Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LV Thạc sỹ_Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính tại công ty cổ phần xây dựng và kinh doanh địa ốc Hoà bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.73 KB, 101 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với tiến trình phát triển hệ thống kế toán Việt Nam, hệ thống báo
cáo tài chính cũng không ngừng được đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với
các chuẩn mực chung của kế toán quốc tế thu hẹp sự khác nhau giữa kế toán
Việt Nam với các chuẩn mực chung của kế toán quốc tế.
Tuy nhiên, do môi trường kinh tế xã hội luôn luôn biến động nên hệ
thống báo cáo tài chính không ngừng đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với
thông lệ và chuẩn mực quốc tế đáp ứng nhu cầu thông tin của người sử dụng.
Đặc biệt là Việt nam chúng ta giờ đây là thành viên của WTO thì việc
công khai thông tin của hệ thống báo cáo tài chính không chỉ cần thiết cho các
nhà quản lý doanh nghiệp mà còn là sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước, cơ quan quản lý nhà nước, người lao động làm công ăn lương và
các đối thủ cạnh tranh.
Đối với các công ty cổ phần niêm yết chứng khoán trên sàn giao dịch thì
hệ thống báo cáo tài chính trở thành thông tin tổng hợp mang đầy đủ tính chất
pháp lý cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp cần quan tâm phân tích.
Nội dung của phân tích báo cáo tài chính trong doanh nghiệp nói chung
và Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình nói riêng chưa
đóng vai trò vị trí vì thế nên cần phải hoàn thiện.
Nhu cầu về sự an toàn, tiện nghi và thẩm mỹ cho nơi ăn chốn ở và sinh
hoạt của con người thường xuyên biến đổi và đòi hỏi ngày càng cao.Vì vậy,
Ngành Xây dựng và Địa ốc tuy có lúc thịnh lúc suy nhưng sẽ tồn tại và phát
triển không ngừng cũng vì vậy, một trong những định hướng, quan trọng của
Hoà Bình là phát triển Công ty một cách bền vững và lâu dài qua nhiều thế
hệ. Để đảm bảo sự lâu dài và bền vững này, vấn đề tạo lập một môi trường
làm việc thật tốt cho Công ty phát triển luôn luôn được chú trọng. Môi trường
này được hoàn thiện dần theo hướng nhân bản và mang tính văn hoá cao
nhằm tạo điều kiện cho mỗi người phát huy toàn diện năng lực và sức sáng


tạo. Tích luỹ cho Công ty ngày càng nhiều vốn liếng, kiến thức và kinh nghiệm.
Bên cạnh đó, Hoà Bình rất quan tâm đến việc xây dựng, duy trì và phát
triển những mối quan hệ hợp tác lâu dài, hiểu biết, tin cậy lẫn nhau với các


2

đối tác trên tinh thần hoà bình đồng thời tính kế thừa được bảo đảm để tất cả
những mối quan hệ, vốn liếng, kiến thức và kinh nghiệm đó được chuyển giao
một cách đầy đủ nhất từ thế hệ này sang thế hệ khác.Trên thực tế Hoà Bình đã
và đang thể hiện vai trò tích cực đối với sự nghiệp phát triển không ngừng của
đất nước.Việc nắm bắt tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài
chính thông qua phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp là việc làm không
thể thiếu trong công tác quản lý tài chính nhằm đưa ra những quyết định quan
trọng về chiến lược sản xuất và kinh doanh kịp thời và hiệu quả.
Mặc dù việc phân tích tình hình tài chính thông qua các báo cáo tài chính
có vai trò quan trọng như vậy nhưng nhiều doanh nghiệp Việt Nam trong đó
có cả Công ty Cổ phần Xây dựng và Địa ốc Hoà Bình chưa chú trọng và quan
tâm đúng mức mà chủ yếu vẫn dừng ở lại những mức phân tích đơn giản.Việc
phân tích báo cáo tài chính cũng chưa được thực hiện thường xuyên và đầy đủ
nên chưa thể hiện được vai trò là một công cụ quan trọng và không thể thiếu
trong quản lý doanh nghiệp nói chung và quản lý tài chính nói riêng.
Xuất phát từ nhận thức về tầm quan trọng của công tác phân tích báo
cáo tài chính trong các doanh nghiệp và thực trạng phân tích báo cáo tài chính
tại Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình, tác giả đã lựa
chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ là "Hoàn thiện phân tích báo cáo
tài chính tại Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình".
2. Mục đích của đề tài nghiên cứu.
Xuất phát từ thực trạng phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ phần
Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình, đề tài được nghiên cứu nhằm vào

các mục đích sau.
Nghiên cứu và hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hệ thống
báo cáo tài chính và công tác phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp theo
các quy định và chế độ hiện hành của Việt Nam.
Tìm hiểu thực trạng phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ phần
Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình.
Qua đó, tác giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện phân tích báo cáo tài
chính tại Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình.


3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống báo cáo tài chính của Việt
Nam và báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa
ốc Hoà Bình.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là lấy số liệu năm 2008 báo cáo tài chính
của Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài đã vận dụng các phương pháp luận và quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp phân tích
tổng hợp, hệ thống hoá để trình bày các quan điểm, giải pháp để đạt được mục
đích nghiên cứu của đề tài.
Luận văn cũng kết hợp lý luận cơ bản của khoa học chuyên ngành kế
toán, tài vụ và phân tích hoạt động kinh doanh với nội dung quản lý Nhà nước
về tài chính trong điều kiện kinh tế thị trường.
5. Những đóng góp của luận văn.
Trên cơ sở lý luận về phân tích Báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp
tác giả đã đánh giá thực trạng và nội dung công tác phân tích báo cáo tài
chính tại Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình

Luận văn cũng đưa ra những phương hướng và giải pháp hoàn thiện
phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa
ốc Hoà Bình
6. Tên đề tài và kết cấu của luận văn
* Tên đề tài: "Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ
phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình".
* Kết cấu của luận văn: luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận được
chia làm ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận về phân tích Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng phân tích Báo cáo tài chính tại Công ty Cổ phần Xây
dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện phân tích Báo cáo tài
chính tại Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Hoà Bình


