Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ đời SỐNG văn HOÁ ở CÁC XÃ NÔNG THÔN mới THUỘC HUYỆN tân PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 108 trang )

ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở CÁC XÃ NÔNG THÔN MỚI THUỘC
HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG HIỆN NAY
1- Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu đời sống văn hoá nói chung và đời sống văn hoá trong quá
trình xây dựng nông thôn mới ở nước ta là vấn đề được quan tâm trong sự
nghiệp xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đời sống văn
hóa - bộ phận quan trọng cấu thành nên đời sống xã hội, nhân tố phản ánh khả
năng sáng tạo và trình độ phát triển của quốc gia, dân tộc trong tiến trình lịch sử,
xã hội. Phát triển đời sống văn hóa không những đáp ứng nhu cầu tinh thần của
đời sống xã hội mà còn có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững
của đất nước.
Để cụ thể hóa chủ trương trên, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị
quyết, chính sách, phát động nhiều phong trào, cuộc vận động sôi nổi, sâu rộng
như: Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư;
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Phong trào toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa,… qua đó cho thấy sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực với những kết quả
đạt được quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về
văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa
của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân
tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành.
Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực;
phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng. Xã hội hóa
hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây
dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo
tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được
nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và sinh hoạt
1



2

văn hóa tâm linh của nhân dân được quan tâm. Công tác quản lý nhà nước về
văn hóa được tăng cường, thể chế văn hóa từng bước được hoàn thiện,…
Trong mục tiêu xây dựng nông thôn mới văn hóa đóng một vai trò hết sức
quan trọng bởi văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình phát triển.
Sau thời gian thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới với 19 tiêu chí do
Chính phủ ban hành đã tạo ra những khởi sắc, làm thay đổi bộ mặt nông thôn
theo hướng tích cực. Tuy nhiên với những đặc thù văn hóa riêng, nông thôn Việt
Nam nói chung và Tân Phước nói riêng đang đứng trước những thách thức, cam
go khi tăng trưởng kinh tế không đi đôi với phát triển bền vững. Mặt trái của quá
trình đô thị hóa cùng những tác động xấu của kinh tế thị trường đã và đang dần
đánh mất đi nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp. Sự phát triển, tăng tốc đến chóng mặt
của thông tin đại chúng, Internet, sóng truyền hình, di động,… dẫn đến sự du
nhập ồ ạt của văn hóa ngoại lai trên hai mặt tích cực và tiêu cực, lối sống thực
dụng,… khiến tệ nạn xã hội gia tăng, đạo đức xã hội bị băng hoại, nhiều giá trị
văn hóa cổ truyền làng xã bị mai một,… Làm thế nào để phát triển một nông
thôn mới hiện đại mà vẫn giữ được những giá trị truyền thống, giữ được bản sắc
riêng của nông thôn Việt Nam là vấn đề luôn được sự quan tâm đặc biệt của
Đảng – Nhà nước và toàn xã hội.
Huyện Tân Phước có diện tích tự nhiên là 33,2Km 2 được chia thành 13
đơn vị hành chính cơ sở. Nhìn chung điều kiện kinh tế tự nhiên của huyện có
thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nông thôn trong đó lợi thế lớn về tài
nguyên đất, điều kiện thổ nhưỡng khá thuận lợi cho nhiều cây trồng. Kinh tế chủ
yếu của huyện là nông nghiệp, giá trị sản xuất khu vực nông – lâm – ngư nghiệp
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cơ cấu sản xuất. Tuy nhiên đặc thù của huyện có
xuất phát điểm về kinh tế - xã hội thấp; đời sống nhân dân nói chung đặc biệt là
nhân dân khu vực nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, bộ mặt nông thôn còn
nhiều bất cập. Nhận thức của một bộ phận người dân về xây dựng đời sống văn

hoá vẫn chưa thật sự sâu sắc, thiếu quan tâm đến việc xây dựng các thiết chế gia
đình; thực hiện nếp sống văn minh trong việc hiếu việc hỉ chưa có chuyển biến
tích cực, còn hiện tượng tổ chức đám cưới linh đình gây tốn kém, lãng phí; các


3

sản phẩm văn hoá độc hại xâm nhập vào địa bàn dân cư thông qua các loại hình
văn hoá chưa được kiểm duyệt; nhiều biểu hiện tiêu cực về tư tưởng, đạo đức,
lối sống nhất là tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn triệt để; hoạt động tuyên
truyền chưa đi vào chiều sâu; vệ sinh môi trường, cảnh quan chưa thật sự đảm
bảo xanh – sạch – đẹp.
Là một công chức công tác ở Ban Tuyên giáo Huyện ủy Tân Phước, tỉnh
Tiền Giang với mong muốn là qua luận văn này một phần nào góp một ít công
sức cùng với Đảng bộ, chính quyền địa phương tháo gỡ những khó khăn vướn
mắc và ngày càng nâng cao chất lượng cuộc sống đối với các xã nông thôn mới
trên địa bàn huyện trong thời gian tới, đó là lý do vì sao tôi chọn đề tài “ Đời
sống văn hóa ở các xã nông thôn mới thuộc huyện Tân Phước, tỉnh Tiền
Giang hiện nay” để làm luận văn tốt nghiệp hệ Cao học, chuyên ngành văn hóa
học. Hy vọng với những kết quả nghiên cứu góp phần nâng cao nhận thức lý
luận và năng lực thực tiễn cho bản thân.
2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Đời sống văn hoá là một trong những vấn đề quan trọng của đời sống xã
hội, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước bước vào giai đoạn hội nhập.
Trong đó đời sống văn hoá nông thôn là một trong những vấn đề được quan tâm
nhất là trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế toàn diện. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn các công trình
nghiên cứu đã tập trung làm rõ thêm đời sống văn hoá Việt Nam và đời sống văn
hoá nông thôn mới nói riêng. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu ở
những khía cạnh khác nhau, có thể kể đến là:

Một la, những công trình nghiên cứu về đời sống văn hoá, cơ sở lý luận và
thực tiễn.
- Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, của PGS. TS
Nguyễn Chí Bền, Nxb Chính trị quốc gia: cuốn sách đã đề cập đến hiện trạng và
những tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với các thành tố của


