Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LV Thạc sỹ_tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.75 KB, 106 trang )

MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT LUẬN VĂN


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

FDI:

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

ODA:

Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức

OECD:

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

NHNN:

Ngân hàng nhà nước

NHTM:

Ngân hàng thương mại


DNNN:

Doanh nghiệp nhà nước

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

SEV:

Hội đồng tương trợ kinh tế

OPEC:

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa

WTO:

Tổ chức thương mại thế giới

GDP:

Tổng sản phẩm trong nước

NSNN:

Ngân sách nhà nước

ASEAN:


Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á


DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Hình 2.1 : Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1986 – 1988
Hình 2.2 : Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1992 – 1998
Hình 2.3 : Tỷ lệ lạm phát các tháng trong năm 1996
Hình 2.4 : Chỉ số giá tiêu dùng các tháng trong năm 1997
Hình 2.5 : Tỷ lệ lạm phát các tháng trong năm 1998
Hình 2.6 : Tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh kế Việt Nam giai
đoạn 1997 – 2003
Hình 2.7 : Chỉ số giá tiêu dùng các tháng trong năm 2004
Hình 2.8 : Chỉ số giá tiêu dùng các tháng trong năm 2008


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1 : Chỉ số giá hàng hóa giai đoạn 1976 – 1980
Bảng 2.2 : Chỉ số giá hàng hóa giai đoạn 1981 – 1985
Bảng 2.3 : Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1986 – 1988
Bảng 2.4 : Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1989 – 1998
Bảng 2.5 : Chỉ số hàng hóa và dịch vụ giai đoạn 1992 – 1996
Bảng 2.6 : Lãi suất danh nghĩa, lãi suất thực tế giai đoạn 1992 – 1996
Bảng 2.7 : Chỉ số giá tiêu dùng các tháng trong năm giai đoạn 1999 –
2003
Bảng 2.8 : Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2004 – 2007
Bảng 3.1 : Kết quả hồi quy với mức π tối ưu
Bảng 3.2 : Kết quả kiểm định tự tương quan
Bảng 3.3 : Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi

Bảng 3.4 : Kết quả kiểm định dạng hàm đúng


i

LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản và hết sức quan trọng mà
mọi quốc gia đều phải quan tâm trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Lạm
phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp, xuất hiện khi nền kinh tế phát triển
mất cân đối và thường gây ra hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, ngoài những
hậu quả gây ra thì lạm phát ở những mức nhất định lại cần thiết đối với các
nước. Có nhiều tranh luận xung quanh mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế. Muốn tăng trưởng cao hơn thì phải tăng đầu tư, tăng chi ngân
sách, đẩy mạnh xuất khẩu… điều này dẫn đến lạm phát gia tăng. Bên cạnh đó
nếu muốn kiềm chế lạm phát, thì phải thắt chặt tài khóa và tiền tệ và hệ quả là
tăng trưởng kinh tế sẽ không cao.
Ở Việt Nam sau một thời gian dài việc kiềm chế lạm phát được coi là
một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách của chính phủ, chúng ta
đã thành công trong việc đề ra những chính sách để kiềm chế lạm phát, thúc
đẩy tăng trưởng lên cao. Tuy nhiên, trong giai đoạn tiếp theo 1999- 2003 nền
kinh tế nước ta nằm trong tình trạng lạm phát thấp nhưng tốc độ tăng trưởng
cũng thấp. Đặc biệt trong thời gian gần đây hiện tượng lạm phát tái phát, gây
tác động mạnh đến tổng thể nền kinh tế. Có nhiều quan điểm khác nhau đối
với Việt Nam mức lạm phát nào là tối ưu cho tăng trưởng kinh tế, chấp nhận
mức lạm phát cao để thúc đẩy tăng trưởng hay phải hy sinh tốc độ tăng trưởng
để giữ lạm phát ở mức thấp? Đây đang là bài toán khó, gây nhiều tranh luận.
Để đưa ra được quyết định tối ưu nhất, chúng ta cần hiểu rõ được mối quan
hệ, tác động qua lại giữa lạm phát và tăng trưởng.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng trưởng: Theo Mundell và Tobin (1965) có mối tương quan tỉ lệ