4

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1 BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1.1. Báo cáo tài chính
Hệ thống báo cáo tài chính được lập nhằm mục đích phục vụ cho việc
xem xét, đánh giá định kỳ báo cáo tài chính về quá trình hoạt động của nhà
quản lý, về tình hình đầu tư trong kinh doanh và những kết quả đạt được trong
kỳ. Hệ thống báo cáo tài chính phản ánh tổng hợp những sự kiện kinh tế phát
sinh được ghi nhận trên bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh,
những công bố và ghi chú trên thuyết minh báo cáo tài chính trên cơ sở những
nguyên tắc kế toán và những đánh giá phán xét mang tích chất cá nhân mà
trong đó những phán xét và nguyên tắc kế toán được áp dụng có ảnh hưởng

chủ yếu đến việc ghi nhận, phân loại và trình bày các sự kiện kinh tế phát sinh
đó. Những đánh giá phán xét tùy thuộc vào khả năng xét đoán trung thực liêm
khiết của người lập báo cáo tài chính và các nhà quản lý doanh nghiệp, đồng
thời phụ thuộc vào sự tuân thủ với những nguyên tắc kế toán đang ban hành.
Như vậy, báo cáo tài chính là sản phẩm của kế toán tài chính, tổng hợp
và phản ánh một cách tổng quát, toàn diện tình hình tài sản và nguồn vốn của
một doanh nghiệp tại một thời điểm. Bảng cân đối kế toán cung cấp thông tin
về tổng giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp được phân loại theo cơ cấu tài
sản và tổng giá trị nguồn hình thành tài sản phân loại theo cơ cấu nguồn vốn
(Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu) của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo.Căn
cứ vào bảng cân đối kế toán người sử dụng báo cáo tài chính có thể nhận xét,
đánh giá chung về tình hình tài chính, cơ cấu tài sản và năng lực kinh doanh,
cơ cấu nguồn vốn và khả năng tự chủ về tài chính, khả năng thanh toán các
khoản nợ.


5

Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp,
phản ánh tổng quát tình hình và hiệu quả kinh doanh trong một kỳ kế toán
của doanh nghiệp, chi tiết theo theo các loại hoạt động chủ yếu.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính phản ánh các khoản thu
và chi tiền trong kỳ của doanh nghiệp theo các hoạt động kinh doanh, hoạt
động đầu tư và hoạt động tài chính. Dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ ta có
thể đánh giá được khả năng tạo ra tiền, sự biến động tài sản thường , khả năng
thanh toán ,và dự đoán được luồng tiền trong kỳ tiếp theo của doanh nghiệp.
Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo
cáo tài chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích bổ sung thông tin về
tình hình hoạt động doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính
khác chưa trình bày rõ ràng và chi tiết được.

1.1.2 Phân tích báo cáo tài chính
Phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối
chiếu, so sánh các số liệu về tài sản, công nợ, nguồn vốn và tình hình tài chính
hiện hành của doanh nghiệp với quá khứ.
Qua việc phân tích báo cáo tài chính người sử dụng thông tin có thể
đánh giá được tình hình tài chính cũng như kết quả kinh doanh, những nguyên
nhân ảnh hưởng và đưa ra những quyết định phù hợp với mục tiêu của từng
đối tượng quan tâm. Ngoài ra việc phân tích báo cáo tài chính còn cho phép
đánh giá sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của doanh nghiệp
là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như Ban giám đốc, Hội
đồng quản trị, các nhà đầu tư, cổ đông, các chủ nợ, các nhà cho vay, các nhà
quản lý, các cơ quan chức năng.
Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị mối quan tâm hàng đầu
của họ là tìm kiếm được lợi nhuận và khả năng trả nợ để đảm bảo sự tồn tại
phát triển của doanh nghiệp. Họ cũng quan tâm đến mục tiêu khác như tạo
công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản phẩm, đóng góp phúc lợi xã hội …


6

Do đó, họ đặc biệt chú ý đến số luợng tiền tạo ra và các tài sản có thể
chuyển nhanh thành tiền. Ngoài ra họ còn quan tâm đến số lượng vốn của chủ
sở hữu để đảm bảo chắc chắn rằng các khoản vay có thể sẽ được thanh toán
khi đến hạn.
Đối nhà đầu tư, sự quan tâm của họ hướng vào các yêu tố rủi ro, thời
gian hoàn vốn, mức tăng trưởng, khả năng thanh toán vốn do đó việc phân
tích báo cáo tài chính giúp cho họ tìm hiểu về thông tin về điều kiện tài chính,
tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh, khả năng sinh lời hiện tài và tương
lai của doanh nghiệp.
Đối với nhà cung cấp họ phải quyết định xem có nên cho doanh nghiệp

sắp tới mua chịu hành hoá hay không. Vì vậy họ phải biết được khả năng
thanh toán doanh nghiệp hiện tại và thời gian sắp tới.
Đối với các nhà quản lý chức năng của Nhà nước, các cổ đông, người
lao động thì mối quan tâm của họ cũng giống như các đối tượng kể trên tuy
nhiên ở góc độ này hay góc độ khác mà thôi.
Như vậy nội dung phân tích báo cáo tài chính có thể không giống nhau
giữa các nhóm phân tích khác nhau nhưng nói chung phân tích báo cáo tài
chính thường bao gồm nội dung sau.
Đánh giá khái quát tình hình tài chính nhằm nhận định ban đầu về tình
hình tài chính của doanh nghiệp, biết được mức độ độc lập về tài chính cũng
như khó khăn về tài chính mà doanh nghiệp đang gặp phải đặc biệt là lĩnh vực
thanh toán. Qua đó các nhà quản lý có thể đề ra các quyết định về đầu tư, hợp
tác liên doanh liên kết, mua bán cho vay…
Phân tích cấu trúc tài chính và tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt
động kinh doanh, các nhà phân tích cần khái quát tình hình đầu tư và sử dụng
vốn của doanh nghiệp, tình hình phân bổ tài sản và các nguồn tài trợ tài sản.
Ngoài ra, nội dung phân tích còn góp phần củng cố cho các nhận định rút ra
khi qua việc đánh giá khái quát tình hình tài chính.


7

Phân tích tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của doanh
nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng hoạt động tài chính, nếu hoạt động tài
chính tốt, khả năng thanh toán sẽ cao doanh nghiệp ít công nợ ít bị chiếm
dụng vốn cũng như ít đi chiếm dụng vốn. Ngược lại, nếu hoạt động tài chính
kém thì dẫn tình trạng doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, chiếm dụng
vốn lẫn nhau, các khoản công nợ phải thu, phải trả sẽ dây dưa kéo dài.
Phân tích hiệu quả kinh doanh trên các góc độ khác nhau thì các nhà
quản lý có thể đánh giá được hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lời, từ đó

đề xuất giải pháp thích hợp để nâng cao.
Phân tích tốc độ luân chuyển của tài sản ngắn hạn là một trong những
nội dung phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn, từ đó chúng ta cũng có
biết được. Tuy nhiên do tầm quan trọng của tài sản ngắn hạn nên doanh
nghiệp thường đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của tài sản ngắn hạn sẽ ảnh
hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như hiệu quả kinh
doanh.
Phân tích rủi ro tài chính các nhà quản lý dự báo được những rủi ro
tiềm ẩn về tài chính trên khía cạnh thanh toán thậm trí cả rủi ro về phá sản mà
doanh nghiệp có thể phải đương đầu. Từ đó các nhà quản lý đề ra các kế sách,
các quyết định kịp thời hợp lý để ngăn ngừa giảm thiểu rủi ro cho doanh
nghiệp.Rủi ro tài chính gắn liền cấu trúc vốn và là rủi ro các chủ sở hữu phải
chịu do việc sử dụng nợ mang lại. Khi xem xét rủi ro tài chính thường xem
xét rủi ro thanh toán nợ và ảnh hưởng đến cơ cấu nợ đến khả năng sinh lợi
trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Các phương pháp phân tích báo cáo tài chính là một hệ thống công cụ
biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện hiện tượng các mối quan hệ
bên trong và bên ngoài các luồng dịch chuyển biến đổi các hoạt động đầu tư
tài chính và các hoạt động khác, các chỉ tiêu đánh giá tình hình hoạt động đầu
tư, hoạt động tài chính hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác của
doanh nghiệp để đưa ra các quyết định hợp lý


