Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LV Thạc sỹ_một số biện pháp đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra thuế trong điều kiện thực hiện luật quản lý thuế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.65 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI
CÔNG TÁC THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ TRONG ĐIỀU KIỆN
THỰC HIỆN LUẬT QUẢN LÝ THUẾ Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số:
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập
của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ
ràng.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các sơ đồ
Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
Chương 1: NHữNG VấN Đề CƠ BảN về THANH TRA, KIểM TRA
THUế
1.1. Nội dung cơ bản về thanh tra, kiểm tra thuế
1.1.1. Khái niệm, mục đích, nguyên tắc thanh tra, kiểm tra thuế
1.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế
1.2. Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế trong điều kiện thực hiện đổi
mới quản lý thuế
1.2.1. ảnh hưởng của việc đổi mới cơ chế quản lý thuế đến hoạt động
thanh tra, kiểm tra thuế
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động thanh tra, kiểm tra trong điều kiện thực
hiện đổi mới quản lý thuế
1.3. Kinh nghiệm thanh tra, kiểm tra thuế của một số nước trên thế giới
1.3.1. Kinh nghiệm hiện đại hoá công tác thanh tra thuế
1.3.2. Tổng hợp kinh nghiệm về một số nội dung trong hoạt động
thanh tra thuế
1.3.3. Khả năng vận dụng vào hoạt động thanh tra thuế tại Việt Nam
Chương 2: THựC TRạNG CÔNG TáC THANH TRA, KIểM TRA
ĐTNT ở VIệT NAM HIệN NAY
2.1. Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra ĐTNT trước khi có Luật
Quản lý thuế
2.1 1. Tổ chức hệ thống và nhiệm vụ quyền hạn của thanh tra, kiểm
tra ĐTNT
2.1.2. Những kết quả đạt được và một số hạn chế

01
03
03
03
11

17
18

22
22
25
29
31
31
31
35


2.2. Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế sau khi có
Luật Quản lý thuế
2.2.1. Khái quát về Luật Quản lý thuế
2.2 2. Tổ chức hệ thống và nhiệm vụ quyền hạn của thanh tra, kiểm
tra người nộp thuế
2.2.3. Những kết quả đạt được và một số hạn chế
Chương 3: MộT Số BIệN PHáP ĐổI MớI CÔNG TáC THANH TRA,
KIểM TRA THUế TRONG ĐIềU KIệN THựC HIệN LUậT QUảN Lý
THUế
3.1. Cải cách và hiện đại hoá công tác thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt
Nam đến năm 2010 và những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện
công tác thanh tra thuế.
3.1.1. Cải cách và hiện đại hoá công tác thanh tra, kiểm tra thuế đến
năm 2010
3.1.2. Những yêu cầu đặt ra đối với việc đổi mới công tác thanh tra,
kiểm tra thuế
3.2. Một số giải pháp nhằm đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra thuế

trong điều kiện thực hiện Luật Quản lý thuế
3.2.1. Các giải pháp về cơ chế, chính sách của Nhà nước
3.2.2. Các giải pháp liên quan trực tiếp đến hoạt động thanh tra, kiểm
tra thuế
3.2.3 Các giải pháp khác
KẾT LUẬN
NHẬN XÉT CỦA GVHD
TÀI LIỆU THAM KHẢO

51
51
54
65
68

68

68
72
72
72
79
87
89


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ĐTNT
NNT


Đối tượng nộp thuế
Người nộp thuế

NSNN

Ngân sách Nhà nước

TKTN

Tự khai, tự nộp

TNDN
GTGT

Thu nhập doanh nghiệp
Giá trị gia tăng


DANH MỤC SƠ ĐỒ

Số hiệu sơ đồ
2.1
2.2

Tên sơ đồ
Mô hình tổ chức hệ thống thanh tra thuế
Quy trình thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp

Trang

32
42


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng
2.1
2.2
2.3

Tên bảng
Cơ cấu lực lượng thanh tra thuế
Kết quả thanh tra, kiểm tra ĐTNT 2002-2006
Kết quả thanh tra, kiểm tra NNT năm 2007

Trang
37
39
59


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quản lý nhà nước về thuế nhằm đảm bảo cho Nhà nước có một nguồn thu
ổn định, đáp ứng được vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tạo môi trường kinh
doanh bình đẳng và lành mạnh, thúc đẩy cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong

nền kinh tế thị trường. Để công tác quản lý thuế thực sự có hiệu quả thì hoạt
động thanh tra, kiểm tra phải luôn được tăng cường. Hoạt động thanh tra, kiểm
tra thuế không những giúp cho hoạt động quản lý thuế đạt được các mục tiêu đã
đề ra mà còn giúp Nhà nước phát hiện những hạn chế của chính sách, điều chỉnh
kịp thời chính sách, chế độ về thuế, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thuế
của cộng đồng và góp phần phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng trốn thuế, chống
thất thu thuế.
Trong giai đoạn tới, do nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và thực hiện chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nên
số lượng các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngày càng tăng, việc áp dụng công
nghệ thông tin trong hoạt động quản lý ngày càng phổ biến đồng thời yêu cầu
hội nhập quốc tế ngày càng sâu và rộng, đòi hỏi hoạt động quản lý thuế nói
chung và hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế nói riêng phải tương thích với trình
độ phát triển của nền kinh tế, phù hợp với các chuẩn mực quản lý thuế quốc tế.
Có hiệu lực từ ngày 1-7-2007, Luật Quản lý thuế được coi như một bước
tiến quan trọng trong công tác quản lý thu nộp ngân sách khi nó điều chỉnh thống
nhất về mặt thủ tục đối với toàn bộ các loại thuế từ thuế nội địa đến thuế đối với
hàng hóa xuất nhập khẩu, các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước. Các thủ
tục hành chính thuế được quy định đơn giản, rõ ràng và minh bạch giúp thực
hiện cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật
của người nộp thuế. Cơ quan thuế chuyển sang thực hiện chức năng tuyên
truyền, hỗ trợ người nộp thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế, giám sát quyết toán
thu nộp thuế vào NSNN. Như vậy có thể thấy hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế
được xác định là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong công tác
quản lý thuế, đảm bảo thực hiện thành công cơ chế quản lý mới và nâng cao hiệu


