Tải bản đầy đủ (.pdf) (227 trang)

Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.93 MB, 227 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯÒNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÀO VĂN HỘI

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ
TRONG ĐIỂU KIỆN KINH TÊ THỊ TRƯỜNG ở VIỆT mm
m

m

m

Chuyên ngành'. Luật kinh tẽ
M ã s ố : 5. 05.15

THƯ VI ỆN
TRUỘNG ĐẠI HỌC L^ÂĨ^HẢ NỘI
PHÒNG GV _

LUẬN ÁN TIẾN Sĩ LUẬT HỌC







Người hướng dãn khoa học: 1. TS.Trần Ngọc Dũng
2. TS. Nguyễn Văn Dũng

HÀ NỘI - 2003


LỜ I CA M ĐOAN

T ô i xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các s ố liệu nêu
trong luận ấn là trung thực. N hữ ng kết luận
khoa học của luận án chưa từng được ai
công b ố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đào V ăn Hội


M ỤC LỤC

ang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỂ LÝ LUẬN VỂ TRANH CHẤP KINH TẾ

8


VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ TRONG NỂN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ở VIỆT NAM

Tranh chấp kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nehĩa ở Việt Nam
Giải quyết tranh chấp kinh tế và những phươns thức giải quyết
tranh chấp kinh tế

8
31

Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam đến tranh chấp kinh tế và giải quyết tranh
chấp kinh tế

67

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH CỦA VIỆT

80

NAM VỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH TẾ

Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế theo thủ tục
thương lượne và trung gian hòa giải
Thực trạng pháp luật giải quyết tranh chấp kinh tế theo thủ tục
trọng tài

80


Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh tế theo thủ
tục tư pháp

110

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

138

KINH TẾ TRONG NEN k in h t ế t h ị t r ư ờ n g

ở v ệ t nam

Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp
kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
kinh tế
Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp kinh tế ở Việt Nam

144
152
196

KẾT LUẬN
NHỮNG CÔNG TRÌNH LEÊN QUAN ĐEN l u ậ n

138


án đã được cô ng

Bố

199

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

200

PHỤ LỤC

213


DANH MỤC NHŨNG CHỮ VIẾT TẮT

HĐKT

Hợp đồng kinh tế

LTCTAND

Luật tổ chức Tòa án nhân dân

PLTTGQCVADS

Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

PLTTGQCVAKT


Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinhh tế

TAKT

Tòa án kinh tế

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TCKT

Tranh chấp kinh tế

TKT

Toà Kinh tế

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TTTTKT

Trung tâm Trọng tài kinh tế


ÌT 1T Q T V N

Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TIÊNG ANH
C hữ
viết tắt

Tiếng Việt

Tiêng Anh

AAA

American Arbitration Association Hiệp hội trọng tài Mỹ

ADR

Altemative Disputes Resolution


Giải quyết tranh chấp bằng các
biện pháp thay thế

AIA

ASEAN Investment Area

Hiệp định khung về đầu tư ASEAN

APEC

Asia - Pacific Economic Cooperation Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dươna

ASEAN

Association of South - East Asian Hiệp hội các nước Đôns Nam Á
Nations

ASEM

Asia - Europe Summit Meetins

CEDR

Cente of Enaland Dispute Resolution Trung tâm giải quyết tranh chấp
của Anh

DSB

Dispute Settlement Body


Cơ quan giải quyết tranh chấp

DSM

Dispute Settlement Mechanism

Cơ chế giải quyết tranh chấp

DSU

Dispute Settlement Understanding Thỏa thuận về cơ chế si ải quyết
tranh chấp

HKIAC

Hongkong International Arbitration Trung tâm trọns tài quốc tế Hồng
Centre
Kông

ICC

International Chamber of Commerce Phòng thương mại quốc tế

ICSID

The International Centre for Trung tâm quốc tế giải quyết các
Settlement of Investment Disputes tranh chấp đầu tư

IMF


International Monetary Foundation Quỹ tiền tệ quốc tế

LCIA

London Court of
Arbitration Centre

MIGA

Multilateral Investment Guarantee Cơ quan bảo hộ đầu tư đa biên
Agency

PCA

Permanent Court of Arbitration

UNCIT
RAL

United Nations Comission For ủ y ban Luật thương mại quốc tế
International Trade Law
của Liên hợp quốc

WB

World Bank

Ngân hàng thế giới


WTO

World Trade Orsanization

Tổ chức thương mai thế 2ĨỚÍ

Diễn đàn hợp tác Á - Âu

International Tòa án trọng tài quốc tế Luân Đôn

Tòa án trọng tài thường trực


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Việt
Nam đã làm cho các quan hệ kinh tế trở nên sôi động, đa dạng và phức tạp.
Cũng vì vậy mà tranh chấp kinh tế (TCKT) phát sinh ngày một nhiều hơn, đa
dạng về chủng loại và phức tạp về nội dung. Các TCKT phát sinh đòi hỏi phải
đuợc giải quyết thỏa đáng bằng một phương thức thích hợp nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, góp phần tạo dựng môi trường kinh
doanh thuận lợi, lành mạnh. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc giải quyết
TCKT mà pháp luật về giải quyết TCKT luôn được coi là một bộ phận cấu
thành quan trọng của pháp luật kinh tế. Quá trình đổi mới toàn diện đất nước
với trọng tâm là cải cách kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập
trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động sâu
sắc đến hệ thống pháp luật kinh tế nói chung và pháp luật về giải quyết TCKT

nói riêng. Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc giải quyết TCKT phải chính
xác, nhanh chóng, dân chủ, công bằng và hiệu quả. Yêu cầu đổi mói pháp luật
về giải quyết TCKT ngày càng trở nên cấp thiết, nhất là khi công cuộc cải
cách kinh tế ở nước ta đang đi vào cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Phúc đáp các yêu cầu thực tiễn đặt ra cho công tác giải quyết TCKT,
cơ chế giải quyết TCKT mới đã được thiết lập với sự đa dạng về phương thức
giải quyết, đơn giản, linh hoạt về thủ tục áp dụng. Bên cạnh các phương thức
giải quyết tranh chấp theo sự thỏa thuận tự nguyện của các bên là thương
lượng và trung gian hòa giải thì các tranh chấp kinh tế còn có thể được giải
quyết theo thủ tục tư pháp hoặc trọng tài (phi Chính phủ). Để tạo cơ sở pháp lý
cho hoạt động giải quyết TCKT, hàng loạt văn bản pháp luật đã được ban hành
như: Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
(LTCTAND) năm 1993, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm


