nhân, quy rõ trách nhiệm và có
kiến nghị xử lý. Kết luận đánh giá của thanh tra là kết luận chính thức của người
đại diện cho nhà nước.
+ Người thực hiện thanh tra phải có "tư cách pháp lý" khác với những
người thực hiện kiểm tra, kiểm soát nhằm đảm bảo cho công tác thanh tra thực
thi đúng và tuân thủ pháp luật, để người cán bộ tiến hành thanh tra có thể phát
huy hết các quyền của mình với đối tượng bị thanh tra khi cần thiết.
1.2.1.2- Sự cần thiết của hoạt động thanh tra NHNN đối với các NHTM
Ngân hàng là một ngành kinh doanh đặc thù trong nền kinh tế hàng hoá,
hoạt động của Ngân hàng có tính dây truyền và ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh
7


vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Bởi vì Ngân hàng là trung gian, là cầu
nối giữa người gửi tiền và người cần vay tiền. Đây là các quan hệ hết sức quan
trọng và gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình hoạt động.
Về phương diện hệ thống tài chính quốc gia. Ngân hàng chính là một khâu
trọng yếu. Vì vậy, một khi Ngân hàng mất tính ổn định sẽ ảnh hưởng đến các
khâu khác và làm cho toàn bộ hệ thống tài chính bị ảnh hưởng theo.
Về phương diện kinh doanh, hoạt động ngân hàng khác hẳn với các ngành
nghề khác và là hoạt động "nguy hiểm" vì phải huy động được vốn mới có
nguồn để cho vay. Vì vậy, nếu NHTM không gây dựng và giữ được uy tín với
khách hàng, nếu không xây dựng và thường xuyên thanh tra, giám sát các
NHTM trong việc tuân thủ pháp luật, quy chế về huy động vốn và đầu tư thì

hoạt động của NHTM với rủi ro lớn cả bên nguồn vốn và sử dụng vốn sẽ có thể
đẩy ngân hàng đến chỗ vỡ nợ. Mà khi một NHTM bị vỡ nợ thì sẽ dễ dàng kéo
theo sự đổ vỡ của các NHTM khác.
Bên cạnh đó, trong thực tế, có một bộ phận cán bộ còn chưa quen với tác
phong làm việc theo kỷ cương pháp luật, ý thức chấp hành luật pháp còn yếu,
hoặc tìm cách vận dụng những kẽ hở, những điểm còn chưa chặt chẽ, chưa đồng
bộ của pháp luật và chính sách để mưu lợi cho cá nhân, gây ảnh hưởng xấu đến
lợi ích và uy tín của nhà nước, của ngành.
Những vấn đề trên khiến cho hoạt động của ngân hàng gặp phải hàng loạt
rủi ro, trong đó đặc biệt phải kể đến rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng.
Chính vì vậy, để giữ vững tính chất an toàn, vững chắc cho các NHTM,
các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân có hoạt động ngân
hàng tuân thủ đúng pháp luật về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối, thanh toán ... nhằm
hạn chế rủi ro, bảo vệ an toàn tài sản cho khách hàng, tạo lòng tin cho người gửi
tiền, góp phần giữ ổn định nền tài chính-tiền tệ quốc gia thì tổ chức và hoạt động
của thanh tra NHNN đối với hoạt động ngân hàng là cần thiết và quan trọng. Mục
đích chính của thanh tra ngân hàng là nhằm góp phần đảm bảo sự phát triển an
toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín
dụng; duy trỡ và nõng cao lũng tin của cụng chỳng đối với hệ thống các tổ chức
tín dụng; đảm bảo việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và hoạt động

8


ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh
vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng
1.2.2- Nội dung hoạt động thanh tra của NHNN đối với các NHTM:
Nội dung thanh tra của Ngân hàng Nhà nước là tất cả các mặt hoạt động
của NHTM, tập trung vào một số lĩnh vực chính sau:

- Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng,
việc thực hiện các quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép
hoạt động ngân hàng của đối tượng thanh tra ngân hàng.
- Xem xét, đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro và tỡnh hỡnh
tài chớnh của đối tượng thanh tra ngân hàng.
- Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ
hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với quy định của pháp
luật và yêu cầu quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Kiến nghị, yêu cầu đối tượng thanh tra ngân hàng có biện pháp hạn chế,
giảm thiểu và xử lý rủi ro để bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và phũng
ngừa, ngăn chặn hành động dẫn đến vi phạm pháp luật.
- Phát hiện, ngăn chặn và xử lý theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xử lý vi phạm phỏp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Để thực hiện nội dung thanh tra trên đây, thanh tra NHNN chủ yếu sử
dụng hai phương thức thanh tra, giám sát là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ.
1.2.3- Các phương thức thanh tra của NHNN đối với NHTM:
1.2.3.1- Phương thức giám sát từ xa:
Phương thức giám sát từ xa là phương thức bổ xung cho thanh tra tại chỗ,
nhằm kiểm soát thường xuyên ở tầm vĩ mô hoạt động của NHTM và các trung
gian tài chính khác.
Giám sát từ xa là việc gián tiếp kiểm tra thông qua tổng hợp và phân tích
các báo cáo để đánh giá các nội dung hoạt động của tổ chức tín dụng. Về cơ
bản, hệ thống giám sát từ xa là một hệ thống thông tin. Đó là việc sử dụng
phương pháp phân tích bảng cân đối kế toán và các chỉ tiêu thống kê định kì của
NHTM để những nhà làm công tác quản lý vĩ mô nắm được một cách thường
xuyên tình hình, báo động cho NHTM những vấn đề cần thiết, kiến nghị những
biện pháp khắc phục thích hợp, kịp thời và "chỉ điểm" cho thanh tra tại chỗ
9