thuận giữa lạm phát và tăng trưởng; hai trường phái Keynes và trường phái


ii

tiền tệ đều cho rằng trong ngắn hạn, chính sách nới lỏng tiền tệ kích thích tăng
trưởng, đồng thời làm gia tăng lạm phát. Sau này, cùng với sự phát triển của
kỹ thuật kinh tế lượng thì các mô hình nghiên cứu về mối quan hệ này được
ước lượng ngày càng phản ánh đúng đắn hơn thực tiễn và các hệ số ước lượng
có nhiều ý nghĩa kinh tế hơn. Những nghiên cứu ban đầu vào thập niên 1960
đã không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê nào. Cho tới thập niên
1970, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tác động của lạm phát đến tăng trưởng
mang tính tích cực: Thirwall and Barton (1971). Sự thay đổi quan điểm đến
sau khi nhiều quốc gia trải qua gia đoạn lạm phát cao liên tục trong thập niên
1970 và 1980, các nghiên cứu khẳng định rằng lạm phát có tác động tiêu cực
đến tăng trưởng: Kormendi and Meguire (1985); Tullock (1989); Fischer
(1993); Bruno và Easterly (1995). Gần đây nhất, những nghiên cứu của Sarel
(1996), Ghosh and Phillips (1998), Khan and Senhadji (2000) đưa ra mối
quan hệ hình chữ U giữa lạm phát và tăng trưởng.
Tại Việt Nam hiện nay đã có khá nhiều bài nghiên cứu khác nhau về
lạm phát, tăng trưởng nói riêng. Tuy nhiên mảng nghiên cứu thực nghiệm về
sự tác động qua lại của lạm phát và tăng trưởng còn rất ít, chưa đi sâu vào
phân tích cụ thể. Đặc biệt việc sử dụng phân tích định lượng, chưa cập nhập
những số liệu mới nhất, số quan sát chưa đủ lớn…Hơn nữa các phân tích gần
đây chưa chỉ ra được mối quan hệ hình chữ U giữa lạm phát và tăng trưởng,
đồng thời chưa tìm ra ngưỡng lạm phát tối ưu cho nền kinh tế Việt Nam.
Với những lý do và thực tiễn như vậy, tôi đã chọn đề tài: “Tác động
của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”.
Phạm vi nghiên cứu:
Do mối quan hệ giữa lạm phát và tăng Strưởng là khá rộng, do đó luận

văn chủ yếu phân tích tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam.


iii

Mục đích nghiên cứu:
Kết hợp phân tích định lượng và định tính, luận văn tập trung chủ yếu
giải quyết những vấn đề sau:
- Đánh giá thực trạng quá trình lạm phát của Việt Nam qua các thời kỳ
- Tác động tích cực cũng như tiêu cực của lạm phát đến tăng trưởng kinh
tế
- Đưa ra ngưỡng lạm phát cho Việt Nam
- Một số giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế
Phương pháp luận:
Luận văn sử dụng các phương pháp:
- Phân tích tổng hợp, logic và lịch sử
- Phương pháp thống kê
- Một số mô hình kinh tế lượng
Nguồn số liệu:
Dựa trên hệ thống số liệu thống kê về lạm phát và tăng trưởng của Việt
Nam giai đoạn 1956 – 2008 của Tổng cục Thống kê, Bộ Tài Chính, Bộ Kế
hoạch – đầu tư và các nguồn khác.
Bố cục luận văn;
Luận văn bao gồm 4 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tác động của lạm phát đến tăng trưởng
kinh tế
Chương 2: Thực trạng về lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Chương 3: Vận dụng mô hình kinh tế lượng xác định mức lạm phát

tối ưu cho nền kinh tế Việt Nam
Chương 4: Những giải pháp kiềm chế lạm pháp ở mức độ hợp lý và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế


iv

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1.

Lý luận chung về lạm phát
1.1.1. Khái niệm và đo lường
Khái niệm lạm phát
Đo lường lạm phát có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Tuy
nhiên, thông thường người ta thường dựa vào chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và
chỉ số giảm phát DGDP.
1.1.2 Quan điểm khác nhau về lạm phát:
1.1.2.1 Lý thuyết của trường phái trọng tiền:
Họ cho rằng tốc độ tăng của tiền tệ đã vượt quá tốc độ tăng trưởng của sản
xuất dẫn đến tiền thừa so với hàng hóa sản xuất ra dẫn đến mức giá chung
tăng, sức mua của đồng tiền bị giảm sút, người dân không còn muốn giữ tiền,
họ chuyển sang mua hàng hóa để tích trữ hay mua ngoại tệ. Kết quả là hệ
thống ngân hàng đã thiếu tiền càng thiếu hơn nên phải phát hành thêm tiền để chi
tiêu hoặc đưa vàng cất giữ ra thị trường mong bảo tồn giá trị đồng tiền họ có
1.1.2.2

Lý thuyết cơ cấu về lạm phát


Các nhà kinh tế theo trường phái cơ cấu giải thích nguyên nhân của lạm
phát là do cơ cấu kinh tế hình thành chứa đựng nhiều mất cân đối, bất hợp lý,
thoát ly cơ cấu tự nhiên của sự phát triển nhu cầu, mâu thuẫn về phân phối
gây ra tăng giá. Theo trường phái này, lạm phát là tất yếu của nền kinh tế khi
muốn tăng trưởng cao. Lạm phát do mất cân đối kinh tế xuất hiện khi có sự
phát triển lệch trong các cân đối lớn của nền kinh tế như công nghiệp – nông
nghiệp, sản xuất – dịch vụ, xuất khẩu – nhập khẩu, tích lũy – tiêu dùng, công
nghiệp nặng – công nghiệp nhẹ …


v

1.1.2.2

Lạm phát do cầu:

Sự gia tăng liên tục trong cầu kéo mức giá cả lên cao một cách liên tục,
quá trình lạm phát này đôi khi được gọi là lạm phát do cầu kéo lên thể hiện
vai trò của tổng cầu đang tăng lên là yếu tố “ kéo” mức giá cả tăng lên.
Lạm phát cầu do tốc độ phát triển kinh tế quá nóng, quy mô đầu tư lớn
nhưng hiệu quả không cao, vượt quá khả năng đáp ứng của nền kinh tế. Do
phát triển quá nhanh dẫn đến nhu cầu quá lớn trong khi khả năng cung ứng
còn thấp. Sự mất cân đối giữa cung và cầu như vậy làm giá cả gia tăng liên
tục với tỷ lệ cao.
1.1.2.2

