Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Nội dung và vai trò của fdi.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.09 KB, 27 trang )

I/ KHÁI QUÁT VỀ FDI:
Để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế, thì vấn đề quan trọng nhất là phải cần có vốn.
Vốn có hai loại chủ yếu là vốn trong nước và vốn nước ngoài.
Đối với các nước đang phát triển, thì vấn đề thu hút vốn nước ngoài để thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế là yếu tố vô cùng quan trọng và được nhiều nước quan tâm,
trong đó có nước ta.
Tổ chức thương mại thế giới đưa ra định nghĩa như sau về FDI: (Foreign
Direct Investment)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước
(nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng
với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các
công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà
người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp
đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là
"công ty con" hay "chi nhánh công ty"
Quan điểm của Lê Nin về FDI
Theo Lê Nin, trong giai đoạn cạnh tranh tự do, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản
là xuất khẩu hàng hoá, còn trong giai đoạn hiện đại là xuất khẩu tư bản. Ông cho
rằng: xuất khẩu tư bản là một đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Do tư
bản tài chính trong quá trình phát triển đã xuất hiện hiện tượng "tư bản thừa ", thừa
so với tỉ suất lợi nhuận thấp nếu phải đầu tư trong nước, còn nếu đầu tư ra bên
ngoài thì tỉ suất lợi nhuận sẽ cao hơn. Theo ông: “Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn
là chủ nghĩa tư bản, số tư bản thừa không phải dùng để nâng cao mức sống của
quần chúng trong nước đó, vì như thế sẽ làm giảm bớt lợi nhuận của bọn tư bản- mà
là để tăng thêm lợi nhuận bằng cách xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, vào những
nước lạc hậu. Trong các nước lạc hậu này, lợi nhuận thường cao vì tư bản hãy còn
ít, giá đất đai tương đối thấp, tiền công hạ, nguyên liệu rẻ”(1) . Xuất khẩu tư bản có
ảnh hưởng tới nguồn vốn đầu tư của các nước xuất khẩu tư bản, nhưng lại giúp cho
những tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận cao ở nước ngoài. Ngoài ra xuất khẩu
tư bản còn bảo vệ chế độ chính trị ở các nước nhập khẩu tư bản và ít nhiều có tác


dụng thúc đẩy phát triển kinh tế, kỹ thuật. Nhưng thực tế nhân dân ở các nước nhập
khẩu tư bản bị bóc lột nhiều hơn, sự lệ thuộc về kinh tế và kỹ thuật tăng lên và từ đó
sự phụ thuộc về chính trị là khó tránh khỏi.
Lê Nin cho rằng : “ Việc xuất khẩu tư bản ảnh hưởng đến sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản và thúc đẩy hết sức nhanh sự phát triển đó trong những nước đã được
đầu tư . Cho nên nếu trên một mức độ nào đó việc xuất khẩu có thể gây ra một sự
ngưng trệ nào đó trong sự phát triển của các nước xuất khẩu tư bản..”(2)

II. NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA FDI
- 1 -
1. Bản chất của FDI.
Sự phát triển của đầu tư trực tíêp nước ngoài được quy đinh hoàn toàn bởi
quy luật kinh tế khách quan với những điều kiện cần và đủ chín muồi nhất định. .
Sự thay đổi thái độ từ ban đầu là “chống lại” qua “chấp nhận” đến “hoan
nghênh”, đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể xem là yếu tố tác động làm tạo ra
những bước thay đổi nhận thức theo hướng ngày càng đúng hơn và chủ động
hơn của con người đối với quy luật kinh tế khách quan về sự phát triển sức sản
xuất xã hội và phân công lao động xã hội đang mở ra một cach thực tế trên quy
mô quốc tế.Xu hướng này có ý nghĩa quyết định trong viêc chi phối các biểu
hịên khác nhau cuả đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Quan hệ kinh tế quốc tế đã hình thành nên các dòng lưu chuyển vốn chủ
yếu: Dòng vốn từ các nước đang phát triển đổ vào các nước đang phát triển;
dòng vốn lưu chuyển trong nội bộ các nước phát triển. Sự lưu chuyển của các
dòng vốn diễn ra dưới nhiều hinh thức như : Tài trợ phát triển chính thức (gồm
viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức khác), nguồn vay tư nhân (tín
dụng từ các ngân hàng thương mại) và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mỗi nguồn vốn
có đặc điểm riêng của nó.
Nguồn tài trợ phát triển chính thức là nguồn vốn do các tổ chức quốc tế, chính
phủ (hoặc cơ quan đại diện chính phủ) cung cấp. Loại vốn này có ưu điểm là có sự
ưu đãi nhất định về lãi suất, khối lượng cho vay lớn và thời hạn vay tương đối dài.