4

nền văn hoá dân tộc và đề xuất một số giải pháp quan trọng nhằm phát triển văn
hoá Việt Nam trong bối cảnh mới.
- Lý luận va đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng, Nxb chính trị quốc gia,
Hà Nội. Cuốn sách khẳng định văn hoá là lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần của
xã hội nhưng vẫn chịu sự quy định của những quy định chung và đều hướng tới
những chuẩn mực cụ thể; đi sâu nghiên cứu đường lối chính sách văn hoá của
Đảng, Nhà nước và những biện pháp xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc như Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban
chấp hành Trung ương Đảng (VIII) đề ra.
- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở nước ta, của Giáo sư
tiến sĩ Hoàng Vinh, Nxb thông tin, Hà Nội: Cuốn sách giới thiệu những vấn đề
xây dựng văn hóa hiện ở nước ta; Tác giả Nguyễn Văn Hy với mấy vấn đề xây
dựng đời sống văn hoá ở cơ sở hiện nay, Nxb văn hoá thông tin, Hà Nội.
- Vai trò của văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông
thôn, nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng, PGS.TS Lê Quý Đức (2005),
Nxb VHTT và Viện văn hóa.
Hai la, vận dụng lý luận tiếp cận nghiên cứu đời sống văn hoá, xây dựng
phát triển đời sống văn hoá gắn với địa bàn cụ thể:
- Xây dựng đời sống văn hoá cơ sở tại quận Tân Phú, thanh phố Hồ Chi
Minh, Luận văn khoa Văn hoá học, trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn,
Hà Nội. Luận văn đã trình bày một cách khái quát những vấn đề cơ bản về văn

hoá và xây dựng đời sống văn hoá, thiết chế văn hoá ở cơ sở. Nêu một cách có
hệ thống về nhận thức, đường hướng các hoạt động xây dựng đời sống văn hoá
ở cơ sở; đồng thời cũng trình bày cụ thể các hoạt động đặc trưng của quá trình
xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở tại quận Tân Phú cũng như những kết quả
đạt được của các hoạt động ấy. Trên cơ sở đó tác giả tiến hành nhận xét và đề
xuất các nhóm giải pháp xây dựng đời sống văn hoá trên quận Tân Phú, thành
phố Hồ Chí Minh.


5

- Đời sống văn hoá ở nông thôn huyện Chương Mỹ, thanh phố Ha Nội hiện
nay của Lê Thị Thanh Nhàn, luận văn thạc sĩ Văn hoá học, Học viện chính trị –
hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2011. Luận văn trình bày khái quát
những vấn đề lý luận về đời sống văn hoá và ý nghĩa của việc xây dựng đời sống
văn hoá đối với việc phát triển kinh tế – xã hội thời gian qua ở huyện Chương
Mỹ. Từ thực trạng đời sống văn hoá của một huyện thuộc ngoại thành Hà Nội
tác giả đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng đời
sống văn hoá vùng nông thôn mới Chương Mỹ.
- Đời sống văn hoá ở thanh phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng hiện nay của
Nguyễn Đình Hoàn, luận văn Thạc sĩ Văn hoá học, Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 2014. Công trình đã góp phần hệ thống hoá một số vấn đề lý
luận về văn hoá và đời sống văn hoá của một thành phố Bảo Lộc với đặc thù
riêng là đô thị miền núi, vừa thành thị vừa nông thôn. Trên cơ sở đánh giá thực
trạng đời sống văn hoá ở địa phương, luận văn đã đề xuất một số giải pháp và
kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng đời sống văn hoá ở thành phố với điều
kiện tự nhiên và vị trí địa lý rất đặc biệt.
- Đời sống văn hoá ở huyện Mỏ Cay Bắc, tỉnh Bến Tre hiện nay của Dương
Thị Đẹp, luận văn Thạc sĩ Văn hoá học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2015. Luận văn hệ thống hoá lý luận về đời sống văn hoá, nghiên

cứu cấu trúc của đời sống văn hoá, vai trò việc xây dưng đời sống văn hoá đối
với việc phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Đồng thời trên cơ sở khảo
sát, đánh giá thực trạng đời sống văn hoá của huyện, tác giả luận văn đã đề xuất
giải pháp nâng cao chất lượng việc xây dựng đời sống văn hoá trong thời gian
tới ở huyện Mỏ Cày Bắc.
- Luận văn Đời sống văn hóa của cư dân các xã ven biển ở huyện Ba Tri,
tỉnh Bến Tre hiện nay. Luận văn này đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn nghiên cứu đời sống văn hóa của cư dân ven biển, vận dụng lý luận nghiên
cứu thực trạng đời sống văn hóa cư dân các xã ven biển của huyện Ba Tri, tỉnh
Bến Tre, trên cơ sở đó khuyến nghị các giải pháp nhằm phát triển đời sống văn


6

hóa ở các xã biển, đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương trong giai đoạn
mới.
Những công trình nghiên cứu về đời sống văn hoá ở nhiều địa phương
khác nhau trên cả nước đều xuất phát từ nhiều gốc độ khác nhau, hướng đến
những đối tượng khác nhau. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một công trình
nghiên cứu liên quan đến đời sống văn hoá nông thôn mới của huyện Tân Phước
nói riêng. Tác giả đã kế thừa kết quả nghiên cứu từ các công trình trên để làm cơ
sở lý luận và vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn của đề tài “Đời sống văn hóa ở
các xã nông thôn mới thuộc huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang hiện nay ”
của luận văn.
3- Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đich
Nghiên cứu đời sống văn hóa ở các xã nông thôn mới thuộc huyện Tân
Phước, tỉnh Tiền Giang hiện nay và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả đời
sống văn hóa ở các xã nông thôn mới.
3.2 Nhiệm vụ

Để thực hiện những mục tiêu nêu trên, luận văn tập trung nghiên cứu
những vấn đề sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về đời sống văn hoá như: khái niệm,
cấu trúc, vai trò.
- Nghiên cứu khảo sát đánh giá thực trạng đời sống văn hoá ở các xã nông
thôn mới trên địa bàn huyện Tân Phước
- Đề xuất một số giải pháp phát triển đời sống văn hoá ở những xã nông
thôn mới.
4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng


7

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đời sống văn hoá của các xã nông thôn
mới thuộc huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang hiện nay.

4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về đời sống văn hoá ở 03 xã nông thôn mới
của huyện Tân Phước (Thạnh Hoà, Phú Mỹ, Tân Hoà Thành).
Về thời gian: vấn đề được nghiên cứu từ năm 2015 đến nay.
5- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được dựa trên các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu: Từ các bài viết, văn bản pháp quy, báo
cáo… có liên quan đến đời sống văn hóa nông thôn mới tiến hành phân tích,
tổng hợp các nguồn tư liệu để phục vụ cho quá trình triển khai các nội dung của
luận văn.
- Phương pháp điền dã: thực hiện đi thực tế quan sát thu thập thông tin về
đời sống văn hóa của người dân ở các xã nông thôn mới, chụp ảnh tư liệu nghiên
cứu.

- Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi: Tác giả luận văn xây
dựng 1 bảng hỏi và phát cho người dân ở 3 xã Thạnh Hoà, Phú Mỹ, Tân Hoà
Thành. Tổng số phiếu phát ra là 300 phiếu. Kết quả điều tra xã hội học được
tổng hợp làm cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng vấn đề.
6- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những vấn đề được đề cập trong đề tài sẽ làm rõ vấn đề đời sống văn hóa ở
các xã nông thôn mới, phân tích đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp nâng
cao đời sống văn hóa nông thôn mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.


8

Tài liệu này có thể sử dụng cho việc tham khảo sau này đối với những
người quan tâm đến vấn đề xây dựng đời sống văn hoá nông thôn mới trên địa
bàn huyện Tân Phước.

7- Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục thì
luận văn gồm có 03 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu đời sống văn hoá ở các
xã nông thôn mới thuộc huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang hiện nay.
- Chương 2: Thực trạng đời sống văn hoá ở các xã nông thôn mới thuộc
huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang hiện nay.
- Chương 3: Bàn luận về đời sống văn hoá của các xã nông thôn mới ở
huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU ĐỜI SỐNG VĂN

HOÁ Ở CÁC XÃ NÔNG THÔN MỚI THUỘC HUYỆN TÂN PHƯỚC,
TỈNH TIỀN GIANG
1.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.1. Những khái niệm cơ bản (văn hóa, đời sống văn hóa, nông thôn
mới)
1.1.1.1 Khái niệm Văn hoá
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Văn hóa là toàn bộ những hoạt động
sáng tạo và những giá trị của nhân dân một nước, một dân tộc về mặt sản xuất


9

vật chất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Khái niệm văn hóa
được hiểu theo nghĩa nhân văn rộng lớn. Văn hóa biểu tượng trong lý tưởng
sống, trong các quan niệm về thế giới và nhân sinh, tín ngưỡng, trong lao động
và đấu tranh, trong tổ chức đời sống, tạo dựng xã hội, thể hiện lý tưởng thẩm
mỹ. Có thể tìm thấy những biểu hiện của văn hóa trong các phương thức và công
cụ sản xuất, phương thức sở hữu, các thể chế xã hội, phong tục tập quán, giao
tiếp người người và người, trong trình độ học vấn và khoa học kỷ thuật, trong
trình độ sáng tạo và thưởng thức văn học nghệ thuật” [47, tr789].
Văn hóa là một vấn đề phức tạp được nhiều nhà khoa học thuộc các giai
đoạn lịch sử khác nhau và thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau quan tâm
nghiên cứu. Tùy theo hướng tiếp cận mà các nhà khoa học có thể đưa ra những
khái niệm văn hóa theo cách hiểu của mình. Với trên 400 định nghĩa văn hóa
đang tồn tại hiện nay, người ta có thể phân chia ra thành một số hướng tiếp cận
tiêu biểu sau đây:
- Hướng tiếp cận theo chức năng của văn hóa.
- Hướng tiếp cận theo giá trị, chuẩn mực của văn hóa
- Hướng tiếp cận theo phương thức hoạt động sản xuất vật chất

- Hướng tiếp cận theo ý nghĩa của văn hóa
- Hướng tiếp cận đề cao tính xã hội của văn hóa
- Hướng tiếp cận đề cao đạo đức, nhân cách con người.
Có rất nhiều định nghĩa, khái niệm văn hóa và rất nhiều cách hiểu khác
nhau về nội hàm của khái niệm này, cũng có tác giả phân chia các định nghĩa về
văn hóa theo một số nội dung sau:
- Văn hóa chính là hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình lịch
sử, hoặc văn hóa là những giá trị xã hội do con người sáng tạo ra.
- Văn hóa là mô hình các thiết chế xã hội.
- Văn hóa là những phương thức ứng xử của con người.


10

- Văn hóa với giáo dục, đào tạo con người.
Theo Unesco: “văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong
quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành
nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu – những yếu tố xác
định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Định nghĩa này nhấn mạnh vào hoạt động
sáng tạo của các cộng đồng người gắn liền với tiến trình phát triển có tính lịch
sử của mỗi cộng đồng trải qua một thời gian dài tạo nên những giá trị có tính
nhân văn phổ quát nhất, đồng thời có tính đặc thù của mỗi cộng đồng, bản sắc
riêng của từng dân tộc.
Với ý nghĩa đó văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người,
trong hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động sản xuất tinh thần, trong giao tiếp
ứng xử xã hội hay thái độ quan hệ với thiên nhiên. Như vậy có thể hiểu văn hóa
là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, nhằm
mục đích phục vụ cho sự tiến bộ của loài người. Văn hóa bao gồm 5 thành tố cơ
bản: biểu tượng, ngôn ngữ, hệ giá trị, chuẩn mực văn hóa và công nghệ của văn
hóa. Văn hóa có 5 chức năng chính: giáo dục, nhận thức, thẩm mỹ, dự báo và

giải trí.
Theo Hồ Chí Minh: “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa
học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về ăn,
mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hoá. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đơi
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [33, tr12]. Định nghĩa của Hồ Chí Minh giúp
chúng ta hiểu văn hoá cụ thể và đầy đủ hơn. Suy cho cùng mọi hoạt động của
con người trước hết đều vì “lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống”,
những hoạt động đó đã trải qua thực tiễn và thời gian được lập đi lập lại thành
những thói quen, tập quán, chắt lọc thành những chuẩn mực, những giá trị vật
chất và tinh thần được tích luỹ truyền từ đời này qua đời khác thành kho tàng


11

quí giá mang bản sắc riêng của mỗi cộng đồng, góp lại mà thành di sản văn hoá
của toàn nhân loại.
Ở một gốc độ khác người ta xem văn hoá như là một hệ thống các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, tích luỹ trong quá trình hoạt động
thực tiễn qua quá trình tương tác giữa con người với tự nhiên, xã hội và bản
thân. Văn hoá là của con người, do con người sáng tạo và vì lợi ích của con
người. Văn hoá được con người gìn giữ, sử dụng để phục vụ đời sống con người
và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Còn theo Đề cương văn hoá Việt Nam được công bố năm 1943 xác định
“Văn hoá gồm cả tư tưởng, văn học, nghệ thuật. Văn hoá là một trong ba mặt
trận: kinh tế, chính trị và văn hoá. Ba nguyên tắc vận động văn hoá nước Việt
Nam giai đoạn hiện nay là dân tộc, khoa học, đại chúng”. Như vậy, nói tới văn
hoá là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực bản chất người