2

quả quản lý thuế. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp đổi mới

công tác thanh tra, kiểm tra thuế trong điều kiện thực hiện Luật Quản lý thuế
ở Việt Nam” có ý nghĩa thiết thực, mang tính thời sự cấp bách cả về mặt lý luận
và thực tiễn. Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế bao gồm nhiều lĩnh vực như:
Thanh tra, kiểm tra người nộp thuế; Thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành thuế;
Thanh tra, kiểm tra giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo v.v...Trong phạm vi đề tài
này, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu nội dung thanh tra, kiểm tra người nộp
thuế.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích: Hệ thống hoá và làm rõ hoạt
động kiểm tra, thanh tra NNT trong điều kiện thực hiện Luật Quản lý thuế. Trên
cơ sở đó đề xuất những định hướng và giải pháp đề hoàn thiện hoạt động kiểm
tra, thanh tra NNT phù hợp với thực tiễn quản lý thuế của Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý thuyết và
thực tiễn của việc tổ chức, thực hiện hoạt động kiểm tra, thanh tra NNT trong
điều kiện thực hiện Luật Quản lý thuế đặt trong tổng thể vấn đề cải cách hành
chính và hiện đại hoá ngành thuế ở Việt Nam đến năm 2012.
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về hoạt động thanh tra, kiểm
tra NNT.
- Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động thanh tra, kiểm tra
NNT ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hoạt động thanh tra, kiểm tra NNT
ở Việt Nam.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thanh tra, kiểm tra thuế
Chương 2: Thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra thuế ở Việt Nam hiện
nay
Chương 3: Một số biện pháp đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra thuế

trong điều kiện thực hiện Luật Quản lý thuế.


3

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ
1.1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ
1.1.1. Khái niệm, mục đích, nguyên tắc thanh tra, kiểm tra thuế
1.1.1.1. Khái niệm thanh tra, kiểm tra thuế
Theo từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn, kiểm tra là
"xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét" [tr. 523]. Theo Đại từ điển
Tiếng Việt do Trung tâm ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam biên soạn, kiểm tra là
"xem xét thực chất, thực tế" [tr. 973]. Theo từ điển Luật học, kiểm tra là "xem
xét tình hình thực tế thi hành pháp luật, thực hiện nhiệm vụ quyền hạn nói chung
hay một công tác cụ thể được giao để đánh giá, nhận xét ..." [tr.265].
Theo Giáo trình nghiệp vụ thuế của Học viện Tài chính, ''Kiểm tra thuế là
hoạt động của cơ quan thuế trong việc xem xét tình hình thực tế của đối tượng
kiểm tra, từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ yêu cầu đặt ra đối với đối
tượng kiểm tra để có những nhận xét, đánh giá''
Theo giáo sư Michel Bouvier, tác giả cuốn “Nhập môn về Luật thuế đại
cương và lý thuyết thuế”, kiểm tra thuế là ''hoạt động nhằm xem xét tính trung
thực, tính chính xác của cơ sở tính thuế mà người nộp thuế đã kê khai'' [15,
tr.153]
Tổng hợp các quan niệm trên có thể hiểu kiểm tra thuế là hoạt động xem
xét, đánh giá của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức
và cá nhân chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế, phí và lệ phí
(gọi chung là thuế).
Về khái niệm thanh tra, theo từ điển tiếng Việt: "thanh tra là kiểm soát,
xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp" [tr.882], thanh tra

là ''loại hình đặc biệt của kiểm tra'' [47, tr.19]
Theo Luật Thanh tra 2004 thì Thanh tra là " việc xem xét, đánh giá, xử lý
của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý"


4

Theo Giáo trình nghiệp vụ thuế của Học viện Tài chính thì thanh tra thuế
là ''hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của cơ
quan thuế đối với đối tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những
hành vi trái pháp luật'' [tr.437]
Tổng hợp các quan niệm trên có thể hiểu thanh tra thuế là hoạt động kiểm
tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cơ quan, tổ chức và cá nhân
chịu sự quản lý trong việc thực hiện pháp luật về thuế nhằm kết luận đúng, sai,
đánh giá ưu khuyết điểm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý thuế, phòng ngừa
và xử lý các vi phạm pháp luật thuế.
Giữa thanh tra thuế và kiểm tra thuế tồn tại một mối quan hệ sau:
Thanh tra thuế cũng là một hoạt động của kiểm tra thuế nên thanh tra thuế
và kiểm tra thuế có những điểm giống nhau:
- Thanh tra, kiểm tra thuế đều là một nội dung quan trọng của quản lý
thuế. Đều có cùng một mục đích phát hiện, ngăn ngừa, xử lí những vi phạm pháp
luật thuế, góp phần thúc đẩy các tổ chức, cá nhân hoàn thành nhiệm vụ theo quy
định của pháp luật thuế, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lí thuế, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân.
- Chủ thể kiểm tra thuế, thanh tra thuế là cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật, thường là cơ quan thuế.
- Đối tượng kiểm tra, thanh tra thuế là các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước và các đơn vị trong nội bộ ngành thuế.
- Nội dung kiểm tra, thanh tra thuế là việc chấp hành pháp luật thuế

- Về phương pháp, thanh tra, kiểm tra thuế đều phải xem xét hoạt động
thực tế của đối tượng để phát hiện, phân tích, đánh giá thực trạng đối tượng một
các chính xác, khách quan, làm rõ đúng, sai, chỉ rõ nguyên nhân để có biện pháp
khắc phục, xử lí vi phạm.
- Hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế không chỉ được thực hiện ở một giai
đoạn trong hoạt động quản lý thuế mà nó được thực hiện ở tất cả các giai đoạn
của quản lí thuế.
Tuy nhiên, giữa thanh tra và kiểm tra cũng có sự khác nhau nhất định:
- Thứ nhất, chủ thể của thanh tra thuế không đồng nhất với đối tượng thanh
tra thuế nhưng chủ thể kiểm tra thuế có thể không đồng nhất hoặc đồng nhất với đối