Để giúp các nước đang phát triển, trong loại vốn này đã giành một lượng vốn chủ
yếu cho vốn viện trợ phát triển chính thức ODA, đây là nguồn vốn có nhiều ưu đãi,
trong ODA có một phần là viện trợ không hoàn lại, chiếm khoảng 25% tổng số vốn.
Tuy vậy không phải khoản ODA nào cũng dễ dàng, nhất là loại vốn do các chính
phủ cung cấp, nó thường gắn với những ràng buộc nào đó về chính trị, kinh tế, xã
hội, thậm chí cả về quân sự. Nguồn vay tư nhân: Đây là nguồn vốn không có những
ràng buộc như vốn ODA, tuy nhiên đây là loại vốn có thủ tục vay rất khắt khe, mức
lãi suất cao, thời hạn trả nợ rất nghiêm ngặt.
Nhìn chung sử dụng hai loại vốn trên đều để lại cho nền kinh tế các nước
đi vay gánh nặng nợ nần – một trong những yếu tố chứa đựng tiềm ẩn nguy cơ
dẫn đến khủng hoảng, nhất là khủng hoảng về tiền tệ.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại
vốn có nhiều ưu điểm hơn so với các loại vốn kể trên. Nhất là đối với các nước
đang phát triển, khi khả năng tổ chức sản xuất đạt hiệu quả còn thấp thì hiệu quả
càng rõ rệt.
Về bản chất , FDI là sự gặp nhau về nhu cầu của một bên la nhà đầu tư và một
bên khác là nước nhận đầu tư.
- Đối với nhà đầu tư:
Khi quá trình tích tụ tập trung vốn đạt tới trình độ mà “mảnh đất” sản xuất
kinh doanh truyền thống của họ đã trở nên chật hẹp đến mức cản trở khả năng hiệu
quả của đầu tư, nơi mà ở đó nếu đầu tư vào thì họ sẽ không thu được lợi nhuận như
mong muốn. Trong khi ở một số quốc gia khác lại xuất hiện nhiều lợi thế mà họ có
- 2 -
thể khai thác để thu lợi nhuận cao hơn nơi mà họ đang đầu tư. Có thể nói đây chính
là yếu tố cơ bản nhất thúc đẩy các nhà đầu tư chuyển vốn của mình đầu tư vào nước
khác. Hay nói cách khác, việc tìm kiếm, theo đuổi lợi nhuận cao hơn và bảo toàn
độc quyền hay lợi thế cạnh tranh là bản chất, là động cơ, là mục tiêu cơ bản xuyên
suốt của các nhà đầu tư. Đầu tư ra nước ngoài là phương thức giải quyết có hiệu
quả. Đây là loại hình mà bản thân nó rất có khả năng để thực hiện việc kéo dài “chu