những vấn đề trọng tâm, trọng điểm đỡ tốn thời gian và công sức. Ở một số
nước trên thế giới còn bao gồm cả "việc xét cấp giấy phép cho các ngân hàng và
ra chỉ thị cho các ngân hàng".
Xuất xứ của phương thức này từ hệ thống ngân hàng Mỹ vào những năm
70, là thời kì có nhiều ngân hàng lớn của Mỹ rơi vào tình trạng khó khăn, khủng
hoảng, mặc dù ở Mỹ có hệ thống thanh tra của Ngân hàng Trung ương và cơ
quan Bảo hiểm tiền gửi rất mạnh. Qua nghiên cứu, các nhà quản lý ngân hàng
phát hiện những "rắc rối" và hiện tượng trên phần lớn đều phát sinh trong thời
gian "khoảng trống" giữa hai thời kì thanh tra tại chỗ. Để khắc phục điều này họ
đã đưa ra phương pháp giám sát từ xa nhằm giám sát thường xuyên hoạt động
của các NHTM. Phương pháp này sau đó được nhiều nước nghiên cứu và dần
dần được áp dụng phổ biến đối với hoạt động thanh tra của ngân hàng trung
ương các nước, cuối cùng trở thành một biện pháp nghiệp vụ hữu hiệu không thể
thiếu được trong quá trình giám sát hoạt động các NHTM.
Mục tiêu giám sát từ xa hoạt động của các NHTM là:
- Giám sát việc các Ngân hàng có đảm bảo an toàn trong hoạt động hay
không, từ đó giúp các Ngân hàng giữ uy tín với khách hàng, đây là tài sản quý
giá nhất trong kinh doanh ngân hàng.
- Giám sát việc ngân hàng có tuân thủ nghiêm túc luật pháp và quy chế
ngân hàng hay không, trong đó quan trọng nhất là các quy chế quản lý vĩ mô và
các công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN.
- Giám sát việc các Ngân hàng kinh doanh có hiệu quả hay không, bởi vì
đã kinh doanh là phải có lãi. Nếu bị thua lỗ thì dẫn đến việc cổ đông không
những không được hưởng quyền lợi mà còn bị hụt vốn, ảnh hưởng đến quá trình
kinh doanh. Nếu lỗ nặng và kéo dài, sẽ dẫn đến sự sụp đổ ngân hàng.
Nội dung giám sát từ xa đối với các NHTM chủ yếu gồm:
- Thu thập, tổng hợp và xử lý cỏc tài liệu, thụng tin, dữ liệu theo yờu cầu
giỏm sỏt ngõn hàng.
- Xem xột, theo dừi tỡnh hỡnh chấp hành cỏc quy định về an toàn hoạt
động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân

hàng, việc thực hiện các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, giám
sát ngân hàng.
10


- Phân tích, đánh giá tỡnh hỡnh tài chớnh, hoạt động, quản trị, điều hành
và mức độ rủi ro của tổ chức tín dụng.
- Phát hiện, cảnh báo các rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng và
nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Kiến nghị, đề xuất biện pháp phũng ngừa, ngăn chặn và xử lý rủi ro, vi
phạm phỏp luật.
Để thực hiện cỏc nội dung đú, giỏm sỏt từ xa thực hiện cỏc phõn tớch
sau: Phõn tích cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn; Phân tích tình hình nợ quá
hạn; Phân tích khả năng thanh toán; Phân tích tình hình thu - chi tài chính.
Sau khi thực hiện giỏm sỏt từ xa, thanh tra sẽ thông báo những vấn đề cần
lưu ý tới đối tượng giám sát, kiến nghị những biện pháp khắc phục đồng thời
báo cáo kết quả cho ban lãnh đạo, gửi cho cán bộ theo dõi hoạt động các NHTM
để khai thác.
1.2.3.2- Phương thức thanh tra tại chỗ:
Thanh tra tại chỗ là phương pháp thanh tra truyền thống, là việc thanh tra
được tổ chức tại nơi làm việc của đối tượng thanh tra và tại các tổ chức kinh tế,
cá nhân là khách hàng của ngân hàng trên cơ sở kiểm tra, xem xét các văn bản,
thông tư chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện cơ chế, quy chế của ngành; xem xét các
báo cáo kế toán - thống kê, các chứng từ, tài liệu, sổ sách, hợp đồng ... có liên
quan đến hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn và công tác kế toán - tài chính
của đối tượng được thanh tra.
Thanh tra tại chỗ nhằm các mục tiêu chính sau:
- Đánh giá tình hình chấp hành pháp luật và các quy định trong hoạt động
kinh doanh và tài chính của đối tượng thanh tra trong một thời kì nhất định.
- Xem xét việc thực hiện các quy định của cấp trên.

- Giúp cho các NHTM thấy được những mặt tích cực, những khuyết điểm
và tồn tại; kiến nghị những biện pháp chấn chỉnh để đưa hoạt động ngân hàng
đúng pháp luật, ổn định và phát triển.
- Qua thực tiễn kiểm tra phát hiện những vấn đề mới, những vấn đề chưa
hợp lý để kiến nghị xây dựng mới, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, quy chế hoạt
động của nhà nước, của ngành.

11


Phương pháp thanh tra tại chỗ thường được tổ chức thành đoàn thanh tra
cho mỗi cuộc thanh tra tại một đơn vị trong một thời gian nhất định. Đoàn thanh
tra thường được tổ chức từ 3-5 người, có một trưởng đoàn và có thể có phó
đoàn thanh tra. Trưởng đoàn thanh tra là chánh, phó thanh tra hoặc thanh tra
viên. Đoàn thanh tra được sử dụng cộng tác viên trong giới hạn quy định.
Thanh tra có thể được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất. Nội dung của
cuộc thanh tra định kỳ bao gồm một số hay toàn bộ các mặt nghiệp vụ sau:
- Thanh tra quản trị điều hành.
- Thanh tra nguồn vốn.
- Thanh tra chất lượng tín dụng.
- Thanh tra nghiệp vụ bảo lãnh.
- Thanh tra hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
- Thanh tra hùn vốn liên doanh.
- Thanh tra nghiệp vụ tài chính - kế toán.
Nội dung của thanh tra đột xuất có thể giống nội dung thanh tra định kì
hoặc có thể chỉ là một trong những nội dung cụ thể, nghĩa là tuỳ nhu cầu thực tế
phát sinh vụ việc để xác định nội dung thanh tra.
Quy trình của một cuộc thanh tra tại chỗ gồm ba bước:
Bước I: Chuẩn bị thanh tra gồm các nội dung:
- Xây dựng đề cương thanh tra.