5

tượng kiểm tra, chẳng hạn tự kiểm tra nội bộ thì chủ thể và đối tượng kiểm tra đồng
nhất.
- Thứ hai, tính chất của thanh tra thuế là một hoạt động dựa vào quyền lực
của cơ quan quản lý Nhà nước. Kiểm tra là hoạt động trung tính, có thể là hoạt
động quyền lực của cơ quan quản lý Nhà nước có thể chỉ là hoạt động quản lý
đơn thuần.
- Thứ ba, nội dung hoạt động thanh tra thuế thường là kiểm tra ở giai đoạn
sau, khi các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh. Nội dung thanh tra thuế thường là
những vấn đề phức tạp, bản chất vấn đề thường được che giấu có chủ ý nên khó
nhận biết. Nội dung kiểm tra thuế thường là những vấn đề hiện tại, dễ nhận biết.
Tất nhiên, nội dung kiểm tra bao gồm cả những nội dung cụ thể của kiểm ra
trước, kiểm tra trong và kiểm tra sau khi các hoạt động kinh tế phát sinh.
- Thứ tư, do mức độ nghiêm trọng của sự việc cần thanh tra, nên thời gian
để tiến hành một cuộc thanh tra thuế thường dài hơn một cuộc kiểm tra thuế.
Từ những phân tích trên, có thể rút ra các nhận xét sau:
Mặc dù có những điểm khác nhau nhưng thanh tra thuế và kiểm tra thuế

đều là những hoạt động không thể thiếu trong công tác quản lý thuế. Việc phân
biệt thanh tra thuế và kiểm tra thuế không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn
có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong việc tổ chức, chỉ đạo, điều hành để tránh sự
chồng chéo giữa thanh tra và kiểm tra, giảm phiền hà cho các tổ chức cá nhân là
đối tượng thanh tra và kiểm tra.
Nguyên tắc hoạt động, việc phân loại, phương pháp và các tiêu chí đánh
giá hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra ĐTNT cũng tương tự như các nguyên
tắc hoạt động, việc phân loại, phương pháp và các tiêu chí đánh giá hiệu quả
công tác thanh tra, kiểm tra thuế nói chung. Cụ thể:
1.1.1.2. Nguyên tắc hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
- Phải tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp
luật
Không được làm trái các quy định của pháp luật là nguyên tắc quan trọng
nhất trong hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
Nguyên tắc này đòi hỏi các đơn vị, cá nhân tham gia quá trình thanh tra,
kiểm tra thuế chỉ được thực hiện những quyền mà pháp luật cho phép và phải


6

thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Mọi hành vi lạm quyền
hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đều bị coi là hành vi không tuân thủ quy
định của pháp luật và đều phải bị xử lý.
Thực hiện nguyên tắc này, chủ thể thanh tra (cơ quan, đoàn thanh tra và
các thành viên) khi thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra phải căn cứ vào các
quy định của pháp luật để kết luận, kiến nghị những vấn đề thanh tra, kiểm tra và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận, kiến nghị của mình. Đối tượng
thanh tra, kiểm tra phải nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định của chủ thể
thanh tra, kiểm tra, cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu và giải trình số liệu khi được
yêu cầu.

- Bảo đảm tính chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ,
kịp thời
Tính chính xác đòi hỏi chủ thể thanh tra, kiểm tra phải nhận thức đúng vấn
đề, nội dung kiểm tra, thanh tra; xác định, đánh giá chính xác bản chất của sự
việc để kết luận thanh tra, kiểm tra chính xác. Tính chính xác bảo đảm cho hoạt
động thanh tra, kiểm tra thuế đạt hiệu quả cao. Muốn đảm bảo tính chính xác,
không chỉ đòi hỏi quan điểm đúng đắn mà còn cần phải có kiến thức, năng lực
mới có thể đem lại kết quả chính xác.
Tính khách quan yêu cầu chủ thể thanh tra, kiểm tra phải phản ánh đúng
sự vật, hiện tượng như nó vốn có, không được lồng ý kiến chủ quan khi mô tả sự
vật, hiện tượng. Tính khách quan và tính chính xác có mối quan hệ tác động qua
lại. Tính khách quan tạo tiền đề cho việc kết luận chính xác và kết luận thanh tra,
kiểm tra có tính chính xác mới thể hiện được tính khách quan của hoạt động
thanh tra, kiểm tra.
Tính trung thực đòi hỏi chủ thể thanh tra, kiểm tra phải tuân thủ các quy
tắc về đạo dức nghề nghiệp, phản ánh đúng thực tế sự việc, không thiên lệch,
bóp méo sự việc dẫn đến kết luận không đúng thực tế.
Tính công khai thể hiện ở chỗ chủ thể thanh tra, kiểm tra phải thông báo
đầy đủ, công khai từ nội dung, kế hoạch, quyết định thanh tra, kiểm tra đến kết
luận thanh tra, kiểm tra để các tổ chức, cá nhân liên quan biết, giám sát và phối
hợp thực hiện. Việc công khai hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao tính
khách quan của hoạt động thanh tra, kiểm tra, hạn chế những tiêu cực phát sinh


7

trong quá trình thanh tra, kiểm tra. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, tuỳ tính chất
của cuộc thanh tra, kiểm tra cụ thể, cần có hình thức, mức độ công khai phù hợp
để đảm bảo hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Tính dân chủ nhằm tạo cơ hội cho đối tượng kiểm tra, thanh tra được trình

bày ý kiến, quan điểm về những nội dung thanh tra, kiểm tra cũng như về hoạt
động của đoàn thanh tra, kiểm tra cụ thể, tránh tình trạng áp đặt của chủ thể
thanh tra, kiểm tra.
Tính kịp thời: Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế nhằm phục vụ các mục
tiêu quản lý thuế trong những thời điểm nhất định. Vì vậy, thanh tra, kiểm tra kịp
thời ngoài việc giúp cho đối tượng kịp thời nhận rõ sai phạm, để sửa chữa, khắc
phục ngay, tránh vi phạm kéo dài còn giúp cơ quan thuế chấn chỉnh và sửa đổi
cơ chế, chính sách thuế phù hợp thực tiễn, nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Mặt
khác tính kịp thời còn đảm bảo cuộc thanh tra, kiểm tra có biên bản, kết luận
đúng thời hạn luật định, tránh tình trạng dây dưa, kéo dài thời gian công bố kết
luận thanh tra, kiểm tra.
- Không làm cản trở hoạt động bình thường của đối tượng thanh tra, kiểm
tra.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế là "vấn đề hết sức nhạy cảm" và trong
những năm gần đây, vấn đề quyền và những bảo đảm thực hiện quyền của ĐTNT
được ''đặc biệt quan tâm'' [15, tr.151]. Việc cơ quan chức năng tổ chức tiến hành
kiểm tra, thanh tra tại cơ sở kinh doanh là cần thiết nhưng ít nhiều cũng sẽ ảnh
hưởng đến hoạt động của đối tượng bị thanh tra, kiểm tra. Tình trạng kéo dài,
dây dưa, không công bố kết luận thanh tra, kiểm tra có lúc, có nơi vẫn còn tồn
tại. Mặt khác, do việc phân cấp quản lý còn chồng chéo nên một đối tượng có
thể được nhiều ngành quản lý và do đó sẽ có thể phát sinh nhiều đoàn thanh tra,
kiểm tra đối tượng cùng thời điểm hoặc trong một thời gian ngắn.
Nguyên tắc này nhằm hạn chế tối đa những cuộc kiểm tra, thanh tra chồng
chéo của các cơ quan quản lý, đảm bảo quyền hoạt động bình thường của đối
tượng thanh tra, kiểm tra, đảm bảo về cùng một nội dung, trong một năm đối
tượng chỉ bị thanh tra, kiểm tra một lần. Cùng với việc thực hiện tốt nguyên tắc
kịp thời trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, nguyên tắc này nhằm bảo vệ quyền
lợi chính đáng của đối tượng thanh tra, kiểm tra.