Lạm phát chi phí đẩy:

Lý luận về lạm phát sinh ra do chi phí nảy sinh từ giữa những năm 1950,và
đã mở ra nhiều cuộc tranh cãi dữ dội. Lạm phát có thể xảy ra khi một số loại

chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Bản thân trong lạm phát
chi phí là sự cộng hưởng của giá quốc tế, tiền lương trong nước và tỷ giá hối
đoái suy thoái theo chiều hướng mất giá đồng nội tệ.
1.2

Lý luận chung về tăng trưởng:
1.2.1 Khái niệm về tăng trưởng kinh tế:

Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Nhìn chung tăng trưởng kinh tế được tính bằng phần trăm thay đổi của
mức sản lượng quốc dân. Tuy nhiên cách tính trên có hạn chế khi dân số tăng
rất nhanh trong khi GDP thực tế tăng chậm vì vậy còn sử dụng cách tính theo
sản lượng bình quân đầu người.
1.2.1 Các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng được quyết định bởi sự gia tăng các yếu tố đầu vào và công
nghệ. Đối với các nước kém phát triển, hai nguồn lực chủ yếu và quan trọng
nhất là lao động và vốn. Trong mô hình tăng trưởng kinh tế, ba nhân tố chung
là lao động, đầu tư và kỹ thuật công nghệ.


vi

1.2 Lạm phát và tăng trưởng
1.3.1 Lý thuyết về quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng:
Các nhà kinh tế theo trường phái cơ cấu tin rằng giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế có mối quan hệ tỷ lệ thuận, có tăng trưởng tất yếu sẽ có lạm
phát. Một xã hội dành ưu tiên cho tăng trưởng thì cần chấp nhận lạm phát đi
kèm với nó.
Một số nhà cơ cấu nhận thấy rằng chính phủ có thể chủ động sử dụng lạm
phát như một biện pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bởi vì lạm phát có tác

dụng phân phối lại thu nhập và của cải theo hướng làm tăng tổng tiết kiệm và
đầu tư trong nước.
Tuy nhiên quan điểm có thể sử dụng lạm phát làm đòn bẩy cho tăng
trưởng kinh tế của các nhà kinh tế thuộc trường phái cơ cấu không tránh khỏi
những phản đối. Nhiều nhà kinh tế đã đưa ra những lập luận của mình cho
rằng lạm phát, đặc biệt với lạm phát cao có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế. Họ cho rằng lạm phát làm mức lãi suất thực tế giảm, tạo ra
mất cân bằng ở thị trường vốn. Điều này dẫn đến nguồn cung về vốn bị giảm
sút vì vậy đầu tư tư nhân sẽ giảm do hạn chế từ nguồn vay. Việc giảm lãi suất
thực dương khiến đầu tư và tăng trưởng kinh tế giảm.
1.3.2 Các nghiên cứu kiểm nghiệm về mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng:
Nhiều mô hình kinh tế đã được xây dựng để khảo sát phải chăng có tồn
tại mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng dài hạn và mối quan hệ đó có
dạng tuyến tính hay phi tuyến.


vii

Chương 2
THỰC TRẠNG VỀ LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VIỆT NAM
2.1 Lạm phát và tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ trước năm 1988
2.1.1 Lạm phát và tăng trưởng trong giai đoạn từ 1980 trở về trước
Trước năm 1975 nền kinh tế Việt Nam nằm trong tình trạng chiến tranh
và bị cách biệt với bên ngoài. Do đặc thù của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn
này nên lạm phát một con số ở mức độ nhẹ, có xu hướng lớn dần lên do sự
chiếm lĩnh thị trường của thương nghiệp quốc doanh và tập thể ngày càng
mạnh và hoạt động theo giá Nhà nước chủ đạo, giá cả không phản ánh quan
hệ cung cầu, thoát ly ngày càng xa sức mua thực tế của đồng tiền.

Sau ngày giải phóng miền Nam, tuy đất nước thống nhất nhưng mỗi miền
vẫn lưu hành một đồng tiền riêng. Trước đổi mới năm 1979, nền kinh tế nước
ta thống nhất từ hai mô hình kinh tế vào một mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp với sự kiểm soát và can thiệp tập trung của Chính phủ
lên tất cả lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế. Do sự sát nhập của hai nền kinh
tế khác nhau dẫn đến tình hình, mặc dù là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
nhưng vẫn tồn tại nền kinh tế phát triển ngầm.
Tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu kinh tế thấp cùng với cơ cấu kinh tế
mất cân đối trong phát triển công nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng là nguyên
nhân lạm phát chủ yếu của thời kỳ này. Đất nước rơi vào một cuộc khủng
hoảng kinh tế xã hội trầm trọng.
2.1.2 Lạm phát và tăng trưởng giai đoạn 1981 - 1985
Trong bối cảnh thực hiện kế hoạch 5 năm (1976 – 1980) không thành
công , nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, chiến tranh biên giới càng làm
trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng. Thêm vào đó những thay đổi trong quan
hệ kinh tế đối ngoại chủ yếu còn đóng khung trong quan hệ với các nước