kỳ tuổi thọ sản phẩm”, “chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật” mà vẫn giữ được độc quyền kỹ
thuật, dễ dàng xâm nhập thị trường nước ngoài mà không bị cản trở bởi các rào
chắn.
Khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như giá nhân công rẻ của
nước nhận đầu tư. Phải nói rằng, đầu tư trực tiếp nước ngoài là “lối thoát lý tưởng”
trước sức ép xảy ra “sự bùng nổ phá sản” do những mâu thuẫn tất yếu của quá trình
phát triển. Ta nói nó là lý tưởng vì chính lối thoát này đã tạo cho các nhà đầu tư tiếp
tục thu lợi và phát triển, có khi còn phát triển với tốc độ cao hơn. Thậm chí khi
nước nhận đầu tư có sự thay đổi chính sách thay thế nhập khẩu sang chính sách
hướng sang xuất khẩu thì nhà đầu tư vẫn có thể tiếp tục đầu tư dưới dạng mở các
chi nhánh sản xuất các bộ phận, phụ kiện …để xuất khẩu trở lại để phục vụ cho
công ty mẹ, cũng như các thị trường mới …Đối với các nước đang phát triển, dưới
con mắt của các nhà đầu tư, trong những năm gần đây các nước này đã có những sự
cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, điều kiện kinh tế, trình độ và khả năng phát triển
của người lao động, hệ thống luật pháp, dung lượng thị trường, một số nguồn tài
nguyên … cũng như sự ổn định về chính trị… Những cải thiện này đã tạo sự hấp
dẫn nhất định đối với các nhà đầu tư. Trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền
tệ, thế giới đánh giá Châu Á, và nhất là Đông Á và Đông Nam Á đang là khu vực
xuất hiện nhiều nền kinh tế năng động, nhiều tiềm năng phát triển và có sức hút
đáng kể đối với các nhà đầu tư
 Tóm lại:
Thực chất cơ bản bên trong của nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài bao gồm: Duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất của chủ đầu tư (vấn đề
vốn , kỹ thuật , sản phẩm … Khai thác các nguồn lực và xâm nhập thị trường của
các nước nhận đầu tư ; tranh thủ lợi dụng chính sách khuyến khích của các nước
nhận đầu tư ; thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp để thực hiện các ý đồ kinh tế
(hoặc phi kinh tế ) mà các hoạt động khác không thực hiện được).
- Đối với các nước nhận đầu tư :
+ Đây là những nước đang có một số lợi thế mà nó chưa có hoặc không có
điều kiện để khai thác. Các nước nhận đầu tư thuộc loại này thường là các nước có

nguồn tài nguyên tuơng đối phong phú, có nguồn lao động dồi dào và giá nhân công
rẻ, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, thiếu công nghệ tiên tiến và ít có khả năng tổ chức sản
xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao… Số này phần lớn thuộc các nước đang phát
triển.
+ Các nước nhận đầu tư dạng khác đó là các nước phát triển, đây các nước
có tiềm lực kinh tế cao, phần lớn là những nước có vốn đầu tư ra nước ngoài.
- 3 -
Các nước này có đặc điểm là có cơ sở hạ tầng tốt, họ đã và đang tham gia có
hiệu quả vào quá trình phân công lao động quốc tế hoặc là thành viên của các tổ
chức kinh tế hoặc các tập đoàn kinh tế lớn. Họ nhận đầu tư trong mối liên kết để
giữ quyền chi phối kinh tế thế giới.
Nói chung, đối với nước tiếp nhận đầu tư, cho dù ở trình độ phát triển cao hay
thấp, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là do sự khéo léo “mời chào” hay do các
nhà hay do các nhà đầu tư tự tìm đến mà có, thì đầu tư nước ngoài cũng thường có
sự đóng góp nhất định đối với sự phát triển của họ. Ở những mức độ khác nhau, đầu
tư trực tiếp nước ngoài đóng vài trò là nguồn vốn bổ sung là điều kiện quyết định
(thậm chí quyết định) theo sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực của một số
lĩnh vực sản xuất kinh doanh, hay một số ngành nghề, hoặc là những yếu tố xúc tác
làm cho các tiềm năng nội tại của nước nhận đầu tư phát huy một cách mạnh mẽ và
có hiệu quả hơn.
Lịch sử phát triển trực tiếp nước ngoài cho thấy thái độ của các nước nhận
đầu tư là từ thái độ phản đối (xem đầu tư trực tiếp nước ngoài là công cụ cướp
bóc đối với thuộc địa) đến thái độ buộc phải chấp nhận và đến thái độ hoan
nghênh …Trong điều kiện hiện nay , đầu tư trực tiếp nước ngoài được mời chào,
khuyến khích mãnh liệt.
Mặc dù hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận ,còn những ý kiến khác nhau về vai
trò, về mặt tích cực, tiêu cực …của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước
tiếp nhận đầu tư. Nhưng chỉ điểm qua nhu cầu, qua trào lưu cạnh tranh thu hút
cũng đủ cho ta khẳng định rằng : đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay đối với
các nước nhận đầu tư có tác dụng tích cực là chủ yếu. Đa phần các dự án đầu tư