8

1.1.1.3. Nội dung thanh tra, kiểm tra ĐTNT
Nội dung kiểm tra, thanh tra ĐTNT tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau:
- Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành những quy định về đăng ký thuế.
- Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ.
- Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế
1.1.1.4. Phân loại kiểm tra, thanh tra thuế
- Theo tính kế hoạch
Nếu xét theo tính kế hoạch, hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế có hai hình
thức là thanh tra, kiểm tra theo chương trình, kế hoạch và thanh tra, kiểm tra đột
xuất.
+ Thanh tra, kiểm tra theo chương trình, kế hoạch được tiến hành theo
chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt. Căn cứ vào nguồn lực hiện có, tình
hình chấp hành pháp luật thuế trên địa bàn và mục tiêu quản lý thuế, cơ quan
thuế xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra và trình cấp cấp thẩm quyền phê
duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra đã được phê duyệt.
+ Thanh tra, kiểm tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ
chức, cá nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, theo yêu cầu của việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo hoặc do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao.
- Theo nội dung và phạm vi thanh tra, kiểm tra.
Theo tiêu thức này, thanh tra, kiểm tra thuế được chia thành hai loại là
thanh tra, kiểm tra toàn diện và thanh tra, kiểm tra bộ phận.
+ Thanh tra, kiểm tra toàn diện: Với hình thức này, cơ quan chức năng tiến
hành thanh tra, kiểm tra toàn bộ công tác quản lý thu của một cơ quan thuế hoặc
toàn bộ quá trình kê khai, nộp thuế với tất cả các sắc thuế của một đối tượng nộp
thuế.
+ Thanh tra, kiểm tra bộ phận: Hình thức này thường đựoc áp dụng khi
thanh tra, kiểm tra một hoặc một vài sắc thuế; một hoặc một số kỳ tính thuế hoặc
một vài quy trình quản lý thuế

- Theo địa điểm tiến hành thanh tra, kiểm tra
+ Thanh tra, kiểm tra tại cơ quan thuế (tại bàn).
+ Thanh tra, kiểm tra tại cơ sở của đối tượng thanh tra, kiểm tra.
1.1.1.5. Phương pháp thanh tra, kiểm tra thuế


9

- Phương pháp đối chiếu, so sánh
Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình thanh tra, kiểm
tra thuế. Nội dung của phương pháp này là thực hiện việc so sánh, đối chiếu nội
dung cần thanh tra, kiểm tra với các nguồn thông tin khác nhau để đánh giá, xem
xét nôi dung cần thanh tra, kiểm tra.
- Phương pháp kiểm tra từ tổng hợp đến chi tiết
Đây là phương pháp tối ưu để kiểm tra số liệu kế toán. Theo phương pháp
này, trước hết kiểm tra số liệu tổng hợp sau mới kiểm tra số liệu chi tiết. Việc
kiểm tra tổng hợp nhằm rút ra những nhận xét tổng quát để từ đó định hướng
những nội dung cần đi sâu kiểm tra (kiểm tra chi tiết).
- Phương pháp kiểm tra chứng từ gốc:
Có ba phương pháp kiểm tra chứng từ gốc:
+ Kiểm tra theo trình tự thời gian là việc thực hiện kiểm tra chứng từ gốc
đã được sắp xếp theo trình tự thời gian phát sinh. Phương pháp này mất nhiều
thời gian và hiệu quả thấp nên ít được sử dụng.
+ Kiểm tra theo loại nghiệp vụ là việc thực hiện kiểm tra chứng từ gốc đã
được phân loại, sắp xếp theo một nghiệp vụ nhất định, như chứng từ thu, chi tiền
mặt, xuất, nhập kho...Phương pháp này được áp dụng khi cần rút ra kết luận đầy
đủ về một loại nghiệp vụ theo yêu cầu của nội dung kiểm tra, thanh tra. Phương
pháp này tiết kiệm thời gian và cho hiệu quả cao.
+ Kiểm tra điển hình là việc kiểm tra ngẫu nhiên một số chứng từ của một
loại nghiệp vụ để rút ra kết luận chung. Phương pháp này tiết kiệm nhièu thời

gian nhưng độ tin cậy của kết luận không cao.
- Các phương pháp kiểm tra bổ trợ
+ Phương pháp phỏng vấn: Phương pháp này được sử dụng khi cần thu
thập thông tin từ những người có quan hệ trực tiếp, gián tiếp đến nội dung kiểm
tra, thanh tra.
+ Ngoài ra còn một số phương pháp khác như: Phương pháp thẩm tra và
xác nhận từng phần, phương pháp quan sát...
1.1.1.6. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế
Hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế không chỉ được xem xét, đánh
giá đơn thuần ở khía cạnh vật chất (hiệu quả kinh tế) mà còn được xem xét, đánh