nhằm hoàn thiện con người. Do đó, văn hoá có mặt trong mọi hoạt động của con
người, trên mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn và sinh hoạt tinh thần của xã hội.
Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đã xác
định nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng bao gồm toàn bộ các hoạt động
tinh thần của xã hội, từ tư tưởng, đạo đức, lối sống tới văn học nghệ thuật; thông
tin đại chúng; giáo dục – đào tạo; khoa học công nghệ; bảo tồn di sản văn hóa;
văn hóa các dân tộc thiểu số; xây dựng môi trường văn hóa, giao lưu văn hóa
quốc tế,… Đây là những lĩnh vực góp phần tạo nên nền tảng tinh thần của xã
hội. Nhìn một cách khái quát, văn hóa là khái niệm chỉ thuộc tính của con người
là sáng tạo, cải tạo hiện thực vươn tới những giá trị nhân văn, thúc đẩy sự tiến
bộ xã hội, là dấu hiệu để phân biệt loài người với loài vật, cá nhân này với cá
nhân khác, cộng đồng này với cộng đồng khác. Đồng thời cũng là khái niệm để
chỉ chất lượng và trình độ cuộc sống của con người.
Với các định nghĩa như trên văn hóa được nhìn nhận trên ba nội dung cơ
bản sau:


12

- Hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, được lưu
truyền, tích lũy trong lịch sử của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc cũng như toàn
nhân loại, chúng hợp thành thế giới văn hóa khác với thế giới tự nhiên.
- Hoạt động của con người, yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển
của văn hóa.
- Văn hóa là thước đo trình độ phát triển và thể hiện những đặc tính riêng
của mỗi dân tộc.
Như vậy, văn hóa xét từ nội dung bản chất nhất chính là trình độ phát triển
của con người bộc lộ qua các quan hệ xã hội của nó. Đó là quan hệ giữa con
người với tự nhiên, con người với xã hội và con người với chính bản thân nó.

Nói cách khác, văn hóa thể hiện trình độ người của các quan hệ xã hội, các
phương thức mà con người sử dụng để cải biến tự nhiên, cải tạo xã hội, hoàn
thiện bản thân theo khuynh hướng tiến bộ và nhân văn. Văn hóa vừa là thước đo
trình độ phát triển vừa là mật mã di truyền của mỗi dân tộc.
Kế thừa định nghĩa của các nhà khoa học, với sự phân tích như trên thì văn
hóa là:
Văn hóa la hệ thống các giá trị vật chất va tinh thần được sáng tạo,
tich lũy trong lịch sử nhờ quá trình hoạt động thực tiễn của con người.
Các giá trị được cộng đồng chấp nhận, vận hanh trong đời sống xã hội va
liên tiếp truyền lại cho thế hệ sau. Văn hóa thể hiện trình độ phát triển va
những đặc tinh riêng của mỗi dân tộc.
1.1.1.2 Khái niệm đời sống văn hoá
Cụm từ “đời sống văn hoá” được sử dụng phổ biến vào những năm cuối
thế kỷ XX. Ngày nay cụm từ này được sử dụng phổ biến trong các văn kiện,
nghị quyết của Đảng, các văn bản của nhà nước và trên các phương tiện thông
tin đại chúng, nhưng “đời sống văn hoá” được sử dụng với nhiều mục đích khác
nhau.


13

Theo tác giả Hoàng Vinh trong quyển “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây
dựng văn hoá” ở nước ta thì: “đời sống văn hoá là bộ phận của đời sống xã hội,
bao gồm các yếu tố văn hoá tĩnh tại cũng như các yếu tố văn hoá động thái. Xét
về một phương diện khác, đời sống văn hoá bao gồm các hình thức văn hoá
hiện thực và cả các hình thức văn hoá sinh hoạt tâm linh” [42,tr 268].
Còn tác giả Nguyễn Hữu Thức thì cho rằng: “đời sống văn hoá có thể hiểu
đó là tất cả những hoạt động của con người tác động vào đời sống vật chất, đời
sống tinh thần, đời sống xã hội để hướng con người vươn lên theo qui luật cái
đẹp, của chuẩn mực giá trị chân, thiện, mỹ đào thải những biểu hiện tiêu cực tha

hoá của con người” [38, tr.19].
Trong quyển “xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở” của Viện văn hoá, đưa
ra định nghĩa: “Đời sống văn hoá nói chung là một tổng hợp những yếu tố vật
thể văn hoá nằm trong những cảnh quan văn hoá, những yếu tố hoạt động văn
hoá con người, những sự tác động lẫn nhau trong đời sống xã hội để tạo ra
những quan hệ có văn hoá trong cộng đồng người, trực tiếp làm thành lối sống
của con người trong xã hội” [30, tr 28] Đến đại hội lần thứ V (1982), Đảng ta
xác định rõ hơn nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hoá, nhất là đời sống văn hoá
ở cơ sở, coi đó là một chủ trương quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong xây
dựng văn hoá và con người: “Một nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hoá
là đưa văn hoá thâm nhập vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân. Đặc biệt chú
trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, công trường,
lâm trường, mỗi đơn vị lực lượng vũ trang, công an nhân dân, mỗi cơ quan,
trường học, bệnh viện, cửa hàng, mỗi xã, hợp tác xã, phường, ấp, đều có đời
sống văn hoá”. Sau đại hội V, xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở trở thành
phong trào phát triển sâu rộng trên địa bàn dân cư, đơn vị sản xuất, công tác, học
tập tác động trực tiếp đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức và nhu cầu hưởng thụ,
sáng tạo văn hoá trong đời sống của mọi tầng lớp nhân dân. Từ đó khái niệm về
đời sống văn hoá ngày một sáng tỏ. Năm 1987, trong cuốn Đường lối văn hoá
văn nghệ của Đảng cộng sản Việt Nam đã luận giải: “Đời sống văn hoá chính là
những hành vi sống biểu hiện một trình độ văn hoá, bao gồm các hoạt động của