8

1.2. NỘI DUNG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Như chúng ta biết, mỗi nhóm đối tượng đều có mối quan hệ khác nhau
về lợi ích kinh tế gắn với doanh nghiệp. Do đó, mục đích phân tích báo cáo tài
chính của họ cũng khác nhau. Sự khác nhau về mục đích phân tích, cộng với
sự khác biệt trong khả năng tiếp cận tài liệu dùng để phân tích khiến mỗi

nhóm đối tượng tiến hành phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp dưới
các góc độ khác nhau.
1.2.1. Nội dung phân tích báo cáo tài chính từ các nhà đầu tư, nhà
cung cấp tín dụng và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp
Các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng, các cơ quan Nhà nước và đối
tượng bên ngoài doanh nghiệp đều quan tâm đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Trong đó, nhà đầu tư, người cung cấp tín dụng là những đối
tượng hay tiến hành phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhất. Các
đối tượng này hầu như chỉ tiếp cận với tài liệu phân tích là báo cáo tài chính
đã được doanh nghiệp công bố rộng rãi ra bên ngoài như Bảng cân đối kế
toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hay báo cáo lưu chuyển tiền tệ,
thuyết minh báo cáo tài chính. Hơn nữa, họ cần những thông tin tài chính của
doanh nghiệp để đưa ra các quyết định cho các mục tiêu khác nhau. Sau đây,
nội dung phân tích mà từng đối tượng thường quan tâm là
1.2.1.1. Nội dung phân tích phục vụ chủ yếu cho nhà đầu tư
Nhà đầu tư cần có những thông tin hữu ích để quyết định có nên đầu tư
hay không. Họ cần dự đoán khoản đầu tư nào sẽ đem lại lợi ích trong tương
lai. Để thực hiện được việc này, họ buộc phải có những thông tin giúp đánh
giá một cách xác thực khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Xuất phát từ nhu
cầu thông tin giải đáp cho vấn đề trên, với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng
đầu chính là hiệu quả kinh doanh mà cụ thể là khả năng tạo ra lợi nhuận của
doanh nghiệp. Trên thực tế, hiệu quả kinh doanh được tiếp cận dưới nhiều góc
độ khác nhau vì thế cũng có nhiều chỉ tiêu khác nhau phản ánh nó. Song, về


9

mặt tổng quát, để đo lường và đánh giá hiệu quả kinh doanh, các nhà phân
tích thường sử dụng một số chỉ tiêu chủ yếu sau:
- Suất sinh lời của tài sản: Phản ánh một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu

đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao càng thể hiện sự sắp xếp, phân
bổ và quản lý tài sản càng hợp lý và hiệu quả. Chỉ tiêu này được xác định như
sau: công thức (1.1)
Suất sinh lời tài sản
(ROA)
hay (1.2)
ROA

=

ROA

Lợi nhuận sau thuế
Tổng số tài sản bình quân

=

Doanh thu thuần
Tổng số tài sản bình quân
=

Lợi nhuận sau thuế

x

Số vòng quay của tổng
số tài sản

Doanh thu thuần
x


Suất sinh lời
của doanh thu

Như vậy, suất sinh lời của tài sản càng cao khi số vòng quay của tài sản
càng cao và suất sinh lời của doanh thu càng lớn. Bằng phương pháp loại trừ,
các nhà phân tích sẽ xác định được ảnh hưởng của từng nhân tố đến sự thay
đổi suất sinh lời của tổng số tài sản trong kỳ.
- Suất sinh lời của doanh thu: Phản ánh một đơn vị doanh thu thuần
đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận. Trị số chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ khả
năng sinh lời của vốn càng cao và hiệu quả kinh doanh càng lớn. Chỉ tiêu này
được xác định như sau.(1.3)
Suất sinh lời của doanh thu
(ROS)
hay (1.4)
ROS

=

ROS

=

=

Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần

Tổng số tài sản bình quân
x

Doanh thu thuần
Hệ số tài sản
trên doanh thu thuần

x

Lợi nhuận sau thuế
Tổng số TS bình quân
Suất sinh lời
của tài sản


10

Qua công thức trên, ta thấy suất sinh lời của doanh thu phụ thuộc vào
hệ số tài sản trên doanh thu thuần hoạt động kinh doanh và suất sinh lời của
tài sản. Do vậy, để tăng suất sinh lời của doanh thu, doanh nghiệp phải tìm
biện pháp tăng hệ số tài sản trên doanh thu và tăng suất sinh lời của tài sản.
Bằng phương pháp loại trừ, ta sẽ xác định được sự ảnh hưởng của từng nhân
tố đến sự thay đổi suất sinh lời của doanh thu trong kỳ.
- Suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (Return on equity – ROE): Phản ánh
khái quát nhất hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chỉ tiêu này cho biết
một đơn vị vốn chủ sở hữu đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. Trị số
của chỉ tiêu càng cao chứng tỏ khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu càng cao
và ngược lại. Chỉ tiêu này được tính như sau: (1.5)

ROE =

Tổng số TS bình quân
Vốn chủ sở hữu bình


x

Doanh thu thuần
Tổng số TS bình

quân
ROE =

quân

Hệ số tài sản trên

Vốn chủ sở hữu
Trong đó:
Số vòng quay
Của tài sản

x

Lợi nhuận sau thuế
Tổng số TS bình

X

x

Số vòng quay của
tài sản


quân

Suất sinh lời của
doanh thu

ROE = Hệ số tài sản trên Vốn chủ sở hữu

Suất sinh lời

x

của doanh thu
=

x

Suất sinh lời
của tổng TS
ROA

Qua công thức trên, suất sinh lời của vốn chủ sở hữu phụ thuộc vào hệ
số tài sản trên vốn chủ sở hữu và suất sinh lời của tổng tài sản. Nên muốn
tăng suất sinh lời của vốn chủ sở hữu thì ta phải tăng hai chỉ tiêu trên. Các nhà
phân tích sẽ xác định được ảnh hưởng của từng nhân tố đến sự thay đổi của
suất sinh lời vốn chủ sở hữu trong kỳ bằng phương pháp loại trừ.
Ngoài ra, khi phân tích hiệu quả kinh doanh, các nhà phân tích còn chú
trọng xem xét thêm các chỉ tiêu sau đây:


11


- Suất sinh lời của vốn cổ phần thường: Phản ánh lợi nhuận mà các cổ
đông thường thu được trên mỗi đơn vị vốn đầu tư của họ. Chỉ tiêu này được
tính như sau: (1.6)
Suất sinh lời của vốn cổ
phần thường

=

Lợi nhuận sau thuế - Cổ tức trả cho cổ phần ưu đãi
Vốn cổ phần thường bình quân

Đối với những người tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp, chỉ tiêu
này được họ quan tâm hàng đầu,. Người ta muốn biết lợi nhuận sẽ có là bao
nhiêu từ sự đầu tư này
Lợi nhuận cho mỗi cổ phiếu thường. Chỉ tiêu này được phản ánh lợi
nhuận mà các cổ đông thường thu được trên mỗi cổ phiếu thường là bao nhiêu
Chỉ tiêu này được tính như sau: (1.7)
Lợi nhuận cho mỗi cổ
phiếu thường

=

Lợi nhuận sau thuế - Cổ tức trả cho cổ phần ưu đãi
Số cổ phiếu thường bình quân

Lợi nhuận cho mỗi cổ phiếu thường là chỉ số đánh giá khả năng nội tại
của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận trên một cổ phần mà cổ đông
góp vốn chứ không từ việc nên hay xuống giá cổ phiếu của doanh nghiệp trên
thị trường chứng khoán. Nhà phân tích nên xem xét chỉ số này trong một giai

đoạn nhất định để đánh giá xu hướng ổn định và khả năng tăng trưởng của nó,
qua đó sẽ thấy được hiệu quả quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Do số lượng cổ phiếu thường phát hành trong các khoảng thời gian
khác nhau nên số cổ phiếu thường bình quân được tính bằng cách lấy bình
quân số cổ phiếu phát hành trong năm theo thời gian. (1.8)
Số cổ phiếu thường bình
quân

Trong đó:

=

∑viti
12

vi: là số lượng cổ phiếu i phát hành
ti : là số tháng lưu hành trong năm của cổ phiếu i.


12

- Hệ số giá cả so với lợi nhuận cổ phiếu: Phản ánh một đơn vị lợi nhuận
mà mỗi cổ phiếu thu được tương ứng với mấy đơn vị giá cổ phiếu trên thị
trường.
Chỉ tiêu này được tính như sau (1.9):
Hệ số giá cả so với lợi
nhuận cổ phiếu

Giá trị trường của mỗi cổ phiếu


=

Lợi nhuận cho mỗi cổ phiếu

Chỉ số Hệ số giá cả so với lợi nhuận cổ phiếu cho thấy giá cổ phiếu
hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần hay nhà đầu tư phải trả
cho một đồng thu nhập là bao nhiêu. Chỉ số này được các nhà đầu tư quan tâm
nhiều vì họ cho đó là tiêu chuẩn để đánh giá giá trị cổ phiếu. Thông thường
doanh nghiệp nào có khả năng tài chính và kinh doanh có hiệu quả cao thì chỉ
số Hệ số giá cả so với lợi nhuận cổ phiếu cao và ngược lại, chỉ số Hệ số giá cả
so với lợi nhuận cổ phiếu thấp nếu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh kém
hiệu quả. Vì vậy, trước khi đầu tư mua cổ phiếu, các nhà đầu tư sẽ xem xét chỉ
số này đồng thời đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
đó có triển vọng hay không để đưa ra quyết định cuối cùng.
- Mức chi trả cổ tức so với lợi nhuận cổ phiếu: Phản ánh tỷ lệ cổ tức chi
trả cho mỗi cổ phiếu thường so với lợi nhuận thu được trên mỗi cố phiếu. Trị
số của chỉ tiêu tính ra càng lớn, chứng tỏ cổ tức chi trả càng cao , số lợi nhuận
giữ lại hoặc phân phối cho các lĩnh vực khác càng thấp và ngược lại (1.10)
Mức chi trả cổ tức so
với lợi nhuận cổ phiếu

Mức cổ tức chi trả cho mỗi cổ phiếu thường

=

Lợi nhuận cho mỗi cổ phiếu

- Mức cổ tức so với giá thị trường cổ phiếu (Dividend Yield): là chỉ tiêu
phản ánh mỗi đồng giá thị trường cổ phiếu đem lại cho chủ sở hữu mấy đồng
cổ tức (1.11)

=

Mức cổ tức chi trả cho mỗi cổ phiếu thường


13

Mức chi trả cổ tức so với

Giá thị trường của mỗi cổ phiếu thường

giá thị trường cổ phiếu

- Hệ số giá thị trường so với giá trị sổ sách: Phản ánh một đơn vị giá trị
sổ sách của chủ sở hữu tương ứng với mấy đơn vị giá thị trường. Trị số của
chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ giá trị đồng vốn của chủ đầu tư trên thị trường
càng cao và ngược lại (1.12)
Hệ số giá thị trường so
với giá trị sổ sách

=

Giá thị trường của mỗi cổ phiếu thường
Giá trị số sách của mỗi cổ phiếu thường

Trong đó, giá trị sổ sách của mỗi cổ phiếu được tính theo công thức (1.13):
Giá trị sổ sách của mỗi
cổ phiếu thường

=


Tổng vốn chủ sở hữu – Số cổ phần ưu đãi
Số lượng cổ phiếu thường lưu hành

1.2.1.2 Nội dung phân tích phục vụ chủ yếu cho nhà cung cấp tín
dụng và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp .
Nhà cung cấp tín dụng và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp luôn
cần những thông tin về tình hình công nợ, khả năng tăng trưởng của doanh
nghiệp, từ đó phán đoán khả năng trả nợ để quyết định có nên cung cấp cho
doanh nghiệp hay không, cung cấp với số lượng bao nhiêu, thời hạn bao lâu.
Do đó, các nội dung phân tích được họ quan tâm nhất chính là khả năng thanh
toán.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp khả quan được thể hiện rõ nét qua
khả năng thanh toán nếu doanh nghiệp có khả năng thanh toán cao, trả được
các khoản nợ khi nó đến thời hạn. Mỗi loại tài sản có khả năng chuyển đổi
thành tiền ở những mức độ khác nhau và mỗi khoản nợ có thời gian thanh
toán khác nhau vì vậy khi đánh giá khả năng toán của doanh nghiệp, người ta
phải tính toán nhiều chỉ tiêu khác nhau.
- Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: Đánh giá khả năng thanh toán
tổng quát của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo.Chỉ tiêu này ≥ 1 thì doanh


14

nghiệp đảm bảo được khả năng thanh toán và ngược lại, trị số này càng nhỏ
hơn 1 thì doanh nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán:
Công thức tính toán như sau (1.14):
Hệ số khả năng thanh
toán tổng quát