10

giá dưới giác độ hiệu quả xã hội – chính trị. Vì vậy, các tiêu chí đánh giá hiệu
quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế được chia 2 nhóm là:
- Các tiêu chí định lượng:
Các tiêu chí định lượng thể hiện ở kết quả thực tế của nghiệp vụ thanh tra,
kiểm tra đã được tiến hành. Đó là kết quả cụ thể của việc thực hiện nhiệm vụ
được giao hoặc kết quả đem lại của các nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra. Các tiêu
chí này thường gồm:
+ Tình hình thực hiện kế hoạch thanh tra về từng chỉ tiêu định lượng của
kế hoạch: Đánh giá tiêu chí này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Tỷ lệ hoàn
thành kế hoạch về số đối tượng thanh tra, kiểm tra so với kế hoạch năm; Tỷ lệ
hoàn thành kế hoạch về số thời gian thanh tra, kiểm tra so với kế hoạch năm; Tỷ
lệ hoàn thành kế hoạch về số vụ việc khiếu tố giải quyết được so với kế hoạch
năm; Tỷ lệ thanh tra, kiểm tra hàng năm so với tổng số đối tượng thanh tra, kiểm
tra...
+ Tình hình vi phạm pháp thuế đã phát hiện qua thanh tra, kiểm tra: Đánh
giá tiêu chí này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Tỷ lệ vi phạm pháp luật

thuế/tổng số đối tượng thanh tra, kiểm tra; Tổng số tiền thuế truy thu qua thanh
tra, kiểm tra; Số tiền thuế truy thu bình quân/đối tượng thanh tra, kiểm tra
+ Chi phí vật chất và thời gian cho thanh tra, kiểm tra: Đánh giá tiêu chí
này thường dựa vào các chỉ tiêu như: Thời gian bình quân 1 cuộc thanh tra,
kiểm tra; Số đối tượng được thanh tra, kiểm tra bình quân/thanh tra viên hàng
năm; Chi phí bằng tiền trực tiếp cho thanh tra, kiểm tra;….
+ Hiệu quả trực tiếp của thanh tra, kiểm tra: Đánh giá tiêu chí này thường
dựa vào các chỉ tiêu như: Chi phí thanh tra, kiểm tra so với số thuế truy thu được
đã nộp NSNN; Tỷ lệ giữ nguyên; sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định truy thu thuế
theo biên bản thanh tra, kiểm tra thuế khi giải quyết khiếu nại của đối tượng
thanh tra, kiểm tra; Tỷ lệ các trường hợp đối tượng thanh tra, kiểm tra chấp nhận
hoàn toàn kết luận thanh tra, kiểm tra ; Tỷ lệ số thuế truy thu được nộp vào
NSNN/tổng số thuế truy thu……
Mặc dù có thể tính toán cụ thể được một số chỉ tiêu đã kể trên song thực
tế đa số các chỉ tiêu không thực sự phản ánh rõ hiệu quả kinh tế của công tác
thanh tra, kiểm tra. Bên cạnh việc tính toán chỉ tiêu này trong năm, để đánh giá


11

chính xác hơn tính hiệu quả, cần phải so sánh với những năm cũ để đánh giá xu
hướng biến động của các chỉ tiêu, có như thế mới thấy rõ những tiến bộ của từng
khâu công tác.
- Các tiêu chí định tính:
Các chỉ tiêu định tính thường là hệ quả của công tác thanh tra, kiểm tra mà
không thể hoặc khó tính toán, đo đếm được. Đó thường là những hiệu quả có
tính xã hội, chính trị như:
+ Sự chuyển biến về ý thức tuân thủ pháp luật thuế. Tiêu chí này có thể đo
lường được thông qua so sánh tỷ lệ tuân thủ pháp luật thuế của đối tượng thanh
tra, kiểm tra qua các năm, đặc biệt là những đối tượng đã được thanh tra, kiểm

tra (mức độ tái phạm).
+ Tác dụng trong việc ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật thuế; tạo sự
công bằng giữa các đối tượng nộp thuế; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Có thể đánh giá tác dụng này thông qua xem xét tỷ lệ đối tượng vi phạm bị xử lý
truy thu thuế và xử phạt hành chính thuế (chia theo hình thức xử phạt).
+ Tác dụng trong việc phòng chống tham nhũng trong nội bộ cơ quan
quản lý thuế và tạo lòng tin của nhân dân vào hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế.
Có thể đánh giá tác dụng này thông qua xem xét tỷ lệ cán bộ thuế vi phạm pháp
luật trong thanh tra, kiểm tra; tỷ lệ cán bộ thuế vi phạm pháp luật bị xử lý (chia
theo hình thức); những vụ việc vi phạm quan trọng và nhạy cảm được phát hiện
và xử lý…
Hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả thanh tra, kiểm tra được đánh giá theo
kỳ (quý, năm) và được chia theo sắc thuế; theo hình thức thanh tra; theo loại đối
tượng nộp thuế và từng nội dung thanh tra, kiểm tra tương ứng.
1.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế
1.1.2.1. Điều kiện kinh tế xã hội và trình độ dân trí
Điều kiện kinh tế xã hội là một trong những yếu tố có ảnh hưởng trực
tiếp đến quản lý thuế nói chung và hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế nói riêng.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hội nhập sâu rộng hiện nay
thì hệ thống luật pháp sẽ dần được hoàn thiện, cơ sở trang thiết bị vật chất kỹ
thuật ngày càng được hiện đại hoá và số lượng người nộp thuế không ngừng tăng
lên nhanh chóng... Tất cả những biến đổi trên đều tác động lớn tới hiệu quả công


12

tác thanh tra, kiểm tra thuế. Việc có được một hệ thống pháp luật thuế đồng bộ,
hoàn thiện, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước sẽ là cơ sở pháp lý
quan trọng để hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế đi vào khuôn khổ, đồng thời nó
cũng giúp cho người nộp thuế hiểu và nghiêm túc thực hiện theo quy định của