trực tíêp nước ngoài, khi thực hiện đều đưa lại lợi ích cho nước nhận đầu tư.
Đối với nhiều nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đóng vai trò là điều
kiện, là cơ hội, là cửa ngõ giúp thoát khỏi tình trạng của một nước nghèo, bước vào
quỹ đạo của sự phát triển và thực hiện công nghiệp hoá.
 Tóm lại :
Đồng vốn (tư bản) của các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia lớn xuất ra và
hoạt động ngày càng tinh vi và phức tạp hơn, nhưng hiệu quả đưa lại thường đạt ở
mức cao hơn . Quan hệ của nước tiếp nhận đầu tư với nhà đầu tư trong hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài của các tập đoàn , các công ty xuyên quốc gia lớn
thường tồn tại đan xen giữa hợp tác và đấu tranh ở mức độ ngày càng cao hơn
2 . Các hình thức chủ yếu của FDI
Luật quy định có ba hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là: hợp tác
kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh; xí nghiệp liên doanh; và xí
nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ngoài 3 hình thức đầu tư trên còn có các hình thức
đầu tư và phương thức tổ chức thu hút đầu tư khác.
a) Hình thức xí nghiệp liên doanh.
- 4 -
Hình thức này được áp dụng phổ biến hơn, nhưng có xu hướng bớt dần về tỉ
trọng . Các nhà đầu tư nước ngoài thích áp dụng hình thức liên doanh vì :
-Thấy được ưu thế giữa hình thức xí nghiệp liên doanh so với hình thức xí
nghiệp 100% vốn nước ngoài là tranh thủ được sự hiểu biết và hỗ trợ của các đối
tác trong tất cả các khâu hình thành, thẩm định và thưc hiện dự án.
-Phạm vi, lĩnh vực và địa bàn hoạt động của xí nghiệp liên doanh rộng
hơn xí nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên có thể giải thích xu hướng hạn chế dần hình thức xí nghiệp liên
doanh ở Việt Nam bằng những nguyên nhân sau :
+Sau một thời gian tiếp cận với thị trường Việt Nam , các nhà đầu tư nước
ngoài, đặc biệt các nhà đầu tư Châu Á đã hiểu rõ hơn về luật pháp, chính
sách và thủ tục đầu tư tại Việt Nam .
+Thực tiễn phát sinh nhiều tranh chấp trong việc quản lý điều hành mà một