=

Tổng số tài sản
Tổng số nợ phải trả

- Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn: Chỉ tiêu này cho biết khả năng giá trị
của tài sản đảm đương các khoản nợ ngắn hạn mà không cần phải vay thêm từ
đó đánh giá khả năng thanh toán tạm thời các nợ ngắn hạn của doanh nghiệp
trong kỳ báo cáo. Công thức xác định như sau (1.15):
Hệ số thanh toán nợ

=

ngắn hạn

Tổng giá trị thuần của TSNH
Tổng số nợ ngắn hạn

Tuy nhiên, để đánh giá hệ số này của một doanh nghiệp là tốt hay xấu
cần phải xem xét thêm các yếu tố: bản chất ngành kinh doanh, cơ cấu tài sản
ngắn hạn, hệ số quay vòng của từng loại tài sản ngắn hạn. Ngoài chỉ tiêu “Hệ
số thanh toán nợ ngắn hạn”, các nhà phân tích còn sử dụng chỉ tiêu “Hệ số
thanh toán nhanh để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp bằng tiền, các khoản tương đương tiền và các khoản đầu tư tài
chính ngắn hạn. Công thức được tính như sau (1.16):
Hệ số khả năng thanh
toán nhanh

=


Tiền, các khoản tương đương tiền và các
khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
Tổng số nợ ngắn hạn

Nếu chỉ tiêu hệ số thanh toán nhanh lớn hơn 0,5 thì tình hình thanh toán
tương đối khả quan, nếu hệ số này nhỏ hơn 0,5 thì doanh nghiệp gặp khó khăn
trong việc thanh toán công nợ. Tuy nhiên, hệ số này quá lớn lại gây ra tình
trạng mất cân đối của tài sản ngắn hạn do tập trung quá nhiều vào vốn bằng
tiền và các chứng khoán ngắn hạn.


15

Để biết được khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản ngắn hạn là
nhanh hay chậm nhằm xác định doanh nghiệp có đủ tiền, thiếu tiền hay thừa
tiền phục vụ cho việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, các nhà phân tích
còn dùng chỉ tiêu “Hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn ”. Chỉ tiêu này được
tính như sau (1.17):
Hệ số thanh toán của tài
sản ngắn hạn

=

Tổng số tiền và tương đương tiền
Tổng giá trị thuần của TSNH

Trên thực tế, hệ số thanh toán của tài sản ngắn hạn lớn hơn 0,5 thì
lượng tiền và tương đương tiền của doanh nghiệp nhiều, đảm bảo thừa khả
năng thanh toán, còn nếu nhỏ hơn 0,1 thì doanh nghiệp không đủ tiền để đáp
ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn. Thừa hay thiếu tiền đều phản ánh một

tình trạng tài chính không bình thường. Nếu thừa sẽ gây ứ đọng vốn, giảm
hiệu quả sử dụng vốn; ngược lại, nếu thiếu sẽ không đảm bảo khả năng thanh
toán nợ ngắn hạn.
Tuy nhiên “Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn”, “Hệ số khả năng
thanh toán nhanh”; “Hệ số khả năng thanh toán của tài sản ngắn hạn ” đều
mang tính thời điểm vì tính toán dựa trên số liệu của Bảng cân đối kế toán nên
trong nhiều trường hợp, các chỉ tiêu này phản ánh không đúng tình hình thực
tế.Vì vậy, các nhà phân tích cần kết hợp với chỉ tiêu “Hệ số khả năng thanh
toán của tiền và các khoản tương ứng tiền”. Hệ số này sẽ khắc phục được
nhược điểm của ba chỉ tiêu trên vì nó được xác định cho cả kỳ kinh doanh và
không phụ thuộc vào yếu tố thời vụ. (1.18)
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
của tiền và các khoản tương đương tiền

=

Số tiền thuần lưu chuyển trong kỳ
Nợ ngắn hạn

Chỉ tiêu này cho biết với dòng tiền thuần tạo ra từ các hoạt động của
mình trong kỳ, doanh nghiệp có đủ khả năng đảm bảo được khả năng thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn hay không. Do tính chất của các hoạt động mà
doanh nghiệp tiến hành trong điều kiện cho phép chỉ tiêu này có thể được xác
định riêng cho từng hoạt động (hoạt động kinh doanh, đầu tư và tài chính).


16

Ngoài ra, để quản lý các khoản vay nợ, một số nhà cho vay còn áp dụng
các hạn mức để khống chế các khoản vay nợ có thể dẫn đến rủi ro không thu

hồi được nợ. Do đó, các đối tượng này đặc biệt quan tâm đến các hệ số thể
hiện tính tự chủ và ổn định trong cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp. Các
hệ số thường được sử dụng là:
- Hệ số tài trợ: Là chỉ tiêu phản ánh khả năng tự bảo đảm và mức độ
độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp. Qua chỉ tiêu này cho biết vốn chủ
sở hữu chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này được tính như sau (1.19):
Vốn chủ sở hữu
Tổng số nguồn vốn
Trị số của chỉ tiêu càng lớn thể hiện khả năng tự đảm bảo về tài chính,
Hệ số tài trợ

=

mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
- Hệ số nợ so với tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ tài trợ tài sản của
doanh nghiệp bằng các khoản nợ. Chỉ tiêu này được xác định như sau (1.20):
Hệ số nợ so với

Nợ phải trả
Tổng số tài sản
tổng tài sản
Trị số của chỉ tiêu này càng cao thể hiện mức độ phụ thuộc của doanh
=

nghiệp và chủ nợ càng lớn. Đứng trên góc độ khả năng thu hồi vốn, những
người cho vay thường thích những doanh nghiệp có tỷ suất này thấp.
- Hệ số nợ so với vốn chủ sở hữu: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đảm
bảo nợ bởi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này được xác định như sau (1.21):

Nợ phải trả
Hệ số nợ so với vốn chủ
=
sở hữu
Vốn chủ sở hữu
Trị số của chỉ tiêu này càng nhỏ, chứng tỏ mức độ đảm bảo của VCSH
đối với các khoản nợ càng lớn, tính tự chủ của doanh nghiệp càng cao. Thông
thường các Ngân hàng thường so sánh chỉ tiêu này với hạn mức mà ngân
hàng quy định đối với doanh nghiệp. Nếu trị số của chỉ tiêu thỏa mãn hạn
mức quy định, lúc đó ngân hàng có thể xem xét đến việc cấp tín dụng cho
doanh nghiệp.