pháp luật. Thêm vào đó, việc được đầu tư trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại như: máy móc, thiết bị, hệ thống ứng dụng tin học hiện đại tích hợp đầy đủ
các thông tin về từng người nộp thuế nói riêng và các thông tin ngành nói
chung...cũng hỗ trợ cho công tác thanh tra, kiểm tra thuế được tiến hành thuận
lợi, có tính chính xác và hiệu quả cao hơn. Số lượng người nộp thuế ngày càng
tăng sẽ là một thách thức không nhỏ đến công tác thanh tra, kiểm tra. Bởi cùng
với sự gia tăng về số lượng sẽ là sự đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp và
các hình thức kinh doanh, kèm theo đó là sự phức tạp, tinh vi hơn về thủ đoạn
trốn, tránh, gian lận thuế của người nộp thuế. Nếu không chuẩn bị cho mình một
hành trang đầy đủ (pháp lý, nhân lực, vật lực..), cơ quan quản lý thuế, nhất là bộ
phận thanh tra, kiểm tra sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát hiện và xử lý
kịp thời các vụ gian lận, ẩn lậu thuế, gây thất thu cho NSNN.
Trình độ dân trí càng cao, sự hiểu biết về pháp luật thuế cũng như ý thức
tự tuân thủ của người nộp thuế ngày càng được cải thiện, bởi họ hiểu rõ quyền,
lợi ích và trách nhiệm của mình khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Điều này ảnh hưởng lớn tới hiệu quả các cuộc thanh tra, kiểm tra thuế. Ngược
lại, cũng vì sự hiểu biết về pháp luật thuế mà khả năng, thủ đoạn trốn, tránh thuế
của người nộp thuế ngày càng tinh vi, phức tạp hơn, gây khó khăn cho cán bộ
thanh tra, kiểm tra thuế trong việc phát hiện ra các gian lận, giảm hiệu quả thanh
tra, kiểm tra thuế.
1.1.2.2. Mô hình quản lý thuế
Thuế là một phạm trù kinh tế khách quan đồng thời cũng là một phạm trù
lịch sử, thuế xuất hiện, tồn tại cùng với sự hình thành và tồn tại của Nhà nước,
với sự phát triển của kinh tế hàng hoá, tiền tệ. Thuế luôn gắn chặt với sự phát
triển của nhà nước, sự thay đổi hình thái tổ chức nhà nước luôn kéo theo sự cải
biến của hệ thống thuế. Để có thể huy động đầy đủ, kịp thời nguồn thu từ thuế
vào ngân sách đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu cần thiết, Nhà nước phải tổ chức
việc quản lý thuế.



13

Quản lý thuế là hoạt động quản lý của Nhà nước mà cơ quan thuế là đại
diện, thông qua việc tổ chức, điều hành bộ máy ngành thuế, thực hiện hệ thống
chính sách pháp luật thuế và hệ thống các qui trình quản lý thu để động viên một
phần thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ việc tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ và
từ việc lưu giữ, chuyển dịch tài sản của các thể nhân và pháp nhân vào NSNN
nhằm trang trải cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Quản lý thuế được thực hiện theo những mô hình quản lý nhất định. Lịch
sử quản lý thuế cho thấy có 3 mô hình quản lý thuế cơ bản: mô hình quản lý theo
sắc thuế, mô hình quản lý thu theo chức năng và mô hình quản lý thu theo
ĐTNT. Mỗi mô hình có những ảnh hưởng khác nhau đến hiệu quả công tác
thanh tra, kiểm tra thuế.
- Mô hình quản lý theo sắc thuế
Đây là mô hình được "tổ chức sớm nhất" [37, tr. 20] trong hoạt động quản
lý thuế, được các ngành thuế áp dụng dựa trên nguyên tắc “sắc thuế”. Theo mô
hình này, cơ quan thuế được tổ chức thành các bộ phận (phòng, ban) riêng biệt để
chuyên trách quản lý một số sắc thuế cụ thể. Mỗi phòng, ban thực hiện tất cả các
chức năng, các nghiệp vụ để quản lý thu đối với một hoặc một vài sắc thuế. Mô
hình quản lý theo sắc thuế áp dụng có hiệu quả ở cơ quan thuế Trung ương do
nhiệm vụ của cơ quan này là nghiên cứu, ban hành chính sách chế độ thu. Mô
hình này thích hợp đối với những nước sử dụng các vấn đề nghiệp vụ cụ thể và
quy trình quản lý khác nhau đối với mỗi sắc thuế.
Mô hình này phát huy hiệu quả cao nhất trong trường hợp thanh tra một sắc
thuế của một đối tượng nộp thuế bởi tính chuyên môn hoá theo sắc thuế cao. Tuy
nhiên, trong trường hợp thanh tra một đối tượng nộp thuế nộp nhiều sắc thuế khác
nhau lại xảy ra hiện tượng chồng chéo về chức năng thanh tra giữa các phòng ban.
ở bất kỳ phòng, ban nào cũng có các bộ phận nghiệp vụ thực hiện các công việc
như nhau, dẫn đến biên chế quản lý lớn, làm cho chi phí quản lý thu tăng lên, chi
phí tuân thủ cao...Trong khi đó rủi ro thất thu thuế vẫn cao do các chức năng,

nghiệp vụ quản lý thuế được khép kín, độc lập trong một phòng, ban riêng biệt.
Giữa các phòng, ban trong cơ quan thuế không có sự liên kết nào nên hiện tượng
thông đồng để trốn thuế giữa ĐTNT và cán bộ thanh tra thuế khó phát hiện nếu
các thủ tục kiểm tra nội bộ thiếu chặt chẽ và việc kiểm tra không được tổ chức


14

thường xuyên. Đồng thời, trình độ chuyên môn của cán bộ thanh tra thuế không
được toàn diện do kỹ năng của họ là một sắc thuế. Do vậy, hiệu quả của công tác
thanh tra, kiểm tra thuế không cao.
- Mô hình quản lý thu theo chức năng
Theo mô hình này, bộ máy quản lý thuế được tổ chức theo các nhóm chức
năng, mỗi bộ phận thực hiện một công việc nghiệp vụ cụ thể có liên quan đến tất
cả các sắc thuế như: Đăng ký thuế, Xử lý tờ khai thuế và Kế toán thuế, Thanh tra
thuế, Thu nợ...). Quản lý thuế theo mô hình này cho phép cơ quan thuế chuẩn hóa
mạnh hơn về quy trình thủ tục làm việc đối với các loại thuế, đơn giản hóa hệ
thống tin học và giao tiếp với đối tượng nộp thuế, đồng thời nâng cao hiệu quả
chung của ngành.
Mô hình này thích ứng với mọi sự thay đổi về ĐTNT và tạo ra sự kiểm tra
chéo giữa các cán bộ thuế ở các bộ phận khác nhau, hạn chế tiêu cực nên giảm
nguy cơ gian lận thuế, thất thu thuế bởi bất kỳ sự thông đồng nào giữa ĐTNT và
cán bộ thuế. Đồng thời khắc phục được sự trùng lắp về chức năng thanh tra giữa
các phòng ban theo mô hình quản lý thu theo sắc thuế và góp phần nâng cao
năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ thanh tra thuế. Tuy nhiên, do thông
tin về ĐTNT bị phân tán nên khi cần thông tin đầy đủ về ĐTNT để tiến hành
thanh tra, kiểm tra phải mất nhiều thời gian để tổng hợp thông tin từ các phòng,
ban chức năng khác nhau làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thanh tra, kiểm
tra.
- Mô hình quản lý thu theo ĐTNT