viii

XHCN, hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) dẫn đến những khó khăn. Trong
hoàn cảnh như vậy đã làm bộc lộ rõ hơn những nhược điểm và khiếm khuyết
của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bất chấp các quy luật khách quan cùng
với những hệ quả tiêu cực. Đó là những lý do dẫn đến việc Nhà nước thực
hiện một loạt những cải cách mới.
Những chính sách, giải pháp được đưa ra đã giúp phần nào cải thiện
tình hình sản xuất và thay đổi cơ cấu kinh tế nhưng do quá trình bao cấp tồn
tại quá dài trong tất cả các lĩnh vực, lạm phát tăng nhanh dẫn đến hậu quả nhà
nước không làm chủ được nguồn hàng, không làm chủ được lưu thông tiền tệ,
không quản lý được thị trường.

Có thể nói lạm phát và tăng trưởng thời kỳ này không có mối quan hệ
gắn bó nào bởi: các quy luật cung – cầu; quy luật cạnh tranh vốn là động lực
của nền kinh tế thị trường đã không được thừa nhận, bị bài xích, không có
chỗ đứng trong nền kinh tế; có chăng chỉ là phát huy tác dụng được rất ít vai
trò của mình ở thị trường tự do. Đặc biệt trong thời gian này hệ thống thống kê
của chúng ta còn thô sơ, vẫn sử dụng cách tính MPS của hệ thống XHCN cũ.
2.1.3 Cuộc cải cách kinh tế và giai đoạn siêu lạm phát 1986 – 1988
Trong điều kiện tình hình thế giới, sự cải tổ của Liên Xô và các nước
XHCN ở Đông Âu sụp đổ, nguồn việc trợ của Trung Quốc, Liên Xô…với
Việt Nam đã bị cắt giảm mạnh, do đó Việt Nam phải chủ động trong việc
nhập các nguyên vật liệu cho đầu vào sản xuất như: sắt thép, dầu hỏa, máy
móc thiết bị…với giá cao. Điều này làm đẩy chi phí sản xuất lên cao, trong
khi đó dự trữ ngoại tệ quốc gia chỉ còn 20 triệu rúp- đô la; ngân khố quốc gia
nhiều khi không còn tiền chi tiêu. Để có tiền cho các xí nghiệp quốc doanh
mua nguyên vật liệu để sản xuất, Nhà nước phải in thêm tiền. Sức cạnh tranh
của khu vực tư nhân đang lớn mạnh và mức độ cạnh tranh ngày càng tăng của
thị trường nhập khẩu đã làm bộc lộ tình trạng kém hiệu quả của doanh nghiệp


ix

nhà nước và những khuyết tật của thị trường do nhà nước tổ chức một cách
bao cấp. Cơ chế bao cấp cùng với tình trạng mất ổn định về ngân sách và
chính sách phát hành tiền tệ để bù đắp bội chi của Chính phủ đã làm cho lạm
phát tăng vọt, đánh dấu một thời kỳ lạm phát mới- siêu lạm phát trong suốt 3
năm tiếp theo, đến cuối năm 1988 đầu năm 1989, đã lâm vào lạm phát 3 con
số chưa từng có ở nước ta. Chỉ trong vòng 3 năm siêu lạm phát đã phá hủy
hoàn toàn những thành tựu trước đó gây dựng nên.
Thực tế, ở thời kỳ này các quy luật kinh tế chưa thực sự phát huy tác dụng
trên thị trường Việt Nam. Đồng thời việc sử dụng các phương pháp phân tích

còn nhiều bất cập do đó những số liệu thống kê cũng chưa phần nào phản ánh
hết được toàn bộ thực trạng của nền kinh tế nước ta thời kỳ đó, do vậy mối
quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng chưa được phản ánh chính xác. Tuy
nhiên, nếu đơn thuần về mặt số liệu đã chỉ ra cho ta thấy lạm phát cao ở mức
độ 3 con số ảnh hưởng trầm trọng đến sự tăng trưởng của một nền kinh tế,
dẫn đến tình trạng khủng hoảng, trì trệ của cả một hệ thống và tình trạng tăng
trưởng âm là điều không thể tránh khỏi.
2.2 Thời kỳ tăng trưởng đi đôi với kiểm soát lạm phát từ 1989 -1998
Năm 1989 không chỉ là năm bước ngoặt trong diễn biến lạm phát mà còn
là năm bước ngoặt của cơ chế kinh tế, của cải cách kinh tế ở nước ta. Trong
năm này, nước ta đã đạt được sự tăng trưởng GDP mà nhiều năm trước chưa
từng đạt được.
Trong hai năm tiếp theo 1990 – 1991 lạm phát tăng đáng kể. Nguyên
nhân là sự thay đổi cơ bản trong thị trường xuất nhập khẩu, quan hệ kinh tế tài
chính đối ngoại do biến động chính trị ở Liên Xô và hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa là khu vực tập trung kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta và cũng
là khu vực cung ứng các nguồn tài chính chủ yếu của nước ta đã bị cắt bỏ
hoàn toàn. Bên cạnh đó, chiến tranh vùng Vịnh khiến giá dầu tăng đột ngột,