- Ra quyết định thành lập đoàn thanh tra.
- Tập huấn thanh tra, họp đoàn giao nhiệm vụ.
- Gửi thông báo lịch và nội dung thanh tra cho đối tượng thanh tra.
Bước II: Tiến hành thanh tra gồm các nội dung:
- Họp với đối tượng thanh tra, thông báo quyết định, nội dung, thời gian,
thời hiệu thanh tra. Việc công bố quyết định thanh tra phải lập thành biên bản.
- Đối tượng thanh tra báo cáo khái quát tình hình, kết quả hoạt động theo
thời hiệu thanh tra; Tiếp nhận quyết định thanh tra; Thống nhất với đoàn thanh
tra về phương pháp làm việc và phối hợp với nhau.
- Các thành viên của đoàn tiến hành công việc thanh tra theo sự phân công
của trưởng đoàn thanh tra.
Bước III: Kết thúc cuộc thanh tra:

12


Trưởng đoàn thanh tra tổng hợp kết quả, thông qua nội bộ đoàn để thống
nhất kết quả thanh tra và triệu tập hội nghị để công bố dự thảo kết luận thanh
tra. Việc công bố dự thảo kết luận thanh tra phải được lập thành biên bản. Chậm
nhất 20 ngày kể từ ngày công bố dự thảo kết luận thanh tra, đoàn thanh tra phải
có văn bản kết luận chính thức về những nội dung thanh tra.
Sau khi kết thúc cuộc thanh tra, trưởng đoàn hoàn chỉnh hồ sơ bàn giao
người ra quyết định thanh tra.
1.2.4- Vị trớ và quyền hạn của Thanh tra ngõn hàng:
- Vị trớ của thanh tra ngõn hàng: Thanh tra ngân hàng là đơn vị thuộc cơ
cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, có chức năng giúp Thống đốc quản lý
nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, thực hiện thanh tra, giám sát ngõn hàng,
thực hiện phũng, chống rửa tiền theo theo quy định của Luật này và văn bản
pháp luật có liên quan;
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra ngõn hàng: Thanh tra ngân hàng

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Tham mưu, xây dựng trỡnh Thống đốc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật về quản lý, thanh tra, giỏm sỏt ngõn hàng;
+ Trỡnh Thống đốc cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động ngân
hàng, chấp thuận cho phép mở rộng quy mô, phạm vi, nội dung hoạt động; giấy
phép mở và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
+ Thực hiện thanh tra, giỏm sỏt ngõn hàng;
+ Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi
phạm hành chớnh;
+ Kiến nghị Thống đốc và cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
bảo đảm an toàn hoạt động ngõn hàng và biện phỏp xử lý đối với các tổ chức, cá
nhân có hành vi vi phạm pháp luật;
+ Thực hiện phũng, chống rửa tiền, phũng, chống tội phạm, phũng, chống
tham nhũng trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của
pháp luật;
+ Yờu cầu các đối tượng giám sát và các tổ chức, cá nhân có liên quan
cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin, tài liệu;
13


+ Tiếp cận không hạn chế đối với các cá nhân, đơn vị, các hệ thống cơ sở
vật chất, công nghệ, hồ sơ, tài liệu, chính sách, quy trỡnh nội bộ của đối tượng
giám sát trong quá trỡnh thanh tra, giỏm sỏt;
+ Thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về
khiếu nại, tố cáo;
1.2.5- Căn cứ pháp lý để thanh tra, giám sát các NHTM
Căn cứ pháp lý để thanh tra, giám sát các NHTM trước hết là Luật Ngân
hàng Nhà nước Việt nam và Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam khoá X, kì họp thứ hai thông qua ngày 12 tháng
12 năm 1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 10 năm 1998. Luật sửa

đổi bổ sung luật NHNN và Luật sửa đổi bổ sung luật các TCTD năm 2003. Các
Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành các luật trên (hiện tại đang có hiệu
lực là Nghị định số 96/2008/NĐ-CP ngày 26/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ
quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam), các quyết định của Thống đốc NHNN, các văn bản hướng dẫn
của NHNN, Ngân hàng thương mại Trung ương và các bộ ngành có liên quan.
Về chuyên ngành thanh tra trước tiên phải kể đến Luật thanh tra có hiệu
lực thi hành ngày 15/6/2004 có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 10 năm 2004. Nghị
định số 202/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ
và hoạt động ngân hàng, có hiệu lực kể từ ngày 01/4/2005. Quyết định số
83/2009/QĐ-TTg ngày 27/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng
nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng
trực thuộc NHNN Việt Nam.
Quyền hạn của Thanh tra NHNN trong việc thanh tra, giám sát ngân hàng
được quy định rõ trong Quyết định 83/2009/QĐ-NHNN:
+ Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng,
việc thực hiện các quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ
chức tín dụng, tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng quy mô nhỏ và giấy phép hoạt
động ngân hàng của các tổ chức khác;
+ Thanh tra vụ việc khác do Thống đốc NHNN giao;
+ Đánh giá mức độ rủi ro, năng lực quản trị rủi ro, tình hình tài chính và
hoạt động của đối tượng thanh tra ngân hàng.