phần do sự yếu kém về trình độ của người Việt Nam. Bên nước ngoài thường góp
vốn nhiều hơn nhưng không quyết định những vấn đề chủ chốt của xí nghiệp vì
nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị.
+Khả năng tham gia liên doanh của bên Việt Nam là có hạn vì thiếu cán
bộ, thiếu vốn đóng góp .
+ Nhiều trường hợp cơ quan quản lý nhà nước đã tác động quá sâu vào
quá trình sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp
b) Xí nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài theo hình thức này ngày càng tăng. Nguyên nhân giảm sút
tỉ trọng xí nghiệp liên doanh cũng chính là nguyên nhân tăng tỉ lệ các xí nghiệp
100% vốn nước ngoài. Uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư trước đây đã từ chối
cấp giấy phép cho nhiều dự án 100% vốn nước ngoài trong những ngành, lĩnh vực
quan trọng hoặc có tính đặc thù như : Bưu chính viễn thông, xây dựng kinh doanh
khách sạn, văn phòng cho thuê, sản xuất xi măng, dịch vụ xuất nhập khẩu, du
lịch…Tuy nhiên trong những năm gần đây, các địa phương phía Nam, đặc biệt là
các tỉnh Đồng Nai, Sông Bé, Bà Rịa - Vũng Tàu đã ủng hộ mạnh các dự án 100%
vốn nước ngoài với lập luận rằng cho các nhà đầu tư nước ngoài thuê đất lập xí
nghiệp 100% vốn nước ngoài có lợi hơn việc giao đất cho bên Việt Nam góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng đất để tham gia liên doanh
c) Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hình thức này được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu
khí và trong lĩnh vực bưu chính viễn thông .Hai lĩnh vực này chiếm 30% số dự án
hợp đồng hợp tác kinh doanh , nhưng chiếm tới 90% tổng vốn cam kết thưc hiện.
Phần còn lại chủ yếu thuộc về lĩnh vực công nghiệp, gia công, dịch vụ
d) Các hình thức đầu tư và phương thức tổ chức thu hút đầu tư khác .
- Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài :
- 5 -
Đây là hình thức tổ chức khá phổ biến trên thế giới. Theo quan điểm của các
nhà đầu tư nước ngoài, so với các hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần có lợi thế trong việc huy động vốn ngay từ đầu của doanh nghiệp.

- Cổ phần hoá các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, việc chuyển nhượng
phần góp vốn trong xí nghiệp liên doanh phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền . Xí nghiệp liên doanh không được phép huy động vốn bằng
cách phát hành cổ phiếu hoặc bán lại chứng khoán. Vì vậy, một số nhà đầu tư nước
ngoài cho rằng quy định của Luật hiện hành là “cứng” và đề nghị cho cổ phần hoá
xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài .
- Chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam .
Luật đầu tư hiện hành không có quy định về hình thức chi nhánh công ty nước
ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên trong những năm qua, một số ngân hàng nước ngoài,
các công ty tài chính, thương mại quốc tế đã làm đơn xin mở chi nhánh tại Việt
Nam.
- Phương thức đổi đất lấy công trình.
Nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn xây dựng một hoặc một số dự án cơ sở hạ tầng
như cầu, đường, hoặc khu phố mới theo phương thức chìa khoá trao tay hoặc Bt
(xây dựng – chuyển giao). Đổi lại, Nhà nước Việt Nam sẽ dành cho nhà đầu tư
nước ngoài quyền sử dụng một diện tích đất trong một thời gian xác định để xây
dựng, kinh doanh hoặc một số dự án cụ thể.
- Hình thức thuê mua
Một số xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là xí nghiệp 100% vốn
của các công ty Nhật Bản đề nghị được thuê mua hoặc thuê miễn phí máy móc thiết
bị. Vì đây là vấn đề mới và máy móc thiết bị vẫn thuộc sở hữu của xí nghiệp tại
Việt Nam nên Bộ Thương mại đã không chấp nhận đề nghị miễn thuế nhập khẩu
đối với máy móc thiết bị .
3. Phân loại FDI.
3.1 Phân theo bản chất đầu tư

a) Đầu tư phương tiện hoạt động:
Đầu tư phương tiện hoạt động là hình thức FDI trong đó công ty mẹ đầu tư
mua sắm và thiết lập các phương tiện kinh doanh mới ở nước nhận đầu tư. Hình
thức này làm tăng khối lượng đầu tư vào.