x

khiến các loại nhiên liệu quan trọng tăng giá. Các chỉ tiêu tăng trưởng GDP
trong hai năm 1990 – 1991 xấp xỉ so với năm 1989 song do chịu ảnh hưởng
nặng nề từ những tác động bên ngoài trong quan hệ quốc tế liên quan đến cán
cân thanh toán quốc tế làm cho các chỉ tiêu tài chính và tiền tệ xấu đi.
Trong giai đoạn tiếp theo 1992 – 1998 nước ta đã thoát ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng, đánh dấu một xu thế mới lạm phát
được kiềm chế đi đôi với tăng trưởng cao.
Nhìn chung, tính đến hết năm 1998, nhiệm vụ kiềm chế lạm phát của nước

ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Đưa nền kinh tế thoát khỏi cuộc
khủng hoảng, tăng trưởng trì trệ, siêu lạm phát xảy ra… tuy nhiên những biện
pháp được dùng kiềm chế lạm phát vẫn mang tính tình thế , còn nhiều vấn đề
bất cập trong chính sách vĩ mô.
2.3. Tăng trưởng trong giai đoạn thiểu phát 1999 – 2003:
Bước sang những năm 1999 – 2003 chúng ta phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thách thức rất gay gắt. Đi kèm với lạm phát thấp là tăng trưởng thụt
lùi, thể hiện ở tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế. Từ năm 2001 – 2003 tình
trạng thiểu phát được cải thiện phần nào tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều tháng
có tỷ lệ lạm phát âm, tỷ lệ tăng trưởng của các năm này dần được nâng
lên.Nguyên nhân lạm phát của nước ta trong giai đoạn sau 1999 là do cơ cấu
và cơ chế kinh tế song biểu hiện ra bên ngoài vẫn là vấn đề điều hành chính
sách tài chính, tiền tệ và hàng hóa.
Lạm phát và tăng trưởng giai đoạn này thể hiện rõ đây là mối quan hệ
thuận khi ở mức hợp lý. Khi lạm phát quá thấp kéo theo nền kinh tế bị đình
đốn, thị trường trở nên chật hẹp, hàng hóa dư thừa không tiêu thụ được ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và
các cá nhân trong xã hội. Mọi hoạt động mang tính cầm cự hoặc đi dần đến
phá sản, dẫn đến kết quả nền kinh tế không có tăng trưởng.


xi

2.4. Lạm phát và tăng trưởng giai đoạn 2004 đến nay
Giai đoạn 2004 – 2008 kinh tế Việt Nam đã trải qua những biến
động lớn. Lạm phát ở nước ta bao gồm cả lạm phát do chi phí đẩy (giá các
mặt hàng trên thế giới tăng kéo theo sự leo thang giá cả của các hàng hóa
trong nước), lạm phát do cầu kéo ( sự khan hiếm tương đối hàng hóa trong
nước, tổng cung thấp hơn tổng cầu; khi đại dịch xảy ra như việc tiêu diệt gia
cầm vì dịch cúm làm cung thực phẩm giả mạnh),lạm phát tiền tệ (xuất phát từ

chính sách kích cầu được sử dụng trong các giai đoạn trước đó, ngân hàng
nhà nước đã bơm ra thị trường một lượng lớn tiền mặt khiến cung tiền không
ngừng gia tăng, giá cả tăng cao); lạm phát cơ cấu ( đầu tư dàn trải, kém hiệu
quả, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, nợ lên đến hàng vài chục tỷ đồng và
không có khả năng thanh toán). Lạm phát cao đã có ảnh hưởng không tốt đến
tăng trưởng kinh tế.Tăng trưởng và lạm phát thời kỳ này luôn tồn tại một mối
quan hệ.
Chương 3
VẬN DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG XÁC ĐỊNH MỨC
LẠM PHÁT TỐI ƯU CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
3.1. Mô hình kiểm định sự tồn tại mức lạm phát tối ưu
Đề tài sử dụng mô hình nhằm kiểm định liệu có tồn tại hay không một
ngưỡng lạm phát tối ưu mà khi lạm phát vượt qua mức này sẽ có tác động âm
tới tăng trưởng được Khan (2001) đưa ra:
a. Mô hình tổng quát có dạng :
d log (y ) = μ + β1 log ( π ) + β2 Dπ* [ log ( π ) – log ( π* )] + θ’ X + ε
Trong đó: d log(y ) : tỷ lệ tăng trưởng GDP

π: chỉ số CPI


xii

π *: CPI tương ứng với ngưỡng lạm phát
D: biến giả, nhận giá trị 1 nếu π > π*, và ngược lại nhận giá trị 0
μ, β: các tham số của phương trình
X: vecto các biến độc lập, được sử dụng để giảm bớt sự tương
quan giữa lạm phát và tỷ lệ tăng trưởng mà không trực tiếp do ảnh hưởng của
lạm phát lên tăng trưởng tạo ra.
Để kiểm định sự tồn tại mức lạm phát tối ưu, mô hình trên sẽ được ước

lượng với một loạt các giá trị khác nhau của π. Giá trị tối ưu π* ứng với trường
hợp mô hình nào có R- squared lớn nhất ( vì R- squared là đại diện cho tính
phù hợp của mô hình)
b.