Đây là mô hình đang được áp dụng tại một số nước phát triển. Theo mô
hình này, ĐTNT được phân loại để quản lý theo nhóm trên cơ sở đặc điểm và
mức độ tuân thủ pháp luật thuế của ĐTNT. Do đặc điểm và mức độ tuân thủ
pháp luật thuế của mỗi nhóm ĐTNT là khác nhau nên mỗi nhóm cũng có những
rủi ro khác nhau về số thu. Để quản lý hiệu quả những rủi ro này, cơ quan thuế
cần phải phát triển và thực hiện các chiến lược sao cho phù hợp với đặc tính và
sự tuân thủ của từng nhóm đối tượng nộp thuế. Do đó, mỗi phòng, ban trong cơ
quan thuế sẽ chịu trách nhiệm quản lý một hoặc vài nhóm đối tượng cụ thể. Các
nhóm ĐTNT được phân chia dựa trên cơ sở qui mô hoạt động, hình thức sở hữu,
ngành kinh tế ...Ví dụ: Nhóm doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhóm


15

người làm công ăn lương….
Áp dụng mô hình này, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra mỗi nhóm
ĐTNT khá cao. Do có sự chuyên môn hoá theo đối tượng, kết hợp với chuyên
môn hoá theo sắc thuế nên thông tin về ĐTNT được tập trung khá đầy đủ tại các
phòng, ban tương ứng và trình độ, năng lực của cán bộ thanh tra, kiểm tra thuế
tương đối phù hợp với yêu cầu quản lý. Tuy nhiên, do mỗi ĐTNT chịu sự quản
lý của một phòng, ban cụ thể nên vẫn có khả năng xảy ra tiêu cực trong quá trình
thanh tra, kiểm tra thuế. Đồng thời, mô hình này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán
bộ thanh tra, kiểm tra có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao vì họ phải tiếp xúc
và xử lý các vấn đề liên quan đến tất cả các sắc thuế của ĐTNT.
Trên cơ sở các mô hình quản lý thuế cơ bản này, mỗi quốc gia sẽ lựa chọn
mô hình quản lý thuế phù hợp theo đặc điểm chính trị - kinh tế - xã hội và trình
độ quản lý của mình, có thể là một trong số các mô hình cơ bản hoặc mô hình
quản lý thuế kết hợp 2 hoặc cả 3 mô hình cơ bản trên.
1.1.2.3. Cơ chế quản lý thuế
Để tiến hành công tác thu nộp thuế, người ta thường chọn một trong hai cơ

chế: Cơ quan thuế tính và ra thông báo nộp thuế và cơ sở sản xuất, kinh doanh tự
khai tự nộp thuế.
- Cơ chế cơ quan thuế tính và ra thông báo nộp thuế
Đây là cơ chế quản lý thuế theo đó định kỳ theo thời gian, căn cứ vào tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh và các quy định của pháp luật thuế, các
ĐTNT phải kê khai thuế và nộp tờ khai cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế nhận tờ
khai, kiểm tra và tính thuế, sau đó thông báo số thuế phải nộp cho ĐTNT. ĐTNT
có trách nhiệm nộp đầy đủ tiền thuế theo thông báo vào Kho bạc nhà nước trong
thời gian quy định. Cơ quan thuế kiểm tra, đối chiếu số thuế mà đối tượng đã
nộp vào ngân sách với thông báo. Cơ chế này đảm bảo việc tính toán chính xác
số thuế phải nộp vào NSNN của các ĐTNT. Tuy nhiên, cơ chế quản lý này có
một số nhược điểm ảnh hưởng đến công tác thanh tra, kiểm tra sau:
- Hiệu quả quản lý của cơ quan thuế thấp do phải làm thay các công việc
cho ĐTNT, không đủ điều kiện tập trung thời gian và công sức cho công việc
thanh tra, kiểm tra thuế . . .
- Dễ xảy ra các hiện tượng tiêu cực giữa cán bộ thanh tra thuế và ĐTNT, làm


16

thất thu NSNN.
- Trách nhiệm pháp lý của ĐTNT đối với tính chính xác của việc tính toán
số thuế phải nộp không cao do số thuế họ phải nộp được xác định theo thông báo
của cơ quan thuế. ĐTNT có thể tính toán số thuế phải nộp một cách qua loa, đại
khái, nếu cơ quan thuế kiểm tra, tính toán không kỹ thì có thể dẫn dến xác định
sai số thuế phải nộp, làm thất thu ngân sách mà các ĐTNT không hề có lỗi.
Nhìn chung, cơ chế này mang tính áp đặt, không nâng cao được tính tự
giác, trách nhiệm công dân của ĐTNT. Do vậy, công tác thanh tra, kiểm qua thuế
gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả thu được không cao.
Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, hiện nay các quốc gia trên thế

giới đang chuyển sang thực hiện cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế.
- Cơ chế cơ sở sản xuất kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế
Đây là cơ chế quản lý thuế, theo đó ĐTNT căn cứ vào kết quả sản xuất
kinh doanh trong kỳ kê khai của mình và căn cứ vào các quy định của pháp luật
về thuế tự kê khai, tự tính toán số thuế phải nộp, chủ động nộp thuế cho nhà
nước theo đúng thời hạn qui định của pháp luật. Cơ quan thuế không can thiệp
vào quá trình kê khai nộp thuế của các ĐTNT trừ khi phát hiện các sai sót, vi
phạm hoặc các dấu hiệu không chấp hành luật thuế. Cơ quan thuế có trách nhiệm
tuyên truyền, hỗ trợ, hướng dẫn để ĐTNT hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ
thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của ĐTNT và
thông qua công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, xử lý kịp thời những hành vi
trốn thuế của ĐTNT.
Trong cơ chế TKTN thuế, ĐTNT phải hiểu biết đầy đủ về các quyền và
nghĩa vụ của mình để có thể tự tính toán được nghĩa vụ thuế. ĐTNT tự kê khai,
tự tính số thuế phải nộp và nộp tờ khai thuế cho cơ quan thuế trên cơ sở kết quả
sản xuất kinh doanh của mình và chính sách chế độ về thuế mà không cần sự xác
nhận trực tiếp của cơ quan thuế. Trên cơ sở số thuế đã kê khai, cơ sở kinh doanh
chủ động nộp tiền thuế vào NSNN. Đồng thời, ĐTNT được áp dụng các thủ tục
kê khai, nộp thuế đơn giản, thuận lợi và được hướng dẫn, được cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ chất lượng cao nhằm tạo thuận lợi cho họ tự giác tuân thủ đúng
nghĩa vụ thuế theo qui định.
Thực hiện quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế, bộ máy quản