17

- Hệ số tài trợ thường xuyên: Phản ánh nguồn tài trợ thường xuyên
chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp
Công thức tính (1.22).
Nguồn tài trợ thường xuyên
Hệ số tài trợ thường
=
xuyên
Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này càng lớn thể hiện tính cân bằng và ổn định tài chính của
doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
- Hệ số tài trợ tạm thời: Chỉ tiêu này cho biết nguồn tài trợ tạm thời chiếm tỷ
trọng bao nhiêu trong tổng nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này
được tính như sau (1.23):
Nguồn tài trợ tạm thời
Tổng nguồn vốn

Chỉ tiêu này càng nhỏ thể hiện tính cân bằng và ổn định tài chính của
Hệ số tài trợ tạm thời

=

doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
- Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên: Chỉ tiêu này
cho biết, vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số nguồn tài trợ
thường xuyên. Chỉ tiêu này được tính như sau (1.24):
Hệ số vốn chủ sở hữu so với

Vốn chủ sở hữu
Nguồn tài trợ thường xuyên
nguồn tài trợ thường xuyên
Chỉ tiêu này càng lớn, thể hiện tính tự chủ và độc lập về tài chính của
=

doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
- Hệ số giữa nguồn tài trợ thường xuyên so với tài sản dài hạn: Chỉ tiêu
này cho biết, mức độ tài trợ tài sản dài hạn bằng nguồn tài trợ thường xuyên. Chỉ
tiêu này càng lớn, thể hiện tính ổn định và bền vững về tài chính của doanh
nghiệp càng cao và ngược lại. Chỉ tiêu này được tính như sau (1.25):
Hệ số nguồn tài trợ thường xuyên

Nguồn tài trợ thường xuyên
Tài sản dài hạn
so với tài sản dài hạn
- Hệ số giữa tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn: Chỉ tiêu này cho biết
=


mức độ tài trợ tài sản ngắn hạn bằng nợ ngắn hạn là cao hay thấp. Chỉ tiêu
này được tính như sau (1.26):
Hệ số tài sản ngắn hạn so với nợ
ngắn hạn

=

Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn


18

Chỉ tiêu này càng lớn hơn 1, thể hiện tính ổn định, bền vững về tài
chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Trên đây là các nội dung phân tích chính mà nhà đầu tư và nhà cho vay
thường tiến hành. Tất nhiên, nhà đầu tư có thể quan tâm đến các chỉ tiêu mà
người cho vay sử dụng và ngược lại, nhà cho vay hoàn toàn có thể phân tích
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như các nhà đầu tư. Ngoài ra, các đối
tượng này có thể quan tâm đến các chỉ tiêu phân tích về cơ cấu tài sản, cơ cấu
nguồn vốn, về cân bằng tài chính hay về khả năng đảm bảo vốn cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp… như những nhà phân tích bên trong doanh nghiệp.
1.2.2. Nội dung phân tích báo cáo tài chính đối với những đối tượng
bên trong doanh nghiệp.
Nhà quản trị trong doanh nghiệp cần thông tin để đưa ra các quyết định
cho quá trình điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp
nhưng chọn phương án nào để đạt hiệu quả cao nhất thì thông qua phân tích
báo cáo tài chính nhà quản trị sẽ kiểm soát chi phí đưa ra phương án cải thiện
khả năng sinh lời.
Đối với những nhà quản trị trong doanh nghiệp, tài liệu dùng để phân

tích báo cáo tài chính đa dạng, phong phú hơn những đối tượng bên ngoài.
Bên cạnh việc sử dụng các thông tin trình bày trên báo cáo tài chính, họ còn
tiếp cận với các thông tin trên các báo cáo chi tiết cũng như các thông tin phi
tài chính trong đơn vị. Nội dung phân tích tích báo cáo tài chính mà nhà phân
tích tài chính trong các doanh nghiệp tiến hành rất đa dạng. Tùy thuộc vào các
cấp lãnh đạo (các trung tâm trách nhiệm) mà giữa các nhà quản trị có nhu cầu
khác nhau về phân tích báo cáo tài chính. Trung tâm đầu tư quan tâm đến suất
sinh lời trên vốn đầu tư, trung tâm chú ý đến số vòng quay của tài sản hay lãi
xuất sinh lời của doanh thu, trung tâm chi phí lại thường quan tâm đến tỷ lệ
lãi gộp… Ngoài ra, các nhà quản trị trong doanh nghiệp cũng tự nhìn về
doanh nghiệp mình như những gì mà các đối tượng bên ngoài nhìn nhận và
đánh giá. Do đó, ngoài các chỉ tiêu phân tích giống như những nhà phân tích
bên ngoài, các đối tượng bên trong doanh nghiệp còn sử dụng các chỉ tiêu sau:
1.2.2.1 Phân tích cấu trúc tài chính


19

Phân tích cấu trúc tài chính là việc phân tích khái quát tình hình huy
động, sử dụng vốn của doanh nghiệp. Cấu trúc tài chính là một khái niệm rộng,
phản ánh cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn và cả mối quan hệ giữa tài sản và
nguồn vốn của doanh nghiệp. Để phân tích khái quát tình hình huy động vốn và
sử dụng vốn, nhà phân tích tiến hành phân tích cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn.
Phân tích cơ cấu tài sản, ngoài việc so sánh tổng số tài sản cũng như
từng loại tài sản chiếm trong tổng số và xu hướng biến động của chúng để
thấy được mức độ hợp lý của việc phân bổ.
Tỷ trọng này được tính như sau (1.27):
Tỷ trọng của từng bộ phận tài

Giá trị của từng bộ phận tài sản

x 100
Tổng số tài sản
sản chiếm trong tổng số tài sản
Việc đánh giá mức độ hợp lý trong việc phân bổ tài sản phải căn cứ trên
=

tính chất của lĩnh vực, ngành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh, tính thời
vụ hoặc chính sách đầu tư của doanh nghiệp.
Tỷ trọng của tài sản cố định trong tổng số tài sản đối với từng ngành
nghề là khác nhau. Để đánh giá tính hợp lý trong đầu tư tài sản cố định cần
xem xét đến số liệu trung bình ngành. Ngoài ra, tỷ trọng tài sản cố định còn
phụ thuộc vào chính sách đầu tư, phương pháp khấu hao doanh nghiệp áp
dụng.
Tỷ trọng của hàng tồn kho cũng tùy thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh
doanh của từng loại hình doanh nghiệp. Nếu xây lắp, đóng tàu, thương mại
thường tỷ trọng hàng tồn kho cao. Còn kinh doanh dịch vụ thì tỷ trọng hàng
tồn kho thấp. Tỷ trọng loại tài sản này còn phụ thuộc vào chính sách dự trữ và
tính thời vụ trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra khi phân
tích tỷ trọng hàng tồn kho cần xem xét trong mối tương quan với tăng trưởng
doanh nghiệp.
Tỷ trọng của khoản phải thu khách hàng, phụ thuộc vào phương thức
bán hàng, chính sách tín dụng bán hàng, khả năng quản lý nợ của doanh
nghiệp. Với doanh nghiệp bán lẻ, bán hàng thu tiền ngay thì tỷ trọng khoản
phải thu thấp và ngược lại, đối với doanh nghiệp bán buôn thì tỷ trọng này
lớn. Nếu thời hạn tín dụng dài, số dư nợ định mức cho khách hàng cao thì tỷ