2

1994, Nghị định số 116/CP về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế năm
1994, Quyết định số 240/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức Trung tâm
trong tài quốc tế Việt Nam năm 1993... Trong gần 10 năm qua, hoạt động giải
quyết TCKT đã thu được kết quả bước đầu đáng khích lệ, tạo sự tin tưởng, yên
tâm đầu tư của các chủ thể kinh doanh, thúc đẩy sự phát triển các quan hệ kinh
tế của cơ chế thị trường, bảo đảm trật tự, kỷ cương trons hoạt động kinh tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang có những chuyển
biến sâu sắc với "chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" [21, tr. 86] và từng
bước chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới thì hoạt động giải quyết
TCKT ngày càng bộc lộ nhiều bất cập: Quan niệm về TCKT không rõ ràng và
thiếu nhất quán; thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế còn phức tạp và thường
bị kéo dài, phán quyết nhiều khi không chính xác; khả năng thi hành kết quả

giải quyết tranh chấp trong thực tế rất hạn chế. Hậu quả là quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tranh chấp không được bảo vệ triệt để, ý thức tôn trọng
pháp luật của các chủ thể kinh doanh không được đề cao, nhiều lực cản đối
với việc hoàn thiện mồi trường kinh doanh trong xu thế hội nhập kinh tế quốc
tế đã xuất hiện.
Đại hội Đảng lần thứ IX đã đặt ra yêu cầu "đẩy mạnh việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp vói kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành phù hợp với
yêu cầu thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế" [21, tr. 329]. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/12/2002 của Bộ Chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới cũng đề ra
yêu cầu cấp bách là "xây dựng cơ chế để nâng cao hiệu quả của các hình thức
giải quyết tranh chấp như hòa giải, trọng tài, nhằm góp phần xử lý đúng và
nhanh chóng những mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân và giảm nhẹ
công việc cho tòa án và cơ quan nhà nước khác" [1]. Thực tế đó đặt ra nhu cầu
phải nghiên cứu làm rõ các khía cạnh pháp lý của TCKT và giải quyết TCKT;


3

đánh giá thực trạng áp dụng các phương thức giải quyết TCKT trong thời gian
qua để tìm ra nguyên nhân của các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn giải
quyết TCKT từ đó đưa ra hướng khắc phục. Đây chính là lý do để nghiên cứu
sinh lựa chọn đề tài "Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Việt Nam" làm luận án tiến sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề liên quan đến TCKT và giải quyết TCKT luôn thu hút được
sự quan tâm không chỉ của giới kinh doanh mà còn của giới nghiên cứu. Bởi
vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau về các khía

cạnh pháp lý của TCKT và giải quyết TCKT. Từ những năm 90, để chuẩn bị
cho thành lập TKT nhiều đề tài nghiên cứu về mô hình tổ chức TKT và tố tụng
kinh tế đã được thực hiện như chuyên đề "Tòa án kinh tể' của Bộ Tư pháp, đề
tài "Mớ hình tổ chức giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay" của Trọng tài kinh tế Nhà nước, Dự án VIE/94/003 "Tăng cường
năng lực pháp luật tại Việt Nam" của Bộ Tư pháp có phần nghiên cứu pháp
luật về giải quyết TCKT; Đề tài khoa học cấp bộ của Bộ Tư pháp "Các phương
thức giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam hiện nay" (1999), Đề tài khoa
học cấp bộ do Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) chủ trì năm 2001 "Tính
đặc thù trong thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, lao động - Những vấn đề lý
luận và thực tiễn". Bên cạnh đó còn một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ
cũng để cập đến các nội dung nhất định của việc giải quyết TCKT như luận án
tiến sĩ luật học của Nguyễn Trung Tín "Công nhận và cho thi hành tại Việt
N am các quyết định của trọnẹ tài kinh tể', của Phan Thị Hương Thủy "Xây
dựng và hoàn thiện cơ ch ế giải quyết tranh chấp kinh t ế của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài". Ngoài ra, còn có nhiều bài viết đề cập đến các vấn
đề của TCKT và giải quyết TCKT như các bài "Hoàn thiện hệ thống pháp luật
v ề giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Tòa án và Trọng tài" của GS.TSKH Đào
T rí Úc, ''Kinh tế thị trường và sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật kinh tể'
của PGS.TS Lê Hồng Hạnh, "Tòa Kinh tế thuộc hệ thống Tòa án nhân dân -