14


+ Đề xuất Thống đốc NHNN áp dụng biện pháp xử lý đối với đối tượng
thanh tra ngân hàng có hành vi vi phạm pháp luật hoặc hoạt động không an toàn;
đặt, chấm dứt tình trạng giám sát đặc biệt, kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín
dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ; đình chỉ một hoặc một số hoạt động ngân

hàng của tổ chức tín dụng , tổ chức tài chính quy mô nhỏ và tổ chức khác có
hoạt động ngân hàng; thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín
dụng, tổ chức tài chính quy mô nhỏ, giấy phép hoạt động ngân hàng của tổ chức
khác; các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật;
+ Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo đảm
thi hành pháp luật, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý rủi ro, xử lý cơ quan, tổ
chức, cá nhân vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đình chỉ
việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định trái pháp luật được phát hiện thông
qua công tác thanh tra ngân hàng.
+ Theo dõi kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định
xử lý về thanh tra, giám sát của Thống đốc NHNNvà cơ quan Thanh tra, giám
sát ngân hàng; Trưng tập cán bộ, công chức của cơ quan, tổ chức có liên quan
tham gia đoàn thanh tra.
Để ra một quyết định thanh tra, kiểm tra, Thanh tra NHNN phải dựa trên
1 trong các căn cứ sau:
+ Chương trỡnh, kế hoạch thanh tra;
+ Yêu cầu của Thống đốc;
+ Khi phỏt hiện cú dấu hiệu vi phạm phỏp luật;
+ Mức độ rủi ro và an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài.
Việc thanh tra đột xuất được thực hiện theo quy định của pháp luật hoặc
khi phát hiện hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
có dấu hiệu rủi ro, đe dọa sự an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng liờn quan.
1.2.6- Cỏc hỡnh thức và thẩm quyền xử lý cỏc vi phạm của thanh tra
ngõn hàng:
- Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm hoặc mức độ rủi ro, Ngân hàng Nhà
nước được áp dụng các biện pháp xử lý sau đây đối với tổ chức tín dụng, chi

15



nhánh ngân hàng nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng :
+ Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi
phạm hành chớnh;
+ Hạn chế chia cổ tức, chuyển nhượng cổ phần, chuyển nhượng tài sản;
+ Hạn chế việc mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động;
+ Hạn chế, tạm đỡnh chỉ hoặc đỡnh chỉ một hoặc một số hoạt động ngân hàng;
+ Tạm đỡnh chỉ, đỡnh chỉ hoặc yờu cầu cơ quan có thẩm quyền tạm đỡnh
chỉ, đỡnh chỉ, miễn nhiệm chức vụ quản lý hoặc ỏp dụng cỏc hỡnh thức kỷ luật
khác đối với cá nhân có vi phạm;
+ Yêu cầu tổ chức tín dụng phải tăng vốn điều lệ để đáp ứng các yêu cầu
bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng;
+ Yêu cầu tổ chức tín dụng phải chuyển nhượng vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần;
+ Áp dụng một hoặc một số tỷ lệ an toàn cao hơn mức do Ngân hàng Nhà
nước quy định;
+ Yêu cầu cổ đông lớn, cổ đông nắm quyền kiểm soát, chi phối chuyển
nhượng cổ phần ;
+ Thực hiện việc sỏp nhập, hợp nhất hoặc giải thể bắt buộc;
+ Đặt tổ chức tín dụng vào tỡnh trạng kiểm soỏt đặc biệt;
+ Thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng;
+ Yêu cầu Toà án mở thủ tục giải quyết phá sản tổ chức tín dụng theo quy
định của pháp luật về phá sản;
- Đối tượng thanh tra, giám sát ngân hàng không phải là tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng, tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử
lý hành chớnh hoặc truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự theo quy định của pháp luật.
1.2.5- Mối quan hệ giữa thanh tra NHNN với các cơ quan thanh tra,
kiểm soát khác:
1.2.5.1- Mối quan hệ giữa Thanh tra Ngân hàng Nhà nước với Thanh

tra Chính phủ:

16


Theo Luật thanh tra năm 2004, mối quan hệ giữa thanh tra NHNN với
thanh tra chính phủ và thanh tra tỉnh, thành phố là mối quan hệ giữa thanh tra
theo cấp hành chính với thanh tra theo ngành, lĩnh vực. Theo đó, thanh tra
Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực
hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Chính phủ, còn thanh tra NHNN
là thanh tra theo ngành lĩnh vực, giúp Thống đốc quản lý nhà nước về cụng tỏc
thanh tra, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chớnh và thanh tra
chuyờn ngành trong cỏc lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của NHNN.
Thanh tra NHNN chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thống đốc; đồng thời chịu sự chỉ
đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ.
Mặc dù thanh tra Ngân hàng Nhà nước và Thanh tra Chính phủ trong lĩnh
vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng đều là công cụ quản lý lãnh đạo của nhà
nước; Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước nhưng giữa
hai tổ chức này có những điểm khác nhau:
- Về mục tiêu: Thanh tra Chính phủ phát huy nhân tố tích cực, phòng
ngừa xử lý các vi phạm góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện cơ
chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
Còn mục tiêu của Thanh tra ngân hàng hẹp hơn, chủ yếu nhằm duy trì sự
ổn định, vững mạnh của hệ thống tài chính - tiền tệ, đảm bảo an toàn cho hệ
thống ngân hàng, ngăn ngừa rủi ro, đổ vỡ và bảo vệ quyền lợi cho người gửi
tiền, đồng thời đảm bảo tôn trọng các quy chế chế độ về pháp luật nhà nước
trong lĩnh vực ngân hàng.
- Về đối tượng, phạm vi: Của Thanh tra Chính phủ bao trùm và rộng lớn hơn

gồm toàn bộ lĩnh vực kinh tế - xã hội. Còn của Thanh tra Ngân hàng chủ yếu là tổ
chức và hoạt động của tổ chức tín dụng và tổ chức khác có hoạt động ngân hàng.
- Về phương pháp hoạt động: Thanh tra Chính phủ chủ yếu sử dụng
phương thức thanh tra tại chỗ, còn thanh tra NHNN sử dụng cả phương thức
giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, vì vậy hoạt động thanh tra của NHNN mang
tính chất thường xuyên và toàn diện hơn.
1.2.5.2- Quan hệ giữa thanh tra NHNN và kiểm soát nội bộ các NHTM:

17


Hoạt động của các NHTM ngoài sự kiểm tra, giám sát của thanh tra
NHNN, ban kiểm soát thuộc hội đồng quản trị của NHTM đó còn có kiểm tra
nội bộ. Do nội dung hoạt động và biện pháp nghiệp vụ của thanh tra NHNN và
kiểm tra nội bộ các NHTM gần giống nhau nên trong thực tế có sự nhận thức
chưa đúng đắn và nhầm lẫn giữa chúng. Điểm chung của hai tổ chức là cùng
kiểm tra, giám sát việc các NHTM chấp hành các quy chế, pháp luật, chính sách
chế độ của nhà nước và của ngành, nhưng giữa chúng có điểm khác nhau cơ bản
là:
- Thanh tra, giám sát của thanh tra NHNN là thực hiện kiểm tra từ bên
ngoài của cơ quan quản lý nhà nước; Còn kiểm tra nội bộ của NHTM là sự kiểm
tra thường xuyên, hàng ngày của bản thân NHTM.
- Mục tiêu của thanh tra NHNN rộng lớn hơn, bao trùm hơn. Đó là nhằm
duy trì sự ổn định, an toàn và lành mạnh cho toàn hệ thống ngân hàng và bảo vệ
quyền lợi cho người gửi tiền. Còn mục tiêu của kiểm tra nội bộ là sự tuân thủ
pháp luật, an toàn của một NHTM mà trước hết là trực tiếp là bảo vệ quyền lợi
cho các cổ đông và bản thân NHTM đó.
Tuy có những điểm khác nhau như vậy, nhưng trong hoạt động hai tổ
chức này có mối quan hệ gần gũi. Trong đó kiểm tra nội bộ của NHTM như là
“giác quan” nối dài của thanh tra NHNN.

1.2.5.3. Mối quan hệ giữa Thanh tra Ngân hàng Nhà nước với Kiểm
toán Nhà nước.
Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến
của mình về các bản báo cáo tài chính, hoặc như tiến sỹ RoBert.N.Anthor giáo
sư trường đại học HARVARD cho rằng “ Kiểm toán là việc xem xét, kiểm tra
các việc ghi chép kế toán bởi các kế toán viên công cộng được thừa nhận, độc
lập và ở bên ngoài tổ chức được kiểm tra”.
Ở nước ta, quy chế về kiểm toán độc lập đã ghi rõ : “ Kiểm toán độc lập
là việc kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ
chức kiểm toán độc lập về tính đúng đắn, hợp lý của các tài liệu, số liệu, số liệu
kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức đoàn
thể, tổ chức xã hội khi có yêu cầu các đơn vị này”.
Như vậy , công tác kiểm toán nó cũng giống như thanh tra ở chỗ đó là
việc tổ chức kiểm tra xem xét từ bên ngoài . Tuy nhiên như khái niệm kiểm toán
18


trình bày trên đây thì nó chỉ kiểm tra xem xét về số liệu và chủ yếu là công tác
kế toán, quyết toán của các đơn vị. Mà Thanh tra NHNN là cơ quan kiểm tra
giám sát các NHTM nhất là qua phương thức giám sát từ xa thì việc sử dụng các
số liệu, báo cáo của NHTM đã qua kiểm toán là hết sức cần thiết, nó sẽ là cơ sở
tốt nhất để thanh tra NHNN có những nhìn nhận, đánh giá hoạt động của các
NHTM một cách trung thực, chính xác và khách quan nhất.
1.3- Kinh nghiệm Thanh tra Ngân hàng một số nước trên thế giới và
trong khu vực
1.3.1- Kinh nghiệm Thanh tra Ngân hàng ở các nước phát triển
- Ở Cộng hoà Pháp: Luật ngân hàng Pháp - ban hành năm 1984, sửa đổi
gần đây nhất vào năm 1994 - thành lập 2 uỷ ban bên cạnh Ngân hàng Trung
ương là uỷ ban giám sát ngân hàng và uỷ ban quy chế ngân hàng.
Thống đốc Ngân hàng Trung ương là chủ tịch uỷ ban Ngân hàng, các

thành viên là bộ trưởng ngân khố quốc gia và bốn thành viên khác do bộ trưởng
tài chính bổ nhiệm. Tổng thư ký uỷ ban Ngân hàng là người điều hành công việc
thường xuyên của uỷ ban ngân hàng. Dưới tổng thư ký có ba vụ:
+ Vụ giám sát làm nhiệm vụ giám sát hoạt động các tổ chức tín dụng (nội
dung hoạt động giống nội dung thanh tra tại chỗ của thanh tra NHNN Việt nam).
+ Vụ phân tích làm nhiệm vụ nghiên cứu, tổng hợp tình hình hoạt động
của các ngân hàng; Trợ giúp giám sát khi cần thiết; Tham gia vào các đoàn thanh
tra quốc tế thanh tra các tổ chức tín dụng; Soạn thảo quy chế quản lý để uỷ ban
quy chế ban hành.
+ Vụ đào tạo: Có chức năng đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ ngành
ngân hàng.
Uỷ ban Ngân hàng có các quyền lực sau đây:
Quyền lực hành chính: Uỷ ban ngân hàng có thể đưa ra yêu cầu để các
ngân hàng khắc phục yếu kém trong một thời gian nhất định, hoặc chấn chỉnh
những yếu kém của mình. Ngoài ra còn có thể tiến hành các biện pháp khác
nhau như: Bổ nhiệm một người thay thế người điều hành tổ chức tín dụng, tiếp
nhận tổ chức tín dụng để xử lý (việc bổ nhiệm có thể do người điều hành tổ
chức tín dụng đề xuất khi thấy mình không thực hiện được nhiệm vụ), cuối cùng
là chỉ định một người đứng ra làm nhiệm vụ thanh lý tổ chức tín dụng.
19