b). Mua lại và sáp nhập:
Mua lại và sáp nhập là hình thức FDI trong đó hai hay nhiều doanh nghiệp có
vốn FDI đang hoạt động sáp nhập vào nhau hoặc một doanh nghiệp này (có thể
đang hoạt động ở nước nhận đầu tư hay ở nước ngoài) mua lại một doanh nghiệp có
vốn FDI ở nước nhận đầu tư. Hình thức này không nhất thiết dẫn tới tăng khối
lượng đầu tư vào
3.2. Phân theo tính chất dòng vốn
- 6 -

a) Vốn chứng khoán
Nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phần hoặc trái phiếu doanh nghiệp do
một công ty trong nước phát hành ở một mức đủ lớn để có quyền tham gia vào các
quyết định quản lý của công ty.

b) Vốn tái đầu tư
Doanh nghiệp có vốn FDI có thể dùng lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh
doanh trong quá khứ để đầu tư thêm.

c) Vốn vay nội bộ hay giao dịch nợ nội bộ
Giữa các chi nhánh hay công ty con trong cùng một công ty đa quốc gia có thể cho
nhau vay để đầu tư hay mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp của nhau.

3.3 . Phân theo động cơ của nhà đầu tư

a) Vốn tìm kiếm tài nguyên
Đây là các dòng vốn nhằm khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi
dào ở nước tiếp nhận, khai thác nguồn lao động có thể kém về kỹ năng nhưng giá
thấp hoặc khai thác nguồn lao động kỹ năng dồi dào. Nguồn vốn loại này còn nhằm
mục đích khai thác các tài sản sẵn có thương hiệu ở nước tiếp nhận (như các điểm

du lịch nổi tiếng). Nó cũng còn nhằm khai thác các tài sản trí tuệ của nước tiếp
nhận. Ngoài ra, hình thức vốn này còn nhằm tranh giành các nguồn tài nguyên chiến
lược để khỏi lọt vào tay đối thủ cạnh tranh.

b) Vốn tìm kiếm hiệu quả
Đây là nguồn vốn nhằm tận dụng giá thành đầu vào kinh doanh thấp ở nước
tiếp nhận như giá nguyên liệu rẻ, giá nhân công rẻ, giá các yếu tố sản xuất như điện
nước, chi phí thông tin liên lạc, giao thông vận tải, mặt bằng sản xuất kinh doanh rẻ,
thuế suất ưu đãi, v.v...

c) Vốn tìm kiếm thị trường
Đây là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường hoặc giữ thị trường khỏi bị
đối thủ cạnh tranh dành mất. Ngoài ra, hình thức đầu tư này còn nhằm tận dụng các
hiệp định hợp tác kinh tế giữa nước tiếp nhận với các nước và khu vực khác, lấy
nước tiếp nhận làm bàn đạp để thâm nhập vào các thị trường khu vực và toàn cầu.
4 . Đặc điểm chủ yếu của FDI
Đến nay xét về bản chất, FDI có những đặc điểm chủ yếu:
* FDI trở thành hình thức đầu tư chủ yếu trong đầu tư nước ngoài.
Xét về ưu thế và hiệu quả thì FDI thể hiện rõ hơn sự chuyển biến về chất
lượng trong nền kinh té thế giới. Gắn trực tiếp với quá trình sản xuất trực tiếp, tham
- 7 -
gia vào sự phân công lao động quốc tế theo chiều sâu và tạo thành cơ sở của sự hoạt
động của các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp xuyên
quốc tế
* FDI đang và sẽ tăng mạnh ở các nước đang phát triển .
Có nhiều lý do giải thích mức độ đầu tư cao giữa các nước công nghiệp phát
triển với nhau nhưng có thể thấy được hai nguyên nhân chủ yếu sau:
-Thứ nhất, môi trường đầu tư ở các nước phát triển có độ tương hợp cao.
Môi trường này hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả môi trường công nghệ và môi
trường pháp lý.