20

trọng khoản phải thu lớn và ngược lại. Tuy nhiên, tín dụng bán hàng lại ảnh

hưởng đến doanh số bán nên khi đánh giá hợp lý của chỉ tiêu này cần đặt trong
mối quan hệ với doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp.
Ngoài ra, nhà phân tích còn phân tích sự biến động về tỷ trọng của từng
bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản của doanh nghiệp qua nhiều năm
khác nhau, đồng thời so sánh với cơ cấu chung của ngành để việc đáng giá
được toàn diện hơn.
Phân tích cơ cấu nguồn vốn, được thực hiện nhằm đánh giá tình hình
huy động vốn. Việc phân tích cơ cấu nguồn vốn cũng tiến hành tương tự với
việc phân tích cơ cấu tài sản. Ngoài việc so sánh sự biến động trên tổng số
nguồn vốn cũng như từng nguồn vốn cuối kỳ so với đầu năm, các nhà phân
tích còn xem xét tỷ trọng từng loại nguồn vốn chiếm trong tổng số và xu
hướng biến động của chúng nhằm đánh giá được khả năng tự chủ về tài chính
của doanh nghiệp cũng như mức độ tự chủ, chủ động trong kinh doanh hay
những khó khăn mà doanh nghiệp phải đương đầu.
Tỷ trọng của từng loại nguồn vốn trong tổng nguồn vốn được xác định
qua công thức (1.28):
Tỷ trọng của từng bộ phận NV
chiếm trong tổng số NV

Giá trị của từng bộ phận NV
=

Tổng số NV

x 100

Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao trong tổng số nguồn vốn
thì doanh nghiệp có đủ khả năng đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập
của doanh nghiệp đối với các chủ nợ là cao và ngược lại.
Ngoài ra, khi phân tích tự chủ về tài chính cần sử dụng số liệu trung

bình ngành, số liệu của các doanh nghiệp khác tương đương hoặc số liệu định
mức mà ngân hàng quy định đối với doanh nghiệp. Đồng thời để đánh giá
chính xác hợp lý về mức độ an toàn tài chính, các nhà phân tích cần liên hệ
với chính sách huy động vốn và chính sách đầu tư trong từng thời kỳ của
doanh nghiệp. Ở các doanh nghiệp có trị số chỉ tiêu “Hệ số tài trợ” thấp, “Hệ
số nợ so với tổng nguồn vốn” cao sẽ gặp nhiều khó khăn khi huy động vốn từ
các nhà đầu tư, các ngân hàng…Do đó, doanh nghiệp cần phải có các giải


21

pháp thích hợp để duy trì tỷ trọng nợ phải trả và vốn chủ sở hữu một cách
thích hợp nhất.
1.2.2.2.Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh.
Để đảm bảo cung cấp đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh doanh
nghiệp phải có những biện pháp tài chính để huy động và hình thành nguồn
vốn. Nguồn vốn của doanh nghiệp được hình thành từ vốn chủ sở hữu, vốn
vay và vốn chiếm dụng trong quá trình thanh toán. Thực chất của quá trình
phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh là việc phân tích
cân bằng tài chính nghĩa là xem xét mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn
hình thành thành tài sản của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp có : Vốn chủ sở hữu = Tài sản dài hạn + Tài sản ngắn hạn
thì doanh nghiệp không cần đi vay hoặc chiếm dụng vốn mà vẫn đảm bảo
được các tài sản cho hoạt động của mình nhưng thực tế ít xảy ra, thường
doanh nghiệp bị thiếu vốn phải vay bên ngoài hoặc doanh nghiệp thừa vốn bị
chiếm dụng.
Cấu trúc nguồn vốn không chỉ thể hiện tính tự chủ mà còn thể hiện tính ổn
định trong tài trợ. Dưới góc độ ổn định trong tài trợ, toàn bộ nguồn vốn của doanh
nghiệp được chia thành nguồn vốn tài trợ thường xuyên và nguồn tài trợ tạm thời.
Nguồn tài trợ thường xuyên là nguồn tài trợ mà doanh nghiệp được sử dụng lâu dài

thường xuyên vào hoạt động kinh doanh, nguồn tài trợ thường xuyên trong doanh
nghiệp bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu; các khoản vay; nợ dài hạn; nợ trung hạn.
Nguồn tài trợ tạm thời là nguồn tài trợ mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động sản
xuất kinh doanh trong thời gian ngắn, nguồn tài trợ tạm thời trong doanh nghiệp gồm
các khoản vay, nợ ngắn hạn, các khoản vay, nợ quá hạn, các khoản chiếm dụng bất
hợp pháp của các cá nhân, tổ chức khác…cân bằng tài chính được thể hiện qua đẳng
thức sau (1.29):
Tài sản ngắn
hạn

+

Tài sản dài
hạn

= Nguồn vốn tài trợ
thường xuyên

+

Nguồn vốn tài
trợ tạm thời

Cân bằng tài chính có thể được khái quát dưới sơ đồ sau
Tài
sản

- Phải thu dài hạn
- Tài sản cố định


Nguồn vốn chủ
sở hữu

Nguồn
tài trợ


22

dài
hạn

- Bất động sản đầu tư
- Đầu tư tài chính dài hạn
Tổng
- Tài sản dài hạn khác
Tài - Tiền và tương đương tiền
số
sản - Đầu tư tài chính ngắn
tài
ngắn hạn
sản
hạn - Phải thu ngắn hạn
- Hàng tồn kho
- Tài sản ngắn hạn khác

- Vay dài hạn
- Nợ dài hạn
- Vay trung hạn
- Nợ trung hạn

- Vay ngắn hạn
- Nợ ngắn hạn
- Chiếm dụng
bất hợp pháp

thường
xuyên

Nguồn
tài trợ
tạm
thời

Tổng
số
nguồn
tài trợ

Sơ đồ: 1.2. Nguồn tài trợ tài sản.
Khi ổn định về nguồn tài trợ tài sản khi phân tích cân bằng tài chính
của doanh nghiệp sẽ cung cấp cho nhà quản lý biết được sự an toàn, tính bền
vững, cân đối trong tài trợ và sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng như nhân tố
có thể gây ảnh hưởng đến cân bằng tài chính do đó cần so sánh tổng nhu cầu
về tài sản với nguồn tài trợ thường xuyên. Nếu các nguồn tài trợ thường
xuyên trang trải đủ hoặc thừa tổng nhu cầu về tài sản thì doanh nghiệp cần sử
dụng một cách hợp lý số dôi này để tránh bị chiếm dụng vốn. Ngược lại, khi
nguồn tài trợ thường xuyên không đáp ứng đủ nhu cầu về tài sản thì doanh
nghiệp cần phải có biện pháp huy động và sử dụng cho phù hợp. Tuy nhiên
đối với từng nguồn tài trợ, cần phải phân tích thêm sự biến động về tổng số
cũng như cùng loại giữa cuối kỳ so với đầu năm và dựa vào sự biến động của

bản thân từng nguồn tài trợ để rút ra nhận xét.
Biến đổi được công thức sau như sau (1.30):
Tài sản ngắn
hạn

-

Nguồn tài
=
trợ tạm thời

Nguồn tài trợ
thường xuyên

+

Tài sản
dài hạn

Vậy nguồn tài trợ tạm thời cũng chính là số nợ ngắn hạn phải trả. Do
vậy, vế trái của đẳng thức trên (TSNH – Nguồn tài trợ tạm thời) cũng chính là
chỉ tiêu “vốn hoạt động thuần”. Vốn hoạt động thuần là chỉ tiêu phản ánh số
vốn của doanh nghiệp được sử dụng để duy trì những hoạt động bình thường,
diễn ra thường xuyên tại doanh nghiệp.Với số vốn hoạt động thuần này doanh


23

nghiệp có khả năng bảo đảm chi trả cho các hoạt động diễn ra mà không cần
phải vay mượn hay chiếm dụng bất cứ một khoản nào khác.