4

Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của TS. Nguyễn Văn Dũng, "Về mối quan
hệ giữa tố tụng dân sự và tố tụng kinh tể' của TS. Phạm Duy Nghĩa, "Trọng
tài kỉnh tế, cơ quan tài phán mới tronẹ kinh doanh ở nước ta" của TS. Dương
Đăng Huệ, "Về mô hình tổ chức Tòa án kinh tế ở Việt Nam" của PGS.TS. Hoàng
Thế Liên, "Về cơ c h ế giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay" của PGS.TS Phạm Hữu Nghị, "Pháp luật tố tụng và các hình thức tố

tụng kinh tể ' của PGS.TS Nguyễn Như Phát, "Hòa giải, thương lượng tronạ
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tể' của TS. Trần Đình Hảo, "Tổ chức
giải quyết tranh chấp kinh tế ở một s ố nước ASEAN và một s ố bài học kinh
nghiệm" của TS. Nguyễn Am Hiểu, "Việc tiếp nhận Luật Mẫu của UNCỈTRAL
về trọng tài thương.mại quốc tế ỏ một số nước và việc xây dựng D ự thảo
pháp lệnh trọng tài của Việt Nam" của TS. Dương Thanh Mai, "Tăng cường vai
trò của Tòa án tronẹ việc qiải quyết tranh chấp kinh tế' của TS. Phan Chí Hiếu...
Trong những mức độ nhất định, các công trình nói trên mới đề cập một
cách riêng biệt về từng phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế chứ chưa đặt
vấn đề nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về TCKT và giải quyết
TCKT dưới sự tác động của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta với
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cũng như mối liên hệ giữa các phương thức
giải quyết TCKT với nhau. Luận án là công trình khoa học đầu tiên ở cấp độ
luận án tiến sĩ nghiên cứu một cách tổng thể và toàn diện về giải quyết TCKT
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam, đánh giá sự chi phối của cơ chế
kinh tế thị trường đến quan niệm về TCKT và giải quyết TCKT, chỉ ra các đặc
thù của từng phương thức giải quyết tranh chấp và mối liên hệ giữa chúng,
đánh giá hoạt động giải quyết TCKT trong thời gian qua và đưa ra phương
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết TCKT.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
Luận án có mục đích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về TCKT và
giải quyết TCKT; đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về giải quyết TCKT ở


5

nước ta trong thời gian qua; đưa ra những phương hướng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật về giải quyết TCKT.
Với những mục đích nghiên cứu như vậy, luận án phải giải quyết các

nhiệm vụ sau:
- Làm rõ bản chất pháp lý của TCKT và giải quyết TCKT; đánh giá tác
động của nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN ở Việt Nam tới quan niệm
về TCKT và cơ ch ế giải quyết TCKT; chỉ ra các ưu điểm và nhược điểm của
từng phương thức giải quyết tranh chấp TCKT cũng như mối liên hệ giữa
chúng với nhau.
- Đánh giá thực trạng giải quyết TCKT ở nước ta trong thời gian qua từ
đó chỉ rõ các bất cập trons các quy định pháp luật hiện hành về tổ chức và
hoạt động của từng phương thức giải quyết TCKT.
- Khẳng định sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về giải quyết
TCKT đồng thời đưa ra phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật
về giải quyết TCKT để nâng cao hiệu quả của từng phương thức giải quyết
TCKT với trọng tâm là thiết lập mối liên hệ chặt chẽ giữa các phương thức
nhằm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao.của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam đối với việc giải quyết TCKT.

4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Cơ chế giải quyết TCKT bao gồm rất nhiều nội dung hợp thành.
Nhưng trong khuôn khổ luận án tiến sĩ luật học, luận án chỉ tập trung nghiên
cứu làm rõ các khía cạnh pháp lý về TCKT và giải quyết TCKT với nội dung
trọng tâm là đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động
của từng phương thức giải quyết TCKT trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị
nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết TCKT ở nước ta. Nhận
thức được tầm quan trọng của tòa án và trọng tài đối vói việc giải quyết TCKT
trong điều kiện thực tế Việt Nam, luận án tập trung nghiên cứu sâu pháp luật
về giải quyết TCKT theo thủ tục tư pháp và thủ tục trọng tài.


6


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,



tưởng Hồ Chí Minh để luận giải mối quan hệ giữa thượng tầng kiến trúc và hạ
tầng cơ sở, mối quan hệ giữa kinh tế và pháp luật, vai trò của pháp luật trong
việc điều chỉnh quan hệ phát sinh từ hoạt động giải quyết tranh chấp. Trên cơ
sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đường lối đổi mới đất nước, xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN luận án đã đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về giải quyết TCKT.
Để giải quyết những vấn đề đặt ra, luận án sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học cụ thể, như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa,
khảo sát thực tiễn. Phương pháp so sánh luật học được sử dụng để tham khảo
kinh nghiệm giải quyết TCKT ở nước ngoài. Phương pháp khảo sát thực tiễn,
thăm dò ý kiến chuyên gia được sử dụng để đánh giá thực trạng giải quyết
TCKT ở nưóc ta thời gian qua. Luận án sử dụng phương pháp phân tích, tổng
hợp, khái quát hóa để làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về TCKT,
chỉ ra các bất cập của pháp luật và đề xuất giải pháp khắc phục.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án là một công trình khoa học trình bày một cách toàn diện và
chuyên sâu về TCKT và giải quyết TCKT trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam. Với việc làm rõ bản chất của TCKT và các phương thức giải quyết dưới
sự tác động của cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, luận
án đã góp phần phát triển lý luận về TCKT và giải quyết TCKT.
Những kết quả nghiên cứu của luận án giúp cho các nhà kinh doanh
lựa chọn áp dụng phương thức giải quyết TCKT phù hợp với mình; các nhà
hoạch định chính sách và các nhà xây dựng pháp luật ý tưởng liên quan đến
việc hoàn thiện cơ chế giải quyết TCKT. Luận án còn chứa đựng nhiều thông