Ứng dụng mô hình của Khan với Việt Nam
gdpt = b1 + b2•invt + b3•cpit + b4•dum•[cpit - log(1+opi)]

Kết quả của mô hình chỉ ra ở Việt Nam mức lạm phát hợp lý là khoảng
8%/ năm. Đây là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách dựa vào nó để có thể
đưa ra những chính sách, biện pháp kinh tế phù hợp.
Chương 4
NHỮNG GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT Ở MỨC ĐỘ HỢP LÝ
VÀ THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
4.1 Chính sách tài khóa
4.1.1 Đối với chi tiêu:
Đổi mới việc chi tiêu ngân sách Nhà nước bằng cách Chính phủ cần cơ
cấu lại chi tiêu theo hướng kiên quyết loại bỏ những khoản chi chưa thật cần
thiết, bao biện và có biện pháp hạn chế thất thoát, lãng phí đồng thời nên xây
dựng kế hoạch dài hạn để giảm chi tiêu thường xuyên, chuyển các khoản đầu


xiii

tư công sang cho khu vực tư nhân, qua đó góp phần vào việc giảm thuế dài
hạn cho khu vực doanh nghiệp và cá nhân mà vẫn đảm bảo được cân đối ngân
sách.
4.1.2 Vấn đề nguồn thu ngân sách:
Tăng tỷ lệ thu ngân sách Nhà nước bằng các biện pháp khai thác tối đa
các nguồn thu. Hiện nay, nguồn thu chính của ngân sách thông qua thuế; vì

vậy cần hoàn thiện lại hệ thống thuế, tăng cường các biện pháp thu thuế,
chống thất thu, nợ đọng thuế, chống gian lận thương mại, trốn thuế.
Hình thành một cơ cấu thuế hợp lý nhằm tăng cường nguồn thu và vai
trò điều tiết vĩ mô của nhà nước, nên giữ tỷ suất thu thuế khoảng 20% GDP.
Cải cách thuế cần tập trung vào việc thu hẹp những bóp méo của thuế, đi đôi
với việc mở rộng cơ sở thuế và hạ thấp thuế suất.
4.1.3 Đối với vấn đề thâm hụt ngân sách:
Thâm hụt ngân sách là hiện tưởng phổ biến đối với hầu hết các nền
kinh tế. Hạn chế thâm hụt ngân sách là mục tiêu của các chính phủ. Thông
thường để thúc đẩy tăng trưởng chính phủ dành một tỷ lệ ngân sách đáng kể
cho đầu tư phát triển. Nhưng nếu chi ngân sách quá mức dẫn đến thâm hụt
nặng nề dẫn đến chính phủ bù đắp thâm hụt bằng phát hành thêm tiền dẫn đến
tăng lạm phát. Ngược lại, bù đắp ngân sách bằng đi vay khiến nợ nước ngoài
tăng lên. Nếu gánh nợ quá cao tất yếu đưa đến khủng hoảng kinh tế và lạm
phát cao.
Thực tế, Việt Nam nên duy trì chính sách tài khóa thận trọng. Tuy
nhiên, chính sách tài khoá không nên thắt chặt quá mức, bởi vì điều này sẽ
gây tổn hại cho tăng trưởng kinh tế dài hạn. Ngân sách có thể được phép thâm
hụt ở mức cao song vẫn nằm trong phạm vi cho phép. Việc tài trợ cho thâm
hụt ngân sách gia tăng phải tránh không gây thêm tác động đến tỷ lệ lãi suất


xiv

trong nước và giảm thiểu các chi phí đi vay. Nâng cao tính hiệu quả của chi
tiêu công cộng phải đi cùng với bù đắp thâm hụt gia tăng.
4.2 Chính sách tiền tệ và tín dụng
Ngân hàng nhà nước cần sớm xây dựng và ứng dụng lạm phát mục tiêu
trong cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, nghĩa là ngân hàng nhà nước cần
công bố và cam kết trước Quốc hội, Chính phủ và công chúng một tỉ lệ lạm

phát trong dài hạn để đạt được mức tăng trưởng như mong muốn; muốn thực
hiện cơ chế này, đòi hỏi ngân hàng nhà nước cần sớm xây dựng ngân hàng
trung ương theo hướng độc lập hơn, được giao trách nhiệm rõ ràng và thực
quyền hơn trong việc điều hành và sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ
• Đối với chính sách lãi suất
Cần thực hiện chính sách lãi suất thay đổi linh hoạt và kịp thời, theo sát
cung cầu vốn. Tính thanh khoản của thị trường cần được tăng lên. Chủ động
sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường và áp dụng
các biện pháp thích hợp để định hướng và ổn định lãi suất, hướng tới thực
hiện lãi suất thực dương. Tuy nhiên, lãi suất không nên quá cao vì lãi suất cao
sẽ là gánh nặng đối với các doanh nghiệp và các nhà đầu tư, gây tổn hại cho
tăng trưởng kinh tế.
4.3 Chính sách tỷ giá
Nhiều quan điểm cho rằng trong thời giai tới Việt Nam cần phải thả nổi
hoàn toàn tỷ giá hối đoái. Nếu tỷ giá thả nổi hoàn toàn để thị trường chi phối
toàn bộ sẽ làm cho các công cụ khác của chính sách tiền tệ giảm hiệu quả, đặc
biệt có thể làm bộc phát lạm phát, nội tệ bị mất giá không kiềm chế dược khi
mà ta chưa có đủ ngoại tệ để thỏa mãn nhu cầu nhập khẩu cao. Đặc biệt trong
cơ chế này, có những lúc tỷ giá biến động lớn thì nhà nước cần phải can thiệp
và do đó làm tăng hoặc giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, mà trong điều kiện
hiện nay thì cán cân thanh toán quốc tế nước ta đang bị mất cân đối nghiêm