14

xã hội, của tập thể, của từng cá nhân, nhằm mục đích văn hoá tức là hoàn thiện
con người”
Đời sống văn hoá cũng được xem như là môi trường văn hoá là cầu nối
giữa văn hoá xã hội và văn hoá cá nhân. Đời sống văn hoá bao giờ cũng có tính
kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước tạo ra sự ổn định

và tiền đề khẳng định những giá trị mới. Nó là một tổng thể những yếu tố văn
hoá vật thể, phi vật thể và nhân cách văn hoá, cảnh quan văn hoá bao quanh con
người, gây ra sự tác động lẫn nhau giữa các cá nhân trên phạm vi không gian,
thời gian nào đó, trực tiếp hình thành nên lối sống và nếp sống của con người.
Đời sống văn hoá bao giờ cũng có tính đổi mới, bởi lẽ con người luôn luôn có
khát vọng vươn lên cái tốt đẹp, chỉ có mạnh dạn sáng tạo, mạnh dạn cải đổi mới
mong đáp ứng nhu cầu càng cao về vật chất và tinh thần của con người.
Theo đó đời sống văn hoá là sự hiện diện, tồn tại và phát triển của đời sống
tinh hần trong toàn bộ hoạt động thực tiễn xã hội. Đó là một bộ phận của đời
sống xã hội, gắn với những giá trị chân – thiện - mỹ, gắn với mọi sản phẩm vật
chất và tinh thần với mọi hoạt động của con người trong mọi lĩnh vực xã hội.
Tóm lại:
Đời sống văn hoá là hiện thực sinh động các hoạt động của con người
trong môi trường sống nhằm để duy trì, đồng thời tái tạo các sản phẩm văn
hoá vật chất, văn hoá tinh thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất
định nhằm biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới và nâng
cao chất lượng cuộc sống của con người.
1.1.1.3 Khái niệm nông thôn mới
* Khái niệm nông thôn
- Theo từ điển Bách khoa: Nông thôn là một phần lãnh thổ của một nước
hay một đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, có môi trường tự
nhiên, hoàn cảnh kinh tế xã hội, điều kiện sống khác biệt với thành thị và
dân cư chủ yếu là làm nông nghiệp.


15

- Còn theo Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn: Nông thôn là một phần
lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được
quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã.


* Khái niệm nông thôn mới
Nông thôn mới có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ
tầng được xây dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo qui hoạch, gắn kết
hợp lý giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nông thôn ổn
định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ. Sức
mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao, đảm bảo giữ vững an ninh
chính trị và trật tự xã hội.
Là nông thôn mà trong đó đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của
người dân không ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông
thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên
tiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
1.1.1.4 Xây dựng nông thôn mới
Việc xây dựng nông thôn mới nhằm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế của
quê hương, đất nước trong giai đoạn mới. Sau thời gian thực hiện đường lối đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên nhiều thành tựu đạt được chưa tương
xứng với tiềm năng và lợi thế: Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, sức
cạnh tranh thấp, chuyển giao khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn
hạn chế. Nông nghiệp nông thôn phát triển thiếu qui hoạch, kết cấu hạ tầng như
giao thông, thuỷ lợi, trường học, trạm y tế, cấp nước,… còn yếu kém, môi
trường ngày càng ô nhiễm. Đời sống vật chất tinh thần, tinh thần của người nông
dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành
thị còn lớn phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Không thể có một nước công


16

nghiệp nếu nông nghiệp và nông thôn còn lạc hậu và đời sống nhân dân còn
thấp. Vì vậy xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng

hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương, đất nước.
Đồng thời góp phần cải thiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người
dân sinh sống ở địa bàn nông thôn.
Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng
đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang
trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ); có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu
nhập đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.
Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân,
của cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới không chỉ là vấn đề kinh tế – xã hội,
mà là vấn đề kinh tế – chính trị- văn hoá – xã hội tổng hợp. Xây dựng nông
thôn mới giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh
Hiện nay, kết cấu hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, trạm, chợ, thủy
lợi,...) còn nhiều yếu kém, vừa thiếu, vừa không đồng bộ; nhiều hạng mục công
trình đã xuống cấp, tỷ lệ giao thông nông thôn được cứng hóa thấp; giao thông
nội đồng ít được quan tâm đầu tư; hệ thống thủy lợi cần được đầu tư nâng cấp;
chất lượng lưới điện nông thôn chưa thực sự an toàn; cơ sở vật chất về giáo dục,
y tế, văn hóa còn rất hạn chế, mạng lưới chợ nông thôn chưa được đầu tư đồng
bộ, trụ sở xã nhiều nơi xuống cấp. Mặt bằng để xây dựng cơ sở hạ tầng nông
thôn đạt chuẩn quốc gia rất khó khăn, dân cư phân bố rải rác, kinh tế hộ kém
phát triển.
Sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, bảo quản chế biến còn hạn chế,
chưa gắn chế biến với thị trường tiêu thụ sản phẩm; chất lượng nông sản chưa
đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa
học công nghệ trong nông nghiệp còn chậm, tỷ trọng chăn nuôi trong nông
nghiệp còn thấp; cơ giới hóa chưa đồng bộ.


17


Thu nhập của nông dân thấp; số lượng doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn còn ít; sự liên kết giữa người sản xuất và các thành phần kinh
tế khác ở khu vực nông thôn chưa chặt chẽ. Kinh tế hộ, kinh tế trang trại, hợp
tác xã còn nhiều yếu kém. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn cao, cơ hội có việc
làm mới tại địa phương không nhiều, tỷ lệ lao động nông lâm nghiệp qua đào tạo
thấp; tỷ lệ hộ nghèo còn cao.
Đời sống tinh thần của nhân dân còn hạn chế, nhiều nét văn hóa truyền
thống đang có nguy cơ mai một (tiếng nói, phong tục, trang phục...); nhà ở dân
cư nông thôn vẫn còn nhiều nhà tạm, dột nát. Hiện nay, kinh tế - xã hội khu vực
nông thôn chủ yếu phát triển tự phát, chưa theo quy hoạch. Mục tiêu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, một nước công nghiệp không
thể để nông nghiệp, nông thôn lạc hậu, nông dân nghèo khó; chưa có nông thôn
mới thì chưa thể có một nước công nghiệp.
Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước cần 3 yếu
tố chính: đất đai, vốn và lao động kỹ thuật. Xây dựng nông thôn mới sẽ triển
khai quy hoạch tổng thể, đào tạo nguồn nhân lực mới có thể đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa.
1.1.2. Cấu trúc của đời sống văn hóa
Cấu trúc của đời sống văn hoá có 02 mặt gồm:
1.1.2.1 Cấu trúc bề mặt (diện mạo) của đời sống văn hoá
Trong mối quan hệ giữa con người với văn hoá thì con người luôn ở trạng
thái chủ động sáng tạo ra văn hoá và chủ động truyền bá văn hó; ngược lại văn
hoá cũng không phải ở trạng thái tĩnh mà nó luôn luôn tác động trở lại con người
dẫn đến quá trình thay đổi của chính con người. Xét theo mối quan hệ trên có
thể thấy rằng khi nào con người thực hiện các hoạt động văn hoá thì khi đó con
người có đời sống văn hoá. Hoạt động văn hoá rất đa dạng, con người có khả
năng tham gia vào tất cả các lĩnh vực văn hoá, do đó, đời sống văn hoá cũng rất
đa dạng. Tuy nhiên có thể khái quát các hoạt động văn hoá thành ba nhóm: các
hoạt động tiếp nhận – hưởng thụ văn hoá; các hoạt động thực hành – truyền vá