Quyền lực tư pháp: Có quyền cảnh báo; Trên mức cảnh báo (báo động);
Hạn chế hoặc cấm hoạt động của tổ chức tín dụng nào đó; Tạm đình chỉ một vài
người giữ chức vụ quản lý và chỉ định người tạm thời tiếp nhận; Quyết định cho
phép người điều hành từ chức (bãi miễn); Rút giấy phép hoạt động của Tổ chức
tín dụng; Phạt tiền (không vượt quá mức vốn tối thiểu của tổ chức tín dụng);
Chuyển sang cơ quan pháp luật những dấu hiệu hình sự.
- Ở Mỹ: Công tác thanh tra tại chỗ được coi trọng và là “hòn đá tảng” của
việc giám sát, phòng ngừa. Việc thanh tra được tiến hành bởi ba cơ quan là: Cơ

quan điều tra tiền, thường kiểm tra các Ngân hàng lớn khoảng hai năm một lần;
Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (SDIC) thường kiểm tra định kỳ ba năm một lần và
hệ thống dự trữ Liên bang (FED) có chu kỳ thanh tra ngắn hơn, thường 1,5 năm
một lần. Các cơ quan có thể sử dụng kết quả của nhau, nội dung thanh tra không
báo trước cho tổ chức tín dụng.
Các cuộc thanh tra để đưa đến sự xếp loại ngân hàng theo năm lĩnh vực chủ
yếu: An toàn vốn - Capital, chất lượng tài sản - Assets, quản lý - Management, khả
năng sinh lời - Earning, khả năng thanh toán - Liquidity (Viết tắt là CAMEL).
- Ở Anh: Ngân hàng Anh không thực hiện định kỳ các cuộc thanh tra tại
chỗ. Việc thanh tra các ngân hàng thương mại được tiến hành dựa trên cơ sở
nghiên cứu các báo cáo định kỳ, thông qua các cuộc phỏng vấn thường xuyên
theo phạm vi rộng và thảo luận với các nhà quản lý cao cấp của ngân hàng đó.
Các thông tin bổ sung không có trong báo cáo thống kê cũng thường xuyên được
hỏi đến. Ngân hàng Trung ương cũng thường xuyên duy trì mối quan hệ chặt chẽ
với các cơ quan giám sát nước ngoài.
- Ở Hunggari: Có hai cơ quan giám sát và thanh tra ngân hàng là: Cơ
quan giám sát ngân hàng và thị trường vốn; Vụ thanh tra thuộc ngân hàng quốc
gia Hunggari.
Cơ quan giám sát ngân hàng và thị trường vốn nằm ngoài ngân hàng quốc
gia Hunggari là cơ quan độc lập, người đứng đầu cơ quan này được Thủ tướng
Chính phủ bổ nhiệm với nhiệm kỳ sáu năm (nhiệm kỳ của Thủ tướng bốn năm).
Cơ quan này có kinh phí riêng để đảm bảo chủ động và độc lập trong hoạt động.
Kinh phí này hình thành từ hai nguồn: Thu từ các Tổ chức tín dụng (0,3%) tổng
tài sản có và tiền phạt vi phạm. Ngoài lương theo bậc công chức, thanh tra viên

20


còn được khuyến khích nếu làm tốt, nhưng cơ quan giám sát sẽ bị bồi thường
nếu đối tượng thanh tra kiện và thắng kiện.

Cả hai cơ quan thanh tra đều sử dụng hai phương pháp kiểm tra là:
+ Kiểm tra tại chỗ.
+ Giám sát từ xa.
Nhiệm vụ của cơ quan giám sát và thị trường vốn là quy định các tiêu
chuẩn vốn cho các ngân hàng, tiêu chuẩn cho vay, an toàn trong ngân hàng, thực
hiện việc giám sát và thanh tra đối với tất cả các tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo
tôn trọng các quyết định của ngân hàng quốc gia Hunggari, duy trì an toàn hệ
thống ngân hàng và các tổ chức tài chính (thực hiện mục tiêu chung của thanh
tra ngân hàng).
Nhiệm vụ của Thanh tra thuộc Ngân hàng quốc gia Hunggari là kiểm tra
để hỗ trợ việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ và các hoạt động khác của
ngân hàng quốc gia (công cụ để chủ động và thường xuyên), kiểm tra việc thực
hiện dự trữ bắt buộc, kiểm soát thông tin (yêu cầu cung cấp) để phân tích tình
hình và phục vụ điều tiết lượng tiền giao dịch, kiểm tra ngoại hối và kiểm tra
việc sử dụng vốn vay nước ngoài của các NHTM ở 39 ngân hàng, 241 quỹ tiết
kiệm, 8 hợp tác xã tín dụng, 3 hợp tác xã cung cấp tín dụng mua nhà, 132 công
ty môi giới đầu tư.
- Ở Tây Ban Nha: Việc giám sát phòng ngừa uỷ thác cho một vụ độc lập
với mục tiêu: Duy trì sự cân bằng trong các rủi ro chấp nhận, cấu thành và chất
lượng các khoản thu nhập, hiệu quả của việc cung cấp vốn và phương tiện quản
lý. Từ năm 1984 họ đã tiến hành giám sát theo phương thức CAMEL như của
Mỹ nói trên. Vụ thanh tra được tổ chức thành nhiều nhóm nhỏ và có trách nhiệm
giám sát toàn bộ hoạt động của một ngân hàng. Căn cứ vào tình hình cụ thể của
Ngân hàng mà có thể thanh tra tại chỗ một đến hai lần trong một năm.
- Ở Canađa: Luật pháp nước này đòi hỏi tổng thanh tra các ngân hàng ít
nhất mỗi năm một lần, phải kiểm tra các ngân hàng nhằm đảm bảo các điều
khoản luật ngân hàng đang được các ngân hàng thực thi đúng. Việc giám sát
phân tích cũng dựa vào năm yếu tố theo phương thức CAMEL như ở Mỹ và Tây
Ban Nha.
1.3.2- Kinh nghiệm của Thanh tra Ngân hàng một số nước trong khu vực.