xv

trọng. Tỷ giá thả nổi thường xuyên biến động đòi hỏi các nhà kinh doanh xuất
nhập khẩu phải biết phương thức quản trị ngoại tệ, như thế mới hạn chế được
rủi ro. Trong khi đó hầu hết các nhà xuất nhập khẩu nước ta chưa quen với
phương thức quản trị các nguồn ngoại tệ theo cơ chế thị trường.
Bên cạnh đó cần có một hệ thống ngân hàng đủ năng lực cạnh tranh,

giúp cho việc xác lập tỷ giá phù hợp với cung cầu ngoại tệ. Đặc biệt trong cơ
chế tỷ giá thả nổi cần thiết phải có một thị trường ngoại tê năng động, để cho
các chủ thể tham gia thị trường này có thể tiếp cận với nhau một cách nhanh
chóng, từ đó thiết lập và duy trì được quan hệ cung cầu ngoại tệ. Với những lý
do như trên, ta thấy cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết vĩ mô là sự lựa chọn
mang tính khách quan của Việt Nam trong thời kỳ hiện nay.


1

LỜI MỞ ĐẦU
Lạm phát là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản và hết sức quan trọng mà
mọi quốc gia đều phải quan tâm trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Lạm
phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp, xuất hiện khi nền kinh tế phát triển
mất cân đối và thường gây ra hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, ngoài những
hậu quả gây ra thì lạm phát ở những mức nhất định lại cần thiết đối với các
nước. Có nhiều tranh luận xung quanh mối quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng kinh tế. Muốn tăng trưởng cao hơn thì phải tăng đầu tư, tăng chi ngân
sách, đẩy mạnh xuất khẩu… điều này dẫn đến lạm phát gia tăng. Bên cạnh đó
nếu muốn kiềm chế lạm phát, thì phải thắt chặt tài khóa và tiền tệ và hệ quả là
tăng trưởng kinh tế sẽ không cao.
Vào những năm đầu thập niên 1980, nền kinh tế nước ta bị khủng
hoảng, rơi vào lạm phát 3 con số, chính phủ đã thành công trong việc đề ra
những chính sách để kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng lên cao. Tuy
nhiên, trong giai đoạn tiếp theo 1999- 2003 nền kinh tế nước ta nằm trong
tình trạng lạm phát thấp nhưng tốc độ tăng trưởng cũng thấp. Đặc biệt trong
thời gian gần đây hiện tượng lạm phát tái phát, gây tác động mạnh đến tổng
thể nền kinh tế. Có nhiều quan điểm khác nhau đối với Việt Nam mức lạm
phát nào là tối ưu cho tăng trưởng kinh tế, chấp nhận mức lạm phát cao để
thúc đẩy tăng trưởng hay phải hy sinh tốc độ tăng trưởng để giữ lạm phát ở

mức thấp? Đây đang là bài toán khó, gây nhiều tranh luận. Để đưa ra được
quyết định tối ưu nhất, chúng ta cần hiểu rõ được mối quan hệ, tác động qua
lại giữa lạm phát và tăng trưởng.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu lý thuyết về mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng trưởng: Theo Mundell và Tobin (1965) có mối tương quan tỉ lệ
thuận giữa lạm phát và tăng trưởng; hai trường phái Keynes và trường phái


2

tiền tệ đều cho rằng trong ngắn hạn, chính sách nới lỏng tiền tệ kích thích tăng
trưởng, đồng thời làm gia tăng lạm phát. Sau này, cùng với sự phát triển của
kỹ thuật kinh tế lượng thì các mô hình nghiên cứu về mối quan hệ này được
ước lượng ngày càng phản ánh đúng đắn hơn thực tiễn và các hệ số ước lượng
có nhiều ý nghĩa kinh tế hơn. Những nghiên cứu ban đầu vào thập niên 1960
đã không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê nào. Cho tới thập niên
1970, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tác động của lạm phát đến tăng trưởng
mang tính tích cực: Thirwall and Barton (1971). Sự thay đổi quan điểm đến
sau khi nhiều quốc gia trải qua gia đoạn lạm phát cao liên tục trong thập niên
1970 và 1980, các nghiên cứu khẳng định rằng lạm phát có tác động tiêu cực
đến tăng trưởng: Kormendi and Meguire (1985); Tullock (1989); Fischer
(1993); Bruno và Easterly (1995). Gần đây nhất, những nghiên cứu của Sarel
(1996), Ghosh and Phillips (1998), Khan and Senhadji (2000) đưa ra mối
quan hệ hình chữ U giữa lạm phát và tăng trưởng.
Tại Việt Nam hiện nay đã có khá nhiều bài nghiên cứu khác nhau về
lạm phát, tăng trưởng nói riêng. Tuy nhiên mảng nghiên cứu thực nghiệm về
sự tác động qua lại của lạm phát và tăng trưởng còn rất ít, chưa đi sâu vào
phân tích cụ thể. Đặc biệt việc sử dụng phân tích định lượng, chưa cập nhập
những số liệu mới nhất, số quan sát chưa đủ lớn…Hơn nữa các phân tích gần
đây chưa chỉ ra được mối quan hệ hình chữ U giữa lạm phát và tăng trưởng,