7

tin với giá trị tham khảo cao đối với các thẩm phán, trọng tài viên, hòa giải
vién và những người học tập, giảng dạy, nghiên cứu pháp luật.
7. Những đóng góp mới của luận án
Luận án có những đóng góp mới sau đây:
- Luận án đã làm rõ được cơ sở lý luận về TCKT và giải quyết TCKT:
Xây dựng được khái niệm khoa học về TCKT, đánh giá được tác động của cơ
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đến quan niệm về
TCKT, vai trò của từng phương thức giải quyết TCKT và quan hệ nội tại giữa
các phương thức với nhau.
- Thông qua-các ví dụ thực tiễn, luận án đã đánh giá một cách toàn
diện thực trạng giải quyết TCKT qua các phương thức thương lượng, trung
gian hòa giải, tòa án và trọng tài; chỉ ra các bất cập trong pháp luật về giải
quyết TCKT và phân tích nguyên nhân của những bất cập đó.
- Trên cơ sờ các quan điểm, phương hướng hoàn thiện cơ chế giải
quyết TCKT, luận án đã đề xuất nhiều kiến nghị mới mẻ nhằm hoàn thiện
pháp luật về giải quyết TCKT ở nước ta.

8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần M ở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ
lục, luận án gồm 3 chương, 9 mục.


8

Chương 1
N HŨNG VẤN Đ Ể LÝ LUẬN VỂ T R A N H CHÂP K IN H TẾ

VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHÂP KINH TẾ
T R O N G NỂN K IN H TẾ T H Ị T R Ư Ờ N G Ở V IỆT NAM

1.1. TRANH CHẤP KINH TẾ TRONG NỂN

k in h t ế t h ị t r ư ờ n g

ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp kinh tê
TCKT là một hệ quả của quá trình vận động các nguồn lực phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân dưới sự tác động của quy
luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh. Một xã hội có nền kinh tế
càng phát triển thì TCKT càng xảy ra nhiều, càng phức tạp về tính chất và đa
dạng về nội duns. Mục đích hàng đầu của các chủ thể khi tham gia các quan
hệ kinh tế là tìm kiếm lợi nhuận tối đa và xuất phát từ lợi ích cá biệt của mỗi
chủ thể kinh tế mà các xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể đó là điều
khó tránh khỏi. Các Mác đã từng nói: Lợi ích thúc đẩy lịch sử các dân tộc. v ề
khía cạnh kinh tế, quy luật giá trị (lợi ích) là động lực lớn nhất chi phối TCKT.
TCKT là một khái niệm mang nội hàm kinh tế - pháp lý. Trong mỗi
chế độ xã hội, dưới từng thể chế kinh tế, thậm chí trong từng giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội cụ thể, khái niệm TCKT có thể mang những nội hàm
riêng biệt. Nói một cách khác, khái niệm TCKT mang trong mình những dấu
ấn đặc trưng của cơ chế kinh tế và điều kiện cơ sở vật chất của một xã hội,
một Nhà nước nhất định. Việc xây dựng khái niệm TCKT và làm rõ nội hàm
của nó sẽ giúp chúng ta thấy được bản chất pháp lý của TCKT, từ đó tìm ra
biện pháp hữu hiệu để giải quyết chúng một cách nhanh chóng, chính xác và
đúng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp,
bảo đảm trật tự kinh doanh và kỷ cương xã hội.



9

Tranh chấp, hiểu theo nghĩa khái quát nhất là những xung đột, bất
đổng về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi chúng tham gia vào các quan
hệ pháp luật. Các tranh chấp trong xã hội rất phong phú và đa dạng. Chúng
phát sinh trong nhiều lĩnh vực, giữa các loại chủ thể, từ những lý do khác nhau
và vì những mục đích không giống nhau. Để đáp ứng một nhu cầu nào đó mà
người ta có thể dựa trên một căn cứ riêng để phân loại tranh chấp. Căn cứ vào
nội dung cụ thể của tranh chấp mà chia thành tranh chấp hợp đồng, tranh chấp
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, tranh
chấp chứng khoán... Căn cứ vào tính chất của các quan hệ pháp luật làm phát
sinh tranh chấp, người ta có thể chia thành tranh chấp dân sự, TCKT (kinh
doanh), tranh chấp lao động, tranh chấp hành chính.
Các quốc gia trên thế giới có những quan niệm rất khác nhau về tranh
chấp nói chung và tranh chấp phát sinh từ các hoạt động kinh doanh nói riêng.
Không phải quốc gia nào cũng có sự phân biệt tranh chấp kinh doanh (TCKT
theo cách gọi của Việt Nam) với tranh chấp dân sự.
Các nước theo truyền thống luật Anh - Mỹ như: Anh, Mỹ, ú c và các
nước chịu ảnh hưởng của truyền thống luật này không phân biệt lĩnh vực kinh
doanh (với mục đích tìm kiếm lợi nhuận) và lĩnh vực dân sự (mục đích tiêu
dùng). Trong pháp luật của các nước này không tồn tại các khái niệm thương
nhân (thương gia), hành vi thương mại hay giao dịch thương mại. Điều này
dẫn đến hệ quả là các nước này không phân biệt tranh chấp kinh doanh (những
tranh chấp phát sinh từ các hoạt động kinh doanh của các công ty hoặc liên
quan mật thiết tới chúng) với các tranh chấp phát sinh từ các hoạt động dân sự.
Mọi tranh chấp dù phát sinh từ hoạt động kinh doanh hay hoạt động dân sự
đều được giải quyết bằng phương thức giống nhau.
Nói như vậy không có nghĩa là các quốc gia này không tổn tại những
thiết chế riêng để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh

của các tổ chức, cá nhân. Ví dụ: Vương quốc Anh có tòa án giải quyết những


10

khiếu nại về hạn chế quyền tự do kinh doanh; Hợp chủng quốc Hoa Kỳ có
tòa án giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ thương mại quốc
tế [70, tr. 583]. Trong tòa án dân sự thẩm quyền chung của Nhật Bản có
những Ban riêng để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh
doanh hoặc các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh được phân cho
thẩm phán nào có nhiều kiến thức kinh doanh và kinh nghiệm trong việc giải
quyết các tranh chấp loại này.
Các nước theo truyền thống luật Châu Âu lục địa như Đức, Pháp, Tây
Ban Nha, Bỉ và các nước chịu ảnh hưởng của truyền thống luật này phân biệt
hoạt động kinh doanh với hoạt động dân sự và thừa nhận sự tồn tại của pháp
luật thương mại bên cạnh pháp luật dân sự. Pháp luật của các nước này có khái
niệm thương nhân (thương gia) và hành vi thương mại với việc đưa ra các tiêu
chí khá cụ thể để phân biệt thương nhân với người không phải là thương nhân;
hành vi thương mại với hành vi dân sự. Sự phân biệt này dẫn đến hệ quả là: (i)
đối với hành vi thương mại sẽ ưu tiên áp dụng luật thương mại; những gì luật
thương mại không quy định thì áp dụng luật dân sự và (ii) những tranh chấp
phát sinh từ hành vi thương mại có thể được giải quyết bằng các phương thức
riêng như trọng tài thương mại và tòa án thương mại. Tuy nhiên, trong khoa
học pháp lý của các nước này không có khái niệm tranh chấp thương mại.
Người ta chỉ căn cứ vào thẩm quyền tài phán của các thiết chế giải quyết tranh
chấp thương mại mà nhận diện một số tranh chấp được coi là tranh chấp
thương mại mà thôi. Có thể đơn cử một vài trường hợp:
* Cộng hòa Pháp:
Căn cứ vào các quy định về thẩm quyền của Tòa án thương mại của
Pháp thì các tranh chấp sau đây được coi là tranh chấp thương mại:

(i)

Tranh chấp liên quan đến những hành vi thương mại của bất kỳ cá

nhân hoặc pháp nhân nào. Các hành vi thương mại được liệt kê tại Điều 632
đoạn 2 Bộ luật Thương mại của Cộng hòa Pháp, bao gồm:


11

+ Mọi việc mua động sản để bán lại kiếm lời;
+ Mọi việc mua bất động sản để bán lại hoặc mua để xây dựng lại
thành một hay nhiều nhà rồi bán lại;
+ Các hoạt động sản xuất, chuyên chở; những hãng thầu cung cấp vật
liệu, những hãng bán đấu giá công khai;
+ Các hoạt động hối đoái, ngân hàns, giao dịch chứng khoán, bảo hiểm;
+ Các hoạt độns trung gian, đại diện, đại lý thương mại;
+ Khai thác hầm mỏ và nguyên liệu;
+ Giải trí công cộng: nhà hát, rạp chiếu phim, rạp xiếc...
(ii) Các tranh chấp liên quan đến những cam kết và giao dịch giữa các
thương nhân. Đây có thể là các tranh chấp phát sinh từ các hành vi thương mại
bản chất hoặc hành vi thương mại phụ thuộc trong họp đồng hoặc là việc vi
phạm pháp luật. Thậm chí, các tranh chấp phát sinh từ các họp đồng mua hàng
phục vụ cho sinh hoạt cá nhân của thương nhân cũng được coi là tranh chấp
thương mại.
(iii) Các tranh chấp giữa các thành viên của một công ty kinh doanh
với nhau hoặc với công ty.
(iv) Các tranh chấp có liên quan đến hối phiếu hay tranh chấp liên
quan đến lệnh phiếu trong đó có chữ ký của ít nhất một thương nhân.
(v) Các tranh chấp liên quan đến thanh toán tư pháp hoặc thanh lý tài

sản xảy ra sau khi đình chỉ thanh toán; bán hoặc thế chấp cơ sở kinh doanh
hoặc các tranh chấp liên quan đến việc ghi chép vào sổ đăng ký thương mại.
(vi) Những vụ kiện người giúp việc cho thương nhân về những hành vi
liên quan đến thương mại.
Như vậy, Pháp đã dựa vào các hành vi thương mại để phân biệt tranh
chấp thương mại với tranh chấp dân sự. Tuy nhiên, bên cạnh tiêu chí khách thể
Pháp còn sử dụng tiêu chí chủ thể để không bỏ sót các tranh chấp mang tính


12

thương mại. Theo quy định này thì tất cả các tranh chấp phát sinh trong hoạt
động kinh doanh giữa các thương nhân với nhau đều được coi là tranh chấp
thương mại [27].
* Cộng hòa Liên bang Đức:
Theo Điều 95 Luật Tổ chức tòa án của Cộng hòa Liên bang Đức thì
các tranh chấp thương mại bao gồm:
(i) Các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch thương mại của các
thương nhân.
(ii) Các tranh chấp phát sinh từ hối phiếu theo Luật về hối phiếu hoặc
từ một trong số các loại chứng từ quy định tại Điều 363 Bộ luật Thương mại.
(iii) Các tranh chấp liên quan đến séc theo Luật về séc.
(iv) Các tranh chấp phát sinh từ quan hệ thành viên của công ty thương
mại với nhau hoặc thành viên vói công ty liên quan đến hoạt động của công
ty, kể cả khi công ty còn tồn tại hay đã giải thể; tranh chấp giữa người quản lý
công ty với công ty hoặc với thành viên công ty.
(v) Các tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật liên quan đến việc sử
dụng tên thương mại; nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp;
(vi) Các tranh chấp liên quan đến việc sử dụng một cơ sở kinh doanh;
(vii) Các tranh chấp liên quan đến hàng hải, đặc biệt là các tranh chấp

phát sinh từ hoạt động kinh doanh vận chuyển, các dịch vụ lai dắt, cứu hộ, tai
nạn hàng hải...
(vui) Các tranh chấp liên quan đến Luật chống canh tranh không lành mạnh;
(ix) Các tranh chấp liên quan đến chứng khoán...
* Liên bang Nga:
Bộ luật tố tụng tòa án trọng tài của Liên bang Nga quan niệm TCKT
(3K0H0MUHecKHe cnop&i) theo nghĩa rất rộng, gồm:


13

- Các tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự, hành chính và các quan
hệ pháp luật khác có liên quan đến hoạt độns kinh doanh giữa các pháp nhân,
cá nhân thực hiện các hoạt động kinh doanh mà không thành lập một pháp
nhân; giữa Liên bang Nga và các chủ thể liên bang và giữa các chủ thể liên
bang với nhau;
- Các tranh chấp hợp đổng trons kinh doanh giữa các chủ thể;
- Các tranh chấp về quyền sở hữu;
- Các tranh chấp về bồi thường thiệt hại;
- Các tranh chấp về uy tín kinh doanh;
- Các tranh chấp về đăng ký kinh doanh; vể thành lập, tổ chức lại các
pháp nhân kinh tế;
- Các tranh chấp liên quan đến các quyết định xử phạt của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền đối với các chủ thể kinh doanh...
* Tổ chức WTO và Luật mẫu của UNCITRAL về Trọng tài thương
mại quốc tế cũng đưa ra khái niệm "thương mại" với nội hàm rất rộng liên
quan đến tất cả các quan hệ manơ bản chất thương mại, dù phát sinh từ hợp
đồng hoặc không từ hợp đổng như: Mọi giao dịch thương mại về việc cung
cấp hay trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận về phân phối, đại diện thương
mại; hóa đơn chứng từ; bán, cho thuê, xây dựng nhà máy; các dịch vụ tư vấn;

đề án thiết kế tổng hợp, giấy phép, đầu tư, cấp chi phí, giao dịch ngân hàng,
bảo hiểm, các thỏa thuận về khai thác hay chuyển nhượng, hợp tác giữa các xí
nghiệp và các hình thức về hợp tác công nghiệp hay thương mại, vận chuyển
hàng hóa hay hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt hay đường
bộ (Điều 1 Luật Mẫu của UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế). Xuất
phát từ điều này mà tranh chấp thương mại cũng được hiểu theo nghĩa rộng,
gồm toàn bộ các tranh chấp phát sinh từ các giao dịch thương mại. Đó có thể
là tranh chấp hợp đồng; tranh chấp liên quan đến phát hành, lưu trữ, kinh


14

doanh chứng khoán; các tranh chấp liên quan đến thương phiếu; tranh chấp
liên quan đến mua. bán, cho thuê, kinh doanh doanh nghiệp; tranh chấp liên
quan đến sở hữu công nghiệp (vi phạm nhãn hiệu hàng hóa, sáng chế, giải
pháp hữu ích, bí mật thương mại...); tranh chấp hàng hải, giao nhận kho vận,
bảo hiểm hàng hải; tranh chấp liên quan đến mua, bán công nợ; tranh chấp
trong việc chống độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh; tranh chấp liên
quan đến bán đấu giá, đấu thầu v.v...
Như vậy, các nước trên thế giới không có quan niệm thống nhất về
tranh chấp kinh doanh. Có rất nhiều nước không phân biệt tranh chấp phát
sinh từ hoạt động kinh doanh với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động dân sự.
Bên cạnh đó, một số quốc gia khác phân biệt tranh chấp kinh doanh với tranh
chấp dân sự bằng cách quy định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp loại này
cho các cơ quan tài phán là Tòa án Thương mại hay Trọng tài Thương mại.
Các quốc gia này đều quan niệm tranh chấp kinh doanh theo nghĩa rộng, gồm
toàn bộ các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh giữa các chủ thể khi
chúng tiến hành các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận.
Ở nước ta, quan niệm về TCKT có những điểm khác nhau qua mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, nền

kinh tế được quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, với hệ thống chỉ
tiêu pháp lệnh từ trên giao xuống. Nhà nước can thiệp khá sâu vào hoạt động
kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản
xuất cho ai đều do Nhà nước quyết định. Nhà nước vừa hoạch định các chính
sách kinh tế vĩ mồ vừa trực tiếp chỉ đạo các đon vị kinh tế cơ sở thực hiện các
kế hoạch kinh doanh cụ thể. Đặc điểm nổi bật của cơ chế kinh tế này là vai trò
tuyệt đối của Nhà nước, trong đó có các Bộ, Tổng cục, ủ y ban nhân dân, các
cơ sở chuyên môn... là chủ thể chi phối các quan hệ kinh tế. Các chủ thể kinh
doanh khá đơn điệu về hình thức tổ chức pháp lý, hầu hết là các xí nghiệp
quốc doanh và các hợp tác xã.