21


- Ở Trung Quốc: Việc giám sát các ngân hàng và các định chế tài chính
khác ở Trung Quốc được ngân hàng nhân dân Trung Hoa tiến hành thông qua vụ
thanh tra và kiểm soát. Các cuộc thanh tra tại chỗ thường được tiến hành một
lần trong ba năm đối với ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng nước ngoài
và các định chế tài chính phi ngân hàng; Còn các định chế tài chính thuộc sở
hữu tập thể được thanh tra hai năm một lần ... Riêng hợp tác xã tín dụng được
giao cho Ngân hàng nông nghiệp giám sát.
- Ở Thái Lan: Việc giám sát các tổ chức tài chính được giao cho ngân
hàng trung ương Thái Lan thông qua hai vụ là vụ giám sát các ngân hàng và vụ
giám sát kiểm tra các tổ chức tài chính. Nhiệm vụ của thanh tra ngân hàng trung
ương Thái Lan là giám sát, kiểm tra, phân tích, cấp giấy phép và quản lý. Phạm
vi hoạt động tới tất cả các công ty chứng khoán, Công ty tài chính và chứng
khoán và các công ty tín dụng địa ốc.
Nội dung thanh tra, giám sát của ngân hàng trung ương Thái Lan cũng áp
dụng theo năm nội dung theo các chuẩn tắc quốc tế là: Địa vị tài chính và sự
vững chắc của ngân hàng, khả năng thanh toán, chất lượng tài sản có, quản lý, tài
chính.
- Ở Malaisia: Về mô hình và phương thức hoạt động của thanh tra ngân
hàng trung ương của Malaisia cũng gần giống như của Thái Lan.
1.3.3. Những bài học kinh nghiệm rút ra qua nghiên cứu hoạt động
thanh tra của NHTW các nước.
Hoạt động thanh tra NHTW các nước ( cả quy mô và phương thức hoạt
động ) có sự khác nhau tuỳ thuộc vào chế độ quản lý, trình độ phát triển của hệ
thống tài chính tiền tệ và trình độ luật pháp của từng nước. Tuy nhiên có một số
điểm giống nhau cơ bản cần rút ra đó là:
- Công tác thanh tra được giao cho 1 tổ chức nhất định tiến hành một cách
tương đối độc lập và đa số giao cho Ngân hàng Trung ương.

- Phương pháp hoạt động nhìn chung đều sử dụng cả hai phương thức:
Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ và có các bộ phận để triển khai thực hiện các
phương thức đó.
- Mục đích của thanh tra giống nhau, tức là đều nhằm duy trì sự ổn định
của hệ thống Ngân hàng và bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.
22




Việt nam hiện nay, tuy đã sử dụng cả 2 phương thức trên đây song cả

về mô hình tổ chức, cách thức triển khai thực hiện còn có những bất cập lúng
túng làm giảm hiệu quả công tác thanh tra NHNN, chúng tôi sẽ đề cập cụ thể
vấn đề này ở các chương sau.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TRA CỦA NHNN ĐỐI VỚI CÁC NHTM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN

2.1- Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An và hoạt
động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn
2.1.1- Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An
Nghệ An là một tỉnh thuộc vùng trung bộ Việt nam có điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội đa đạng và phong phú. Với diện tích tự nhiên 16.487,3 Km2 bằng
3,62 % tổng diện tích tự nhiên của cả nước, trong đó đất nông nghiệp chiếm
41%, đất lâm nghiệp chiếm 11%, đất chuyên dùng chiếm 3,6%. Nghệ An có cả
miền núi , trung du, đồng bằng và biển. Về dân số: đến 31/12/2008, dõn số tỉnh
Nghệ An là 3.128.532 người, trong đó dân số nữ là 1.593.686 người, chiếm
50,94%; nụng thụn là 2.750.766 người và khoảng 430.000 đồng bào dân tộc

thiểu số. Về tổ chức hành chính, tỉnh gồm 20 huyện, thị xã, thành phố. Về phỏt
triển kinh tế: GDP năm 2008 đạt 13.854 tỷ đồng (theo giá so sánh 1994), tăng
10,6% so với năm 2007. Trong đó: Khu vực Nông - Lâm - Thuỷ sản chiếm
30.48%, Khu vực Công nghiệp - Xây dựng chiếm 32,53%, Khu vực Dịch vụ
chiếm 36,99%. Thu ngân sách bình quân hàng chỉ đạt gần 2.500 tỷ đồng, trong
khi đó chi ngân sách hàng năm lên đến trên 6.000 tỷ đồng (năm 2008 thu ngân
sách đạt 2.450 tỷ đồng, tăng 7,3% so với năm 2007, trong khi chi ngân sách đạt
6.337 tỷ đồng, tăng 1,7% so với năm 2007). Năm 2000 GDP bình quân đầu
người của tỉnh Nghệ an chỉ mới đạt 220 USD/người, đến năm 2008 đã tăng lên
560 USD/người nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức bình quân chung cả nước
là 1.024USD/người.
23