đồng thời chưa tìm ra ngưỡng lạm phát tối ưu cho nền kinh tế Việt Nam.
Với những lý do và thực tiễn như vậy, tôi đã chọn đề tài: “Tác động
của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”.


3

Phạm vi nghiên cứu:
Do mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là khá rộng, do đó luận
văn chủ yếu phân tích tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam.
Mục đích nghiên cứu:
Kết hợp phân tích định lượng và định tính, luận văn tập trung chủ yếu
giải quyết những vấn đề sau:
- Đánh giá thực trạng quá trình lạm phát của Việt Nam qua các thời kỳ
- Tác động tích cực cũng như tiêu cực của lạm phát đến tăng trưởng kinh
tế
- Đưa ra ngưỡng lạm phát cho Việt Nam
- Một số giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế
Phương pháp luận:
Luận văn sử dụng các phương pháp:
- Phân tích tổng hợp, logic và lịch sử
- Phương pháp thống kê
- Một số mô hình kinh tế lượng
Nguồn số liệu:
Dựa trên hệ thống số liệu thống kê về lạm phát và tăng trưởng của Việt
Nam giai đoạn 1956 – 2008 của Tổng cục Thống kê, Bộ Tài Chính, Bộ Kế
hoạch – đầu tư và các nguồn khác.



4

Bố cục luận văn;
Luận văn bao gồm 4 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tác động của lạm phát đến tăng trưởng
kinh tế
Chương 2: Thực trạng về lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Chương 3: Vận dụng mô hình kinh tế lượng xác định mức lạm phát
tối ưu cho nền kinh tế Việt Nam
Chương 4: Những giải pháp kiềm chế lạm pháp ở mức độ hợp lý và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế


5

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.2.

Lý luận chung về lạm phát

1.1.1. Khái niệm và đo lường
1.1.1.1. Khái niệm về lạm phát
Lạm phát được định nghĩa là một vận động đi lên trong tổng mức giá cả
mà đại đa số sản phẩm đều dự phần. Thường khi giá tăng từ vài tháng trở lên
có thể coi như có lạm phát xảy ra. Trong thực tế, khi mức giá chung tăng lên
không đồng nghĩa với việc tất cả mọi hàng hóa đều tăng giá, và nếu có tăng
thì tỷ lệ tăng cũng không đều nhau. Sự tăng giá của bất kỳ hàng hóa đơn lẻ

nào đó không gọi là lạm phát nếu giá của các hàng hóa khác giảm.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là quá trình đồng tiền liên tục giảm
giá. Điều này có nghĩa là khi lạm phát xảy ra, với một đơn vị tiền tệ chỉ có thể
mua được ngày càng ít hơn các hàng hóa và dịch vụ.
Hiện nay có rất nhiều các quan điểm khác nhau về lạm phát, nó đưa ra
nhiều tranh cãi bàn về nguyên nhân, tác động đến tăng trưởng và các chính
sách phù hợp.
1.1.1.2. Thước đo lạm phát
Lạm phát có thể được tính theo công thức sau:

πt =

Pt − Pt −1
* 100%
Pt −1

Trong đó:
πt : Tỷ lệ lạm phát giai đoạn t
t: giai đoạn tính lạm phát

(1.1)


6

Pt:

mức giá giai đoạn t

Pt-1: mức giá giai đoạn t-1

Công thức trên có thể chuyển đổi thành:
πt = ln Pt – ln Pt-1

(1.2)

Có một số phương pháp để tính mức giá chung: chỉ số giá tiêu dùng
(CPI); chỉ số điều chỉnh GDP; chỉ số giá hàng hóa bán lẻ (RPI); chỉ số giá sản
xuất (PPI); chỉ số giá hàng hóa bán buôn (WPI). Trong đó chỉ số giá tiêu dùng
(CPI) là một chỉ số quan trọng mà các nước thường lấy để đo tỷ lệ lạm phát.
Chỉ số giá tiêu dùng được tính theo công thức:
N

P Q

it

i=
1
N

CPIt =

i0

P Q

i0

i=
1


*100

i0

(1.3)

Trong đó:
Pit : giá hàng hóa i trong thời kỳ t
P0t: giá hàng hóa i trong thời kỳ gốc
Qio: hàng hóa i trong thời kỳ gốc.
Chỉ số điều chỉnh GDP được coi là chỉ số phản ánh mức giá của tất cả
các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước. Chỉ số này được tính theo
công thức:
N

t
GDP

D

=

∑P Q
i =1
N

it

it


∑P Q
i =1

i0

it

*100
(1.4)


×