Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Thực trạng môi trường và bệnh tai mũi họng của người lao động sản xuất gốm tại làng nghề phù lãng, huyện quế võ, tỉnh bắc ninh (luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 71 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC

ĐỖ ĐỨC HUY

THỰC TRẠNG MÔI TRƢỜNG VÀ BỆNH TAI MŨI HỌNG
CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GỐM TẠI LÀNG
NGHỀ PHÙ LÃNG, HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II

THÁI NGUYÊN – NĂM 2015


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

BỘ Y TẾ

TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC

ĐỖ ĐỨC HUY


THỰC TRẠNG MÔI TRƢỜNG VÀ BỆNH TAI MŨI HỌNG
CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG SẢN XUẤT GỐM TẠI LÀNG
NGHỀ PHÙ LÃNG, HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

Chuyên ngành: Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số: 62 72 76 01

LUẬN VĂN CHUYÊN KHOA CẤP II

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN CÔNG HÒA

THÁI NGUYÊN – NĂM 2015


3

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sản xuất quy mô nhỏ, thủ công tại các làng nghề truyền thống ở nước
ta đã và đang có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước nói chung và đối với nông thôn nói riêng. Nhiều làng nghề truyền
thống hiện nay đã được khôi phục, đầu tư phát triển với quy mô và kỹ thuật
cao hơn, hàng hóa không những đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất
khẩu với giá trị lớn ra nhiều nước trên thế giới.
Các làng nghề thủ công, truyền thống ở Bắc Ninh được hình thành từ rất
sớm. Nền kinh tế hội