Những kết quả trên đây cho thấy Nghệ an vẫn chưa thoát khỏi tình trạng
là 1 tỉnh nghèo, tỷ lệ hộ nghốo (theo chuẩn nghốo dưới 260 ngàn đồng/thỏng ở
thành thị, dưới 200 ngàn đồng ở nụng thụn) vẫn cũn chiếm 17,65%, trong đó số
hộ nụng nghiệp thiếu đúi khoảng 16.600 hộ chiếm 3,43% số khẩu nụng nghiệp,
tốc độ tăng trưởng còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng hiện có, GDP bình
quân đầu người thấp so với mức bình quân chung của cả nước. Đại bộ phận
nông dân vẫn gặp nhiều khó khăn, lao động thiếu việc làm còn nhiều. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm và chưa vững chắc, sản phẩm hàng hoá còn nhỏ bé.
Khả năng cân đối thu chi Ngân sách trên địa bàn còn rất khó khăn. Cơ sở hạ
tầng phục vụ sản xuất yếu kém nhất là các cảng biển và giao thông đang là lực
cản đối với nền kinh tế, đặt biệt là việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trang
thiết bị, công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, chất lượng sản phẩm, hiệu
quả kinh tế thấp.
Tuy nhiên, thời gian mấy năm gần đây, được sự quan tâm của Trung ương
Đảng và Chính phủ, Nghệ An đã và đang có những bước phát triển hết sức
nhanh chóng với định hướng là trung tâm kinh tế chính trị, văn hoá xã hội của

vùng bắc Trung Bộ, thể hiện ở các văn bản như: Kết luận số 20 của Trung ương
Đảng, Thông báo số 111, 169, 152 của Văn phũng Chớnh phủ về phỏt triển Nghệ
An thành trung tõm kinh tế xó hội của vựng Bắc Trung Bộ, nhiều quyết định
quan trọng như Quyết định 85 thành lập khu kinh tế Đông Nam Nghệ An, Quyết
định 147 về phát triển KT-XH miền Tây Nghệ An..., Thành phố Vinh đã được
mở rộng và nâng cấp lên Đô thị loại I và được quy hoạch là đô thị trung tâm cấp
vùng. Sự phát triển của Nghệ An đã thể hiện rõ ở nhiều mặt như: Về giáo dục đã
có 1 trường Đại học tầm cỡ Quốc gia, 5 trường Cao đẳng trong đó có 2 trường
đang chuẩn bị năng cấp lên đại học tầm cỡ Vùng và nhiều trường trung cấp nghề
đang nâng cấp lên thành các trường cao đẳng; Về y tế đang xây dựng bệnh viện
đa khoa khu vực với quy mô lớn 700 giường bệnh; Về giao thông vận tải, văn
hoá, thể thao, du lịch đều có nhiều sự phát triển vượt bậc thể hiện vai trò trung
tâm của khu vực Bắc Trung Bộ; Đặc biệt là sự phát triển của ngành ngân hàng:
với hơn 25 ngân hàng và hàng trăm chi nhánh phụ thuộc, phòng giao dịch, quỹ
tiết kiệm, quỹ tín dụng (trong khi trong vùng Thanh Hoá chỉ mới có 14 ngân
hàng, Hà tĩnh 5NH, Q.Bình 8NH, Q.Trị 5NH, Huế 14NH), tổng dư nợ toàn địa
bàn tỉnh Nghệ An đạt 22.000 tỷ (trong khi đó T.Hoá mới chỉ đạt 12.000 tỷ, Hà
24


Tĩnh 5.000 tỷ, Q.Bình 7.5000 tỷ, Q.Trị 4.000 tỷ, Huế 6.800 tỷ), tổng huy động tại
địa bàn đạt 16.000 tỷ (trong khi đó T.Hoá mới chỉ đạt 8.000 tỷ, Hà tĩnh 4.500 tỷ,
Q.Bình 4.000 tỷ, Q.Trị 3.500 tỷ, Huế 7.000 tỷ) đã cho thấy sự phát triển mạnh
mẽ trong thời gian gần đây.
Những khó khăn và thuận lợi của nền kinh tế đã và đang có những tác
động trực tiếp đến quá trình phát triển của hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh
Nghệ An. Vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, ngành ngân hàng Nghệ An đã có
những bước phát triển vượt bậc, là 1 trong những ngành đi đầu trong quá trình phát
triển kinh tế Nghệ An thành trung tâm kinh tế khu vực, ngành ngân hàng Nghệ An
đã bắt đầu mang dáng dấp của trung tâm ngân hàng của khu vực Bắc Trung Bộ. Sự

phát triển này cũng kéo theo việc quản lý rủi ro đối với hệ thống ngân hàng trên
địa bàn cũng đòi hỏi cao hơn, chuyên nghiệp hơn và khó khăn hơn.
2.1.2- Hoạt động của các NHTM trên địa bàn tỉnh Nghệ An
Quá trình thành lập và phát triển của Ngân hàng Nghệ An gắn liền với sự
ra đời và phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt nam. Được thành lập từ tháng
10/1951, trong một thời gian dài cho đến cuối những năm 80, trên địa bàn tỉnh
Nghệ An chỉ tồn tại hệ thống ngân hàng một cấp. Chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước tỉnh vừa làm nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng, vừa trực tiếp kinh doanh. Hoạt động ngân hàng thời kỳ này có những đặc
điểm cơ bản sau:
- Cả nước chỉ có một loại hình ngân hàng duy nhất thuộc sở hữu nhà
nước. Các thành phần kinh tế khác không được thành lập và kinh doanh trên
lĩnh vực ngân hàng.
- Ngân hàng được tổ chức quản lý và hoạt động theo cơ cấu tổ chức hành
chính: Ngân hàng nhà nước Trung ương đóng tại Hà nội; Các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có một chi nhánh; Các huyện có chi nhánh trực thuộc
tỉnh. Khách hàng chỉ được mở tài khoản và giao dịch gửi, vay tại ngân hàng nơi
cư trú hoặc đóng trụ sở.
- Hoạt động ngân hàng theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các chỉ tiêu
mang tính pháp lệnh được giao từ trên xuống như kế hoạch phát hành, kế hoạch
tiền mặt, kế hoạch tín dụng ...
Có thể nói trong thời kỳ này hoạt động ngân hàng đã đáp ứng được và
phục vụ đắc lực cho sự phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung.
25


×