18

văn hoá; và các hoạt động sáng tạo văn hoá. Ba nhóm hoạt động này luôn có
mối quan hệ mật thiết với nhau: con người có thể vừa sáng tạo vừa thực hànhtruyền bá hoặc tiếp nhận – hưởng thụ vừa thực hành- truyền bá, trong quá trình
thực hành - truyền bá cũng đồng thời có tiếp nhận - hưởng thụ và sáng tạo văn
hoá. Ba nhóm hoạt động này có thể được coi là đã bao quát được toàn bộ các
hoạt động văn hoá đa dạng và thể hiện được tương đối đầy đủ cấu trúc bền mặt
(diện mạo) của đời sống văn hoá.
Các hoạt động tiếp nhận – hưởng thụ văn hoá
Con người luôn tiếp nhận các yếu tố văn hoá chính từ môi trường sống của
mình. Ngay từ khi mới sinh ra, con người đã có sự tiếp nhận này. Tiếng hát đưa
nôi là yếu tố văn hoá đầu đời đã góp phần làm cho mỗi con người “lớn lên” và
trở thành một nhân cách văn hoá. Trong suốt cuộc đời mình, con người tiếp nhận
văn hoá không ngừng, không nghỉ. Sự tiếp nhận ấy chỉ dừng lại khi trái tim
ngừng đập và sự sống kết thúc. Văn hoá được con người tiếp nhận từ nhiều
nguồn, trên nhiều phương diện, theo nhiều thành tố khác nhau. Tuy nhiên, mỗi
con người tuỳ theo diện tiếp xúc của mình với môi trường văn hoá mà có sự tiếp
nhận rộng, hẹp, ít, nhiều. Thậm chí, cùng sống chung trong một môi trường văn
hoá những người khác nhau cùng có sự tiếp nhận văn hoá khác nhau. Nguyên
nhân có thể do trình độ, do khả năng hoặc do sở thích. Như vậy, sự tiếp nhận
văn hoá của con người có tính đa dạng, tức có sự khác nhau trong mỗi trường
hợp. Đó là đời sống văn hoá cá nhân. Bên cạnh đời sống văn hoá cá nhân, còn
có đời sống văn hoá cộng đồng.
Có hai loại tiếp nhận văn hoá. Loại thứ nhất là tiếp nhận bị động, nghĩa là
văn hoá tác động đến con người một cách tự nhiên. Ví dụ hàng ngày mỗi con
người phải giao tiếp, ứng xử với đồng loại. Những ứng xử đẹp của đồng loại đã
được người đó tiếp nhận một cách tự nhiên và trở thành văn hoá ứng xử của
chính mình. Khi tham gia giao thông mọi người đều nghe tiếng loa tuyên truyền

về văn hoá giao thông. Con người đã tiếp nhận sự tuyên truyền này một cách bị
động để chuyển hoá nó thành văn hoá cá nhân hay văn hoá cộng đồng.


19

Loại thứ hai là tiếp nhận chủ động. Con người có nhu cầu cần được tiếp
nhận văn hoá nên đã chủ động lựa chọn một số yếu tố có sẵn trong môi trường
văn hoá nên đã chủ động lựa chọn một số yếu tố có sẵn trong môi trường văn
hoá.

Các hoạt động thực hanh – truyền bá văn hoá
Thực hành văn hoá là sự tái hiện các hình thức văn hoá bằng các hoạt động
của con người. Thực hành văn hoá diễn ra thường xuyên trong đời sống. Mỗi
con người trong cuộc đời mình đều ít nhiều tham gia các thực hành văn hoá. Có
ba loại thực hành văn hoá: thực hành văn hoá tâm linh, thực hành văn hoá sinh
hoạt và thực hành văn hoá lao động. Thực hành văn hoá tâm linh được thể hiện
qua các nghi lễ mang tính linh thiêng. Văn hoá sinh hoạt là một lĩnh vực hỗn
hợp, bao gồm trong đó nhiều thành phần khác nhau. Có thể nói ngoại trừ văn
hoá tâm linh và văn hoá lao động, những cái còn lại đều có thể xếp vào văn hoá
sinh hoạt. Có thể kể ra một số hình thức của văn hoá sinh hoạt như văn hoá giao
tiếp – ứng xử, văn hoá vui chơi, giải trí, nghệ thuật, văn hoá thời trang và ẩm
thực v.v.. Còn thực hành văn hoá lao động là thực hành về phương diện kỹ thuật,
mỹ thuật để tạo ra sản phẩm.
Thực hành văn hoá thường gắn liền với truyền bá văn hoá. Thực hành văn
hoá độc lập chỉ diễn ra khi cá nhân hoạt động riêng biệt. Rất nhiều thực hành
văn hoá khác do nhiều cá nhân đảm nhiệm, có sự liên hệ, gắn kết với nhau.
Trong những trường hợp này, các cá nhân học hỏi lẫn nhau, bắt chước lẫn nhau
và như thế có sự truyền bá văn hoá. Chỉ cần một người múa và một người xem
là đã có sự truyền bá văn hoá rồi. Trong thực tế, truyền bá văn hoá diễn ra ở mọi

nơi, mọi lúc gắn liền với các hoạt động thực hành văn hoá. Vì thế đây cũng là
một thuật ngữ kép: thực hành – truyền bá văn hoá.
Các hoạt động sáng tạo văn hoá
Hoạt động sáng tạo văn hoá là một hoạt động đặc thù, tạo nên những yếu tố
văn hoá mới hoặc tạo nên những chất lượng mới cho văn hoá, làm biến đổi văn


20

hoá. Tuy nhiên những nền văn hoá này phải hàng nghìn năm mới có được. Vì
thế sáng tạo văn hoá là sự nghiệp lâu dài, bền bỉ của con người. Sáng tạo văn
hoá có 2 loại là cải tiến cái cũ và sáng tạo ra cái mới

1.1.2.2 Cấu trúc bề sâu của đời sống văn hoá
Sở dĩ gọi các yếu tố dưới đây là các yếu tố thuộc cấu trúc bề sâu của đời
sống văn hoá, bởi vì chúng hoàn toàn vô hình, chỉ cảm nhận được mà không thể
nhận thức được bằng tri giác.
- Các giá trị nhận thức: Đó là hệ thống tri thức, kinh nghiệm sống thể hiện
sự từng trải của con người. Mỗi con người trong quá trình sống đều có những
trải nghiệm riêng.
- Các giá trị tư tưởng: Quá trình nhận thức dẫn đến việc hình thành một hệ
thống quan niệm trong con người. Những quan niệm này chi phối các chiều
hướng suy nghĩ và khẳng định sự đúng, sai của nhận thức. Đây chính là các giá
trị của tư tưởng bởi chúng không phải là những suy nghĩ thông thường mà là
những suy nghĩ tập trung, mang tính định hướng, thể hiện quan niệm sống hay lẻ
sống.
- Giá trị tình cảm: Đã là con người thì đương nhiên phải có đời sống tình
cảm.
Mục tiêu và nội dung cốt lõi nhất trong thực hiện văn hóa nông thôn mới là
xây dựng con người về nhân cách, đạo đức, lối sống và kỹ năng nghề nghiệp.