Vốn hoạt động thuần: Cho biết vốn hoạt động thuần được tài trợ chủ
yếu cho TSNH là những TS có tính thanh khoản cao công thức tính như sau:
Vốn hoạt động thuần = Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn
Vốn hoạt động thuần: Thể hiện quan hệ tài trợ giữa nguồn tài trợ thường
xuyên với TSDH. Công thức tính như sau
Vốn hoạt động thuần = Nguồn tài trợ thường xuyên – Tài sản dài hạn
Vốn hoạt động thuần có thể nhỏ hơn; lớn hơn hoặc bằng 0. Trong mỗi trường
hợp sẽ có một ý nghĩa khác nhau.
- Trường hợp vốn hoạt động thuần <0: Thì nguồn tài trợ thường xuyên
không đủ tài trợ cho TSDH nên phần thiếu hụt doanh nghiệp phải bù đắp bằng
nợ ngắn hạn. Cân bằng tài chính trong trường hợp này là không tốt vì doanh
nghiệp luôn rơi vào tình trạng chịu áp lực nặng nề về thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn, cán cân thanh toán luôn mất cân bằng. Khi vốn hoạt động thuần
càng nhỏ hơn 0, DN càng gặp khó khăn trong thanh toán ngắn hạn và có nguy
cơ phá sản.
- Trường hợp vốn hoạt động thuần = 0. Thì nguồn tài trợ thường xuyên
của doanh nghiệp vừa đủ để trang trải cho TSDH nên không cần huy động
thêm ở nợ ngắn hạn để bù đắp. Lúc này, cân bằng tài chính xảy ra, tuy nhiên
tính ổn định chưa cao, vẫn tồn tại nguy cơ rơi vào tình trạng mất cân bằng.
- Trường hợp vốn hoạt động thuần >0: Thì nguồn tài trợ thường xuyên
của doanh nghiệp không những được sử dụng để trang trải cho TSDH mà còn
trang trải một phần cho TSNH. Lúc này, cân bằng tài chính được coi là “cân
bằng tốt”, an toàn và bền vững. Một doanh nghiệp muốn hoạt động thuần hợp
lý để thỏa mãn việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và dự trữ hàng tồn kho.
Vốn hoạt động thuần của doanh nghiệp càng lớn, khả năng thanh toán của Dn


24

càng cao. Ngược lại, khi vốn hoạt động thuần giảm sút, doanh nghiệp mất dần

khả năng thanh toán.
Tuy nhiên để đánh giá tính ổn định và bền vững của cân bằng tài chính
trong tương lai, các nhà phân tích phải xem xét sự biến động của vốn hoạt
động thuần trong nhiều năm liên tục để loại trừ những sai lệch về mặt số liệu
do tính thời vụ hay tính chu kỳ trong kinh doanh
Ngoài ra, để có nhận xét chính xác và toàn diện về tình hình bảo đảm
vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp , khi phân tích các nhà phân
tích còn sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Hệ số tài trợ thường xuyên: Cho biết nguồn tài trợ thường xuyên
chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này càng lớn thể hiện tính cân bằng và ổn định tài chính của doanh
nghiệp càng cao và ngược lại.
- Hệ số tài trợ tạm thời: Phản ánh nguồn tài trợ tạm thời chiếm tỷ trọng
bao nhiêu trong tổng nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu càng
nhỏ thì tính cân bằng và ổn định tài chính của doanh nghiệp càng cao và
ngược lại.
- Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thường xuyên: Phản ánh
vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số nguồn tài trợ thường
xuyên. Chỉ tiêu càng lớn thì tính tự chủ và độc lập về tài chính của doanh
nghiệp càng cao và ngược lại.
- Hệ số giữa nguồn tài trợ thường xuyên so với tài sản dài hạn: Cho
biết, mức độ tài trợ TSDH bằng nguồn tài trợ thường xuyên. Chỉ tiêu càng
lớn, thể hiện tính ổn định và bền vững về tài chính của doanh nghiệp càng cao
và ngược lại.


25

- Hệ số giữa tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn: Cho biết, mức độ tài
trợ TSNH bằng nợ ngắn hạn là cao hay thấp. Chỉ tiêu càng lớn hơn 1, thể hiện

tính ổn định, bền vững về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
1.2.2.3.Phân tích tình hình và khả năng thanh toán
Tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ nét
chất lượng hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
a. Phân tích tình hình thanh toán
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phát
sinh việc thu, chi và thanh toán. Nếu doanh nghiệp có hoạt động tài chính tốt,
lành mạnh khả năng thanh toán sẽ cao, doanh nghiệp sẽ ít công nợ, ít bị chiếm
dụng vốn . Ngược lại nếu hoạt động tài chính kém thì sẽ dẫn đến tình trạng
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, chiếm dụng vốn lẫn nhau, các khoản
công nợ phải thu phải trả sẽ dây dưa, kéo dài. Do vậy “việc phân tích tình
hình thanh toán của doanh nghiệp , tìm ra nguyên nhân của mọi sự ngưng trệ,
tồn đọng các khoản công nợ, nhằm tiến tới làm chủ về tài chính có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp”
Tình hình thanh toán của doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu phản
ánh nợ phải thu và nợ phải trả. Về mặt tổng thể, khi phân tích tình hình thanh
toán, nhà phân tích so sánh, nhận xét dựa vào sự biến động của các chỉ tiêu
sau:
- Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với nợ phải trả (%): Phản ánh các
khoản doanh nghiệp bị chiếm dụng bằng bao nhiêu phần trăm các khoản
doanh nghiệp chiếm dụng của các tổ chức, cá nhân khác. Chỉ tiêu này được
tính như sau (1.31):
Tổng số nợ phải thu
Tỷ lệ các khoản nợ phải thu so
=
x 100%
với các khoản nợ phải trả
Tổng số nợ phải trả
Nếu tỷ lệ các khoản nợ phải thu so với các khoản nợ phải trả lớn hơn
100%, chứng tỏ số vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng lớn hơn số vốn



×