-Thứ hai, xu hướng khu vực hoá đã thúc đẩy các nước này xâm nhập thị
trường của nhau.
Từ hai lý do đó ta có thể giải thích được xu hướng tăng lên của FDI ở
các công nghiệp mới (NICs), các nứơc ASEAN và TrungQuốc.
Ngoài ra xu hướng tự do hoá và mở cửa của nền kinh tế các nước đang phát
triển trong những năm gần đây đã góp phần đáng kể vào sự thay đổi đáng kể dòng
chảy FDI.
* C ơ cấu và phương thức FDI trở nên đa dạng hơn.
Trong những năm gần đây cơ cấu và phương thức đầu tư nước ngoài trở
nên đa dạng hơn so với trước đây. Điều này liên quan đến sự hình thành hệ thống
phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng và sự thay đổi môi trường kinh
tế thương mại toàn cầu.
Về cơ cấu FDI, đặc biệt là FDI vào các nước công nghiệp phát triển có
những thay đổi sau:
- Vai trò và tỉ trọng của đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học cao
tăng lên. Hơn 1/3 FDI tăng lên hàng năm là tập trung vào các ngành then chốt
như điện tử, chế tạo máy tính, chất dẻo, hoá chất và chế tạo máy. Trong khi đó
nhiều ngành công nghiệp truyền thống dùng nhiều vốn và lao động, FDI giảm tuyệt
đối hoặc không đầu tư .
* Sự gắn bó ngày càng chặt chẽ gi ữa FDI và ODA, th ương mại và chuyển
giao công nghệ.
-FDI và thương mại có liên quan rất chặt chẽ với nhau. Thông thường, một
chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài được nhằm vào mục đích tăng tiềm
năng xuất khẩu của một nước. Mặt khác, các công ty nước ngoài được lựa chọn
ngành và địa điểm đầu tư cũng dựa trên cơ sở tăng khả năng cạnh tranh của sản
phẩm trên trường quốc tế
- FDI đang trở thành kênh quan trọng nhất của việc chuyển giao công nghệ.
Xu hướng hiệnu nay là FDI và chuyển giao công nghệ ngày càng gắn bó
chặt chẽ với nhau. Đây chính là hình thức có hiệu quả nhất của sự lưu chuyển
vốn và kỹ thuật trên phạm vi quốc tế.

Nhiều nước đã đạt được thành công trong việc hấp thụ các yếu tố bên ngoài để
phát triển kinh tế trong nước là nhờ chú ý đến điều này. Hồng Kông, Singapore và
Đài Loan rất tích cực khuyến khích các công ty xuyên quốc gia chuyển giao công
nghệ cùng với quá trình đầu tư.
- 8 -
- Sự gắn bó giữa FDI và ODA cũng là một đặc điểm nổi bật của sự lưu chuyển
các nguồn vốn, công nghệ trên phạm vi quốc tế trong những năm gần đây. Hơn nữa
xu hướng này sẽ ngày càng trở nên mạnh hơn .
5 . Vai trò của FDI với phát triển kinh tế.
Mặc dù FDI vẫn chịu chi phối của Chính Phủ nhưng FDI ít lệ thuộc vào mối
quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý
sản xuất, kinhh doanh nên mức độ khả thi của dự án khá cao, đặc biệt là trong việc
tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Do quyền lợi gắn chặt với dự án,
họ quan tâm tới hiệu quả kinh doạnh nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng
cao trình độ quản lý và tay nghề của công nhân. Vì vậy, FDI ngày càng có vai trò to
lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các đầu tư và các nước nhận
đầu tư .
- Đối với nước đầu tư :
Đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở
các nước tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của
vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải
chăng. Mặt khác đầu tư ra nước ngoài giúp bành trướng sức mạnh kinh tế và nâng
cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu
thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được
hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
- Đối với nước nhận đầu tư:
+ Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác dụng lớn trong việc giải
quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát…Qua FDI các
tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những công ty doanh nghiệp có nguy cơ phá sản,
giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao động. FDI

còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình
hình bội chi ngân sách, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển kinh tế
và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm quản lý
của các nước khác.
+ Đối với các nước đang phát triển:
- Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng giải quyết có hiệu quả
những khó khăn về vốn cho công nghiệp hoá. Đối với các nước nghèo, vốn đuợc
xem là yếu tố cơ bản, là điều kiện khởi đầu quan trọng để thoát khỏi đói nghèo và
phát triển kinh tế. Thế nhưng, đã là nước nghèo thì khả năng tích luỹ vốn hay huy
động vốn trong nước để tập trung cho các mục tiêu cần ưu tiên là rất khó khăn, thị
trường vốn trong nước lại chưa phát triển. Trong điều kiện của thời kỳ đầu tiến
hành công nghiệp hoá, nhìn chung các nước đang phát triển đều gặp rất nhiều khó
khăn: mức sống thấp, khẳ năng tích luỹ thấp, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, công
nghệ kỹ thuật chưa phát triển, mức đầu tư thấp nên kém hiệu quả, ít có điều kiện để
xâm nhập, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thiếu khả năng tiếp cận với khoa học kỹ
thuật tiên tiến của thế giới…
- 9 -
Giải pháp của các nước đang phát triển lúc này là tìm đến với các nguồn đầu
tư quốc tế. Nhưng trong số các nguồn đầu tư quốc tế thì vốn viện trợ tuy có được
một số vốn ưu đãi nhưng lại đi kèm với một số ràng buộc về chính trị, xã hội, thậm
chí cả về quân sự. Còn vốn vay thì thủ tục vừa khắt khe mà lại phải chịu lãi xuất
cao. Nguồn vốn đuợc đánh giá có hiệu quả nhất đối với giai đoạn đầu tiến hành
công nghiệp hoá của các nước đang phát triển là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Khi nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư cũng đồng thời họ hoàn toàn chịu trách nhiệm về hiệu
quả của đồng vốn mà mình bỏ ra, do đó truớc khi đầu tư thì họ buộc phải tính toán
kỹ các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện dự án .Hay nói cách khác,các nhà đầu
tư chỉ xin phép và triển khai dự án khi họ tính toán thấy độ rủi ro ít và khả năng thu
lợi cao. Đây là ưu thế hơn hẳn của loại vốn đầu tư trực tiếp so với các loại vốn vay
khác.
-Thứ hai, một đặc điểm tương đối phổ biến ở các nước đang phát triển là sự

lạc hậu và thiếu thốn công nghệ và kỹ thuật. Thông qua các dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp nhận được những kỹ thuật mới,
những công nghệ tiên tiến, góp phấn cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, phát triển công
nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Đồng thời, tạo ra các điều kiện
kinh tế kỹ thuật cho việc thực hiện cuộc cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ
trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
-Thứ ba, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể thu hút một lượng lớn
lao động trực tiếp và tạo ra nhiều việc làm cho các dịch vụ tương ứng. Thông qua
việc thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, có thể làm đội ngũ cán bộ của
nước nhận đầu tư qua việc tham gia vào hoạt động của liên doanh mà trưởng thành
hơn về năng lực quản lý phù hợp với nền sản xuất hiện đại; hình thành một lực
lượng công nhân kỹ thuật lành nghề; tăng nguồn thu cho ngân sách…
-Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các điều kiện cần thiết cho việc tạo lập
một hệ thống thị trường phù hợp với yêu cầu của một nền sản xuất công nghiệp hoá,
tiếp cận và mở rộng được thị trường mới, tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế…
Hình hành được các khu chế xuất, khu công nghiêp chủ lực; tạo ra các điều kiện cơ
bản cho tiến trình công nghiệp hoá.
III / KẾT QUẢ THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM .
1. Sự phát triển của FDI ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
1.1. Sự cần thiết phải thu hút FDI ở nước ta
- Thông qua đầu tư nước ngoài, nhất là FDI, chúng ta tiếp nhận thành tựu phát
triển khoa học- kĩ thuật tiên tiến của thế giới, nhờ đó rút ngắn khoảng cách của ta so
với thế giới.
- Nhờ có FDI, chúng ta sử dụng có hiệu quả những lợi thế của đất nước mà
nhiều năm qua không thể thực hiện do thiếu vốn như khai thác dầu mỏ, khoáng sản

- 10 -

×