văn hóa và con người là hai mặt của một vấn đề. Có thể nói xây dựng đời sống
văn hóa nông thôn mới là một định hướng đúng đắn trong quá trình xây dựng
nền văn hóa Việt Nam, đồng thời cũng là phương hướng quan trọng trong thực
hiện chiến lược con người. Chính vì những lẽ trên cần phải gắn kết việc xây
dựng văn hóa với xây dựng giáo dục con người, hình thành lối sống văn minh,


21

hiện đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng nông thôn mới phải gắn chặt
với xây dựng lối sống mới của những chủ thể đời sống văn hóa nông thôn mới.
1.1.3. Vai trò của đời sống văn hóa trong quá trình xây dựng nông thôn
mới
Trong công cuộc xây dựng nông thôn mới, văn hoá giữ vai trò rất quan
trọng, bởi vì văn hoá vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển và mục
đích cuối cùng của xây dựng nông thôn mới chính là nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của người dân.
Văn hóa góp phần xây dựng môi trường văn hóa: thực hiện đời sống văn
hóa là cơ sở có tác động to lớn đối với việc xây dựng con người và xây dựng
môi trường văn hóa. Để việc thực hiện đời sống văn hóa và phát triển văn hóa ở
cơ sở đạt kết quả cao và bền vững thì yếu tố quan trọng then chốt là không thể
tách rời tiêu chí xây dựng con người văn hóa, tập trung vào hành vi ứng xử, lối
sống, lề lối làm việc trong các cơ quan trường học, địa bàn dân cư và trong mỗi
gia đình. Trong mỗi hoạt động của đời sống văn hóa đều nhằm xây dựng con
người phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, có văn hóa,
thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, nhân nghĩa. Thực
hiện đời sống văn hóa ở cơ sở tốt sẽ tác động tích cực đến xây dựng con người,
chống lại các tiêu cực về tệ nạn xã hội ở cơ sở, do đó cần tổ chức các hoạt động
vui chơi giải trí lành mạnh, vừa tạo điều kiện để phát triển toàn diện con người,
vừa giảm thiểu được những hoạt động không lành mạnh trong đời sống xã hội.

Thực hiện đời sống văn hóa ở cơ sở tốt sẽ tác động tích cực tới các yếu tố
cấu thành môi trường văn hóa ở địa phương và làm cho môi trường văn hóa
ngày càng trong sạch.
Văn hóa giúp ổn định chinh trị xã hội : trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đề xây dựng và phát triển
kinh tế, xem kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Cùng với việc chăm lo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân, Đảng ta còn quan tâm tới việc làm cho người dân


22

có một cuộc sống ấm no và hạnh phúc. Tạo cho người dân có một đời sống văn
hoá tốt đẹp trong cộng đồng trước hết là tạo ra một môi trường văn hoá lành
mạnh, phát huy tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của người dân
trong xây dựng và củng cố bộ máy nhà nước trong sạch, đảm bảo quyền tự do
dân chủ của người dân trước pháp luật, chống tình trạng cửa quyền, hách dịch,
tạo điều kiện để người dân được tham gia giám sát các hoạt động của nhà nước.
Thực hiện đời sống văn hoá phải gắn liền với cải cách hành chính, tạo ra một
phong cách làm việc mới của nhà nước. Đối với việc thực hiện đời sống văn hoá
ở những xã nông thôn mới đây là cơ hội đồng thời cũng là thách thức lớn trong
việc mở cửa và giao lưu với thế giới nhưng làm sao vẫn giữ vững được bản sắc
dân tộc.
Trong bối cảnh đất nước hiện nay, việc thực hiện đời sống văn hoá ở những
xã nông thôn mới không chỉ ảnh hưởng tích cực đến mọi hoạt động sáng tạo của
con người mà còn làm cho họ có vai trò quan trọng trong việc phát huy mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực. Đời sống văn hoá không đứng ngoài phát triển mà
gắn liền với phát triển, duy trì phát triển bền vững và điều tiết sự phát triển đó.
Phát triển kinh tế xã hội: khi xác định văn hoá vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự phát triển. Điều đó cho thấy sự phát triển của xã hội xét đến cùng

được biểu hiện ở sự phát triển của đời sống văn hóa hay có thể nói chất lượng
đời sống văn hóa là thước đo trình độ phát triển của xã hội. Thực hiện đời sống
văn hóa ở cơ sở tốt là giải quyết tốt những vấn đề xã hội nền tảng vật chất và
nền tảng tinh thần phải cùng được xây dựng hài hòa và tương tác lẫn nhau để
phát triển văn hóa, xây dựng những con người phát triển toàn diện.
Còn theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) văn hóa có vai trò quan
trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước vì các lý do sau:
Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ những hoạt động có ý thức của
con người. Bác Hồ đã viết “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống,
loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày
về mặc, ăn ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh


23

đó là văn hóa”. Như vậy văn hóa đã bao trùm toàn bộ mọi mặt của đời sống xã
hội. Xây dựng văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước.
Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng nhưng hẹp hơn nghĩa nêu trên bao gồm toàn
bộ đời sống tinh thần của xã hội với những lĩnh vực chủ yếu như: tư tưởng, đạo
đức, lối sống; giáo dục và khoa học; văn học nghệ thuật; thông tin đại chúng;
giao lưu văn hóa; thể chế văn hóa… Đó là những mặt cơ bản nhất trong đời sống
tinh thần của con người, tác động trực tiếp và hướng dẫn các hành vi của con
người. Vì vậy, xây dựng văn hóa chính là xây dựng con người. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người
xã hội chủ nghĩa”.
Trong thời đại cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay, nhân tố con
người với khả năng trí tuệ và lao động sáng tạo của mình là nhân tố quyết định
sự phát triển của một đất nước, một dân tộc. Phát triển văn hóa còn là xây dựng,

bồi dưỡng và phát huy tiềm năng trí tuệ của con người và cả dân tộc.
Cùng với phát triển của kinh tế - xã hội, nhu cầu vật chất và văn hóa của
nhân dân không ngừng tăng lên. Nhu cầu vật chất dù sao cũng có hạn, còn nhu
cầu về văn hóa và tinh thần có thể nói là vô hạn. Việc phát triển văn hóa vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Tóm lại văn hóa có một vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng và phát
triển nông thôn mới. Nhưng văn hóa trong xây dựng nông thôn mới là một vấn
đề rộng lớn và phải được hiểu một cách đầy đủ ở chỗ: Xây dựng nông thôn mới
cũng là xây dựng một nền văn hóa nông thôn mới với những đặc thù riêng mà ở
đó văn hóa thể hiện được mục tiêu cao cả: vì con người, sự phát triển bền vững.
Mục tiêu chúng ta cần vươn tới và thực hiện là xây dựng một nông thôn mới
hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Văn hóa là một dòng chảy,
khai thác và phát huy những giá trị của văn hóa làng xã, văn hóa truyền thống,
hệ thống di sản, di tích văn hóa,… trong việc thực hiện mục tiêu xây dựng nông
thôn mới là một đảm bảo để nông thôn mới phát triển mà vẫn giữ được bản sắc
riêng ấy.


24
1.2 TỔNG QUAN VỀ CÁC XÃ NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN TÂN PHƯỚC

1.2.1. Khái quát về huyện Tân Phước
1.2.1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên va dân số
Huyện Tân Phước được thành lập vào tháng 8 năm 1994, theo Nghị định
số 68/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ, trên cơ sở tách ra từ một phần đất
thuộc huyện Cai Lậy, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang và một phần đất của
tỉnh Long An; huyện Tân Phước cách trung tâm thành phố Mỹ Tho khoảng 25
km về phía Tây Bắc. Ranh giới hành chính: Phía Đông giáp huyện Châu Thành,
Tiền Giang và tỉnh Long An; Phía Tây giáp huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang và
tỉnh Long An; Phía Nam giáp huyện Châu Thành, huyện Cai Lậy, thị xã Cai Lậy

tỉnh Tiền Giang; Phía Bắc giáp tỉnh Long An. Diện tích tự nhiên khoảng 33,2
km2, được chia thành 13 đơn vị hành chính cơ sở (12 xã và 01 thị trấn), trong đó
thị trấn Mỹ Phước là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện.
Dân số toàn huyện đến cuối năm 2018 là 64.624 người, dân cư đa phần từ
nhiều địa phương khác trong và ngoài Tỉnh đến lập nghiệp khi mới thành lập
Huyện. Thành phần dân tộc chủ yếu người Kinh và một tỷ lệ rất nhỏ dân tộc
thiểu số sống đan xen như Khơme, Hoa. Mật độ dân số bình quân khoảng 189
người/km2 (riêng khu vực thị trấn Mỹ Phước mật độ dân số khoảng 1.006
người/km2; mật độ dân số thấp nhất là xã Thạnh Hòa, khoảng 33 người/km2).
Huyện Tân Phước thuộc tiểu vùng Đồng Tháp Mười, đất đai hầu hết là
nhóm đất phèn, được hình thành từ trầm tích đầm lầy ven biển rất giàu hữu cơ.
Nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu chung trong
vùng miền Tây Nam Bộ, khí hậu chia làm hai mùa mưa - nắng rõ rệt. Mùa mưa
từ tháng 5 đến tháng 11; mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ
trung bình năm từ 27 - 290C, nhiệt độ cao nhất tương ứng với thời kỳ khô hạn
khoảng 37 - 380C, biên độ nhiệt dao động giữa ngày và đêm từ 6 - 7 0C. Lượng
mưa trung bình hàng năm khoảng 1.438mm, lượng mưa nhiều tập trung từ
tháng 5 đến tháng 11, kết hợp với lũ xâm nhập từ tháng 9 đến tháng 11 hàng
năm làm tăng nguy cơ ngập úng các ô bao sản xuất nông nghiệp.


25

Toàn Huyện có địa hình bằng phẳng với cao độ trung bình từ 0,6 - 0,7m.
Khu vực có địa hình cao nhất từ 0,7m – 1m nằm ở phía Đông Bắc thuộc xã Phú
Mỹ và xã Tân Hòa Thành, là dấu vết của giồng cát bồi.
Thủy triều hệ thống kênh rạch trên địa bàn chịu ảnh hưởng qua 2 dòng
kênh chính là kênh Nguyễn Tấn Thành và kênh Nguyễn Văn Tiếp. Đây là 2
hướng tiêu phèn, xả lũ từ huyện ra sông Tiền và sông Vàm Cỏ Tây; đồng thời
cũng là 2 hướng xâm nhập mặn chính hàng năm (hướng xâm nhập mặn từ sông

Vàm Cỏ Tây qua các tuyến kênh Bắc Đông, kênh Trương Văn Sanh, kênh
Nguyễn Văn Tiếp; hướng xâm nhập mặn từ sông Tiền qua ngã kênh Nguyễn
Tấn Thành, Bảo Định - Bến Chùa - Chợ Bưng) gây ảnh hưởng rất lớn đến sản
xuất nông nghiệp.
Bên cạnh lũ và xâm nhập mặn, huyện Tân Phước còn chịu ảnh hưởng từ
phèn. Toàn bộ diện tích của Huyện chịu ảnh hưởng phèn nội tại và phèn từ tỉnh
Long An, Đồng Tháp đổ về, nhất là khu vực hai bên kênh Tràm Mù và vùng
trũng Tân Lập có độ phèn rất cao.
Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của Huyện có thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp theo hướng chuyên canh (đặc biệt là cây khóm, khoai mỡ và lúa); tài
nguyên sinh vật phong phú, thuận lợi phát triển du lịch sinh thái… Tuy nhiên,
điều kiện tự nhiên cũng có khó khăn do đất thấp, trũng, phèn, nguy cơ xâm
nhập mặn cao nên việc sản xuất nông nghiệp cần chi phí đầu tư nhiều và phải
đối mặt với nhiều rủi ro.
1.2.1.2. Tình hình phát triển kinh tế va văn hoá xã hội.
Về kinh tế: Kinh tế chủ yếu của Huyện là nông nghiệp, giá trị sản xuất khu
vực nông - lâm - ngư nghiệp hiện chiếm tỷ trọng hàng đầu trong cơ cấu giá trị
sản xuất (khoảng 44,5%), tăng bình quân 22,9%/năm (giai đoạn 2015 – 2018).
Sản xuất nông nghiệp tập trung vào một số cây trồng chủ lực như: khóm
(16.500 ha); lúa (6.700 ha); khoai mỡ (420 ha); thanh long (300 ha). Đặc biệt
vùng chuyên canh cây khóm nguyên liệu được hoàn thiện hạ tầng đảm bảo an
toàn sản xuất khi có lũ; năng suất, sản lượng, hiệu quả kinh tế ngày càng được
nâng cao, chiếm tỷ trọng hàng đầu trong ngành trồng trọt. Chăn nuôi gia súc,


×