15

Để thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch do Nhà nước giao, các đơn vị kinh
tế cơ sở cần phải ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế. Tuy nhiên, HĐKT
trong thời kỳ này không chỉ là một hình thức pháp lý để triển khai các hoạt
động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế mà còn được sử dụng như
một công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước. Ký kết và thực hiện HĐKT là một
kỷ luật bắt buộc chứ không xuất phát từ lợi ích kinh tế cụ thể của các đơn vị
kinh tế. Bởi vậy, các chủ thể tham gia ký kết HĐKT không quan tâm nhiều
đến việc hợp đồng có được thực hiện đầy đủ hay không, vì thực hiện hay
không thực hiện cũng không ảnh hưởng đến "túi tiền của họ, đằng nào Nhà
nước cũng bao cấp" [57, tr. 17]. Trách nhiệm thực hiện họp đồng giữa các bên
tham gia quan hệ vơi nhau không được coi trọng bằng trách nhiệm của các
bên đối vói cơ quan chủ quản của mình. Điều đó có nghĩa là trách nhiệm phát
sinh do vi phạm HĐKT nhẹ về yếu tố tài sản (vật chất) mà nặng về tính chất
hành chính [37, tr. 16].
Nghiên cứu lịch sử phát triển của pháp luật về HĐKT và pháp luật về
giải quyết tranh chấp HĐKT, chúng ta thấy: Trước khi ban hành Bản điều lệ

tạm thời về hợp đồng kinh doanh kèm Nghị định số 735/TTg ở nước ta không
có sự phân biệt HĐKT với hợp đổng dân sự; bởi vậy cũng không có sự phân
biệt giữa TCKT với các loại tranh chấp mang tính chất tài sản khác. Các tranh
chấp mang yếu tố tài sản được giải quyết theo một thủ tục chung tại tòa án.
Cùng với sự ra đời của Bản điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh doanh đã xuất
hiện khái niệm "hợp đồng kinh doanh". Lẽ đương nhiên, tranh chấp phát sinh
từ việc ký kết và thực hiện loại hợp đồng này được gọi là tranh chấp kinh
doanh. Các tranh chấp kinh doanh chủ yếu được giải quyết bởi một số cơ quan
hành pháp. Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp kinh doanh theo sự khỏi tố của
các cơ quan đăng ký kinh doanh trong một số trường hợp cần thiết.
Ngày 4/1/1960, Nhà nước ta ban hành Bản điều lệ tạm thời về HĐKT
kèm Nghị định số 04/TTg. Thuật ngữ "hợp đồng kinh tế" ra đời và chính thức


16

được sử dụng trong các văn bản pháp luật sau đó như: Nghị định số 54/CP
ngày 10/3/1975 ban hành Điều lệ về chế độ HĐKT; Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế ngày 25/9/1989. Cùng với khái niệm HĐKT, khái niệm tranh chấp kinh
doanh cũng được thay thế bằng khái niệm TCKT, mà thực chất là tranh chấp
HĐKT. Các tranh chấp loại này được giải quyết bằng trọng tài kinh tế, với tư
cách là một cơ quan quản lý nhà nước.
Như vậy, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các quan hệ
kinh tế vốn dĩ khá đơn giản về nội dung và thành phần chủ thể, lại được điều
hành thống nhất bởi Nhà nước, nên các TCKT xuất hiện không nhiều và chủ
yếu là các tranh chấp phát sinh từ HĐKT được ký kết giữa các đơn vị kinh tế
XHCN với nhau để triển khai các kế hoạch kinh doanh đã được Nhà nước phê
duyệt từ trước.
Từ năm 1986, nước ta khởi động quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường, định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải xóa bỏ chế độ

độc tôn của một hình thức sở hữu, tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển các
thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế đang chuyển đổi xuất hiện ngày càng
nhiều các chủ thể kinh doanh. Bên cạnh các chủ thể kinh doanh truyền thống
là doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã còn xuất hiện doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài), doanh nghiệp tư nhân, các loại hình công ty và hộ kinh doanh cá
thể. Các quan hệ kinh tế xuất hiện ngày càng nhiều với hình thức ngày càng
phong phú và tính chất ngày càng phức tạp. Bên cạnh các quan hệ kinh tế phát
sinh từ hợp đồng còn có các quan hệ kinh tế xuất hiện từ hoạt động đầu tư vốn
vào kinh doanh thông qua việc góp vốn thành lập công ty hay việc sở hữu cổ
phiếu, trái phiếu do công ty phát hành.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, Nhà nước không can thiệp
trực tiếp và sâu vào hoạt động kinh doanh hợp pháp của các chủ thể kinh tế.
Bằng các chính sách và pháp luật, Nhà nước tạo lập một môi trường kinh


17

THƯ V IỆN
TRƯỜNG ĐAI HOC lŨẦLHÀ NÒI
PHÒNG GV
b x x ___ _

doanh lành mạnh để các quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp được xây
dựng và thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tự do, bình đẳng, cùng có lợi và tự
chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Việc thiết lập hay không
thiết lập quan hệ kinh tế hoàn toàn xuất phát từ kế hoạch kinh doanh cụ thể
của từng đơn vị và vì lợi ích cá biệt của chúng. Kinh doanh đúng pháp luật để
đạt lợi nhuận tối đa là mục tiêu tối thượng của các doanh nghiệp. Tinh hình đó
làm phát sinh rất nhiều tranh chấp liên quan đến việc thực hiện các quyền và

nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia các quan hệ kinh tế. Điều đó đồng thời
đặt ra nhu cầu phải mở rộng nội hàm của khái niệm TCKT.
Mặc dù các TCKT đã xuất hiện từ lâu trong đời sống kinh tế và pháp
lý của nước ta, nhưng khái niệm loại tranh chấp này chưa được sử dụng một
cách thống nhất; nội hàm của khái niệm cũng chưa được xác định chính xác.
Trong từng ngữ cảnh cụ thể, để chỉ các xung đột về lợi ích giữa các tổ chức, cá
nhân khi họ tham gia các quan hệ kinh tế, người ta đang sử dụng những thuật
ngữ khác nhau như: TCKT, tranh chấp kinh doanh, tranh chấp thương mại.
Khi đề cập tói khái niệm TCKT, tranh chấp kinh doanh, Giáo trình
Luật Kinh tế của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội viết:
Các tranh chấp kinh tế trong kinh doanh trong phạm vi nhất
định có sự khác biệt với tranh chấp kinh tế. Khái niệm kinh tế cũng
như "quan hệ kinh tế" thông thường được hiểu rộng hơn khái niệm
"kinh doanh" với "quan hệ kinh doanh". Trong kinh tế có sự bao
hàm cả yếu tố quản lý và yếu tố chính trị - xã hội khác liên quan
đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi đó, kinh doanh chỉ
là một hoạt động mang tính nghề nghiệp như sản xuất, buôn bán,
dịch vụ... gắn với mục đích lợi nhuận. Do tính chất của quan hệ
kinh doanh như vậy, việc giải quyết trong kinh doanh cũng mang
những đặc thù nhất định so với giải quyết tranh chấp kinh tế nói
chung [58, tr. 307-364].