17

lý thuế ở cơ quan thuế được tổ chức tập trung theo các chức năng, bao gồm các
chức năng chính: Tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT; Xử lý tờ khai và kế toán thuế; Thu
nợ - cưỡng chế thuế và Kiểm tra, thanh tra thuế. Trong đó, chức năng thanh tra,
kiểm tra thuế là chức năng trọng tâm của cơ quan thuế trong cơ chế tự kê khai, tự

nộp thuế. Cơ quan thuế tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế trên cơ sở thu thập đủ
các thông tin cần thiết về ĐTNT (từ tờ khai, báo cáo tài chính và các thông tin từ
các nguồn khác) để phân tích, đánh giá xác định theo các tiêu chí đánh giá rủi ro
để lựa chọn ĐTNT cần kiểm tra, thanh tra và nội dung, hình thức kiểm tra, thanh
tra phù hợp. Các thông tin về ĐTNT được thanh tra, kiểm tra được cập nhật ngay
khi có biến động trên cơ sở dữ liệu chung do Tổng cục Thuế quản lý và được
chia sẻ, khai thác trên phạm vi cả nước.
Chỉ khi ĐTNT nhận thức rằng cơ quan thuế đang thực hiện các chương
trình thanh tra thuế hiệu quả và nếu gian lận về thuế, họ sẽ bị cơ quan thuế phát
hiện và bị xử phạt nghiêm khắc, ĐTNT mới tự giác thực hiện đúng nghĩa vụ
thuế. Trong cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế, công tác thanh tra không phải để
nhằm tăng số thu thuế, mà mục tiêu chính là nhằm ngăn ngừa, phòng chống
ĐTNT vi phạm pháp luật thuế.
Với những nội dung trên, có thể thấy rằng phương thức quản lý thuế mới
có tính khách quan hơn và khắc phục được những hạn chế của cơ chế cơ quan
thuế tính và ra thông báo nộp thuế và tác động tích cực đến hiệu quả công tác
thanh tra, kiểm tra thuế.
1.2. HOẠT ĐỘNG THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ TRONG ĐIỀU KIỆN
THỰC HIỆN ĐỔI MỚI QUẢN LÝ THUẾ
1.2.1. Ảnh hưởng của việc đổi mới cơ chế quản lý thuế đến hoạt động thanh
tra, kiểm tra thuế.
Khi thực hiện đổi mới quản lý thuế, công tác quản lý thuế sẽ có bước
chuyển đổi cơ bản. Cơ quan thuế không còn can thiệp vào quá trình kê khai, nộp
thuế của ĐTNT trừ khi phát hiện các sai sót, vi phạm hoặc các dấu hiệu không
chấp hành luật thuế. Cơ quan thuế có trách nhiệm tuyên truyền, hỗ trợ, hướng
dẫn để ĐTNT hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt
chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của ĐTNT và thông qua công tác kiểm tra, thanh
tra để phát hiện, xử lý kịp thời những hành vi trốn thuế của ĐTNT.



18

Việc thực hiện đổi mới quản lý thuế đòi hỏi ĐTNT phải có mức độ tuân
thủ nghĩa vụ thuế rất cao. Để nâng cao tính tuân thủ pháp luật thuế của ĐTNT,
ngoài việc tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT, cơ quan thuế phải
đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra và nâng cao hiệu quả hoạt động thanh
tra, kiểm tra. Tuy nhiên với một nguồn lực hạn chế, cơ quan thuế không thể thực
hiện thanh tra, kiểm tra tất cả ĐTNT. Do vậy, cơ quan thuế phải xây dựng một cơ
chế thanh tra, kiểm tra để phân bổ hiệu quả nguồn lực nhằm giám sát tốt nhất
hoạt động của ĐTNT, kịp thời phát hiện và xử lý ĐTNT vi phạm pháp luật về
thuế vừa nâng cao trách nhiệm, tính chủ động của ĐTNT trong việc thực hiện
pháp luật thuế và giảm phiền hà, tôn trọng, khuyến khích các ĐTNT tuân thủ
nghiêm túc pháp luật thuế. Để đáp ứng yêu cầu này, cơ quan thuế đã thực hiện
chính sách thanh tra, kiểm tra dựa trên phương pháp quản lý rủi ro tuân thủ.
Theo đó, cơ quan thuế, trên cơ sở thu nhập đầy đủ thông tin về ĐTNT, tiến hành
phân tích, đánh giá và phân loại ĐTNT theo mức độ rủi ro vi phạm về thuế để
lựa chọn đối tượng cần thanh tra, kiểm tra theo nguyên tắc:
- Tăng cường, tập trung thanh tra, kiểm tra thường xuyên đối với ĐTNT
có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng pháp luật thuế; Thanh tra, kiểm tra bộ phận
hoặc hướng dẫn, nhắc nhở đối với các ĐTNT vi phạm không nghiêm trọng; Hạn
chế tối đa thanh tra, kiểm tra đối với ĐTNT chưa phát hiện có vi phạm pháp luật
thuế
- Tăng cường thực hiện hình thức kiểm tra tại cơ quan thuế (kiểm tra tại
bàn), hạn chế thanh tra, kiểm tra tại cơ sở ĐTNT.
- Hạn chế thanh tra, kiểm tra toàn diện, tập trung thanh tra, kiểm tra theo
chuyên đề và nội dung vi phạm (thanh tra, kiểm tra chuyên sâu theo nhóm
ngành, nghề, theo lĩnh vực và theo sắc thuế).
Từ cách tiếp cận về sử dụng hiệu quả nguồn lực và phân loại đối tượng
thanh tra, kiểm tra theo mức độ tuân thủ, chính sách thanh tra này không những
phù hợp với nội dung thanh tra, kiểm tra ĐTNT mà được áp dụng rộng rãi đối

với các nội dung thanh tra, kiểm tra khác.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế trong điều kiện đổi mới
quản lý thuế


×