18

Theo quan niệm này thì rõ ràng khái niệm TCKT mang nội hàm rộng
hơn khái niệm tranh chấp kinh doanh.
Cuốn "Tìm hiểu luật kinh tế Việt Nam" sử dụng thuật ngữ "tranh chấp
kinh tế", "tranh chấp kinh doanh" hầu như không có sự phân biệt [101, tr. 187-194].
Trong cuốn sách "Hợp đồng kinh tế và vấn đề giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước

ta hiện nay" các tác giả cho rằng: "Từ trước đến nay, nói đến tranh chấp kinh tế
thì thường chỉ nghĩ đến tranh chấp về vi phạm hợp đổng kinh tế" [62, tr. 51].
Gần như tương đồng với quan điểm này một số tác giả cho rằng "về mặt lý thuyết
sẽ là khó xác định được bản chất của tranh chấp kinh tế nếu thiếu một khái
niệm chính xác về hợp đồng kinh tế, bởi vì hầu hết các tranh chấp kinh tế đều
phát sinh từ việc ký kết, thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng kinh tế" [61, tr. 35].
Khi Luật Thương mại ra đời và có hiệu lực pháp luật (từ 01/01/1998)
thì trong pháp luật thực định của nước ta còn xuất hiện thêm khái niệm tranh
chấp thương mại. Nhiều người cho rằng đã xuất hiện thêm một loại tranh chấp
mới, tổn tại độc lập bên cạnh TCKT và tranh chấp dân sự là tranh chấp thương
mại. Về mối tương quan giữa "tranh chấp kinh tế" và "tranh chấp thương mại"
có quan điểm cho rằng: Tranh chấp thương mại là một dạng của TCKT bởi
chúng đều phát sinh từ hoạt động kinh doanh và có quan hệ mật thiết với hoạt
động này. Theo Điều 238 Luật Thương mại thì tranh chấp thương mại là tranh
chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng
trong hoạt động thương mại, tức là sự thỏa thuận giữa thương nhân với thương
nhân, thương nhân với các bên có liên quan nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ giữa các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ thương mại và xúc tiến thương mại. Nói đến hợp đồng trong hoạt
động thương mại là nói đến những hợp đồng riêng trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại, cũng giống như khi ta nói đến hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng
(hợp đồng xây dựng), hợp đồng trong lĩnh vực vận chuyển (hợp đồng vận
chuyển), họp đồng trong lĩnh vực bảo hiểm (hợp đồng bảo hiểm), hợp đồng
trong lĩnh vực tín dụng (hợp đồng tín dụng)...


19

Khi thỏa mãn các điều kiện về chủ thể, mục đích và hình thức hợp
đổng theo quy định hiện hành thì hợp đổng trong hoạt độns thương mại mang

tính chất của HĐKT. Ví dụ: các hợp đồng trong hoạt độns thương mại được
ký kết bằng văn bản giữa các thương nhân, trong đó ít nhất một bên là pháp
nhân, để phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Các trường hợp khác, hợp đồng
trong hoạt động thương mại mang tính chất của hợp đổng dân sự. Ví dụ:
Những hợp đổng trong hoạt động thương mại được ký kết giữa các thương
nhân không có tư cách pháp nhân; giữa thương nhân với công dân hay những
hợp đổng không được thể hiện dưới hình thức văn bản.
Như vậy, tranh chấp thương mại, xét về tính chất là tranh chấp hợp
đổng; xét về nội dung là tranh chấp phát sinh từ các hoạt động kinh doanh
thương mại như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thươns mại hay các hoạt
động xúc tiến thương mại; xét về chủ thể là tranh chấp giữa thương nhân (một
loại chủ thể kinh doanh thực hiện các hoạt động thương mại một cách độc lập
và thường xuyên) với thương nhân, thương nhân với các bên có quan hệ với
thương nhân trên cơ sở hợp đổng.
Từ sự phân tích nói trên, chúng tôi đồng ý vói quan điểm cho rằng tranh
chấp thương mại thực chất là một dạng của TCKT theo cách hiểu về TCKT như
hiện nay. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng không phải mọi tranh chấp thương
mại thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án Việt Nam đều được giải quyết
theo thủ tục tố tụng kinh tế. Chỉ những tranh chấp thương mại nào đáp ứng các
điều kiện quy định tại khoản 1 Điểu 12 và Điều 87 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án kinh tế mới được tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng kinh tế.
Khái niệm TCKT còn có thể được tiếp cận dưới góc độ pháp luật tố
tụng. Trong nhiều trường hợp thì pháp luật tố tụng đã mở ra cách tiếp cận dễ
hơn vói khái niệm "tranh chấp kinh tế" [26, tr. 48]. Vói cách tiếp cận này,
TCKT được hiểu là các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ
quan tài phán như tòa án và trọng tài. Pháp luật tố tụng chỉ ra một số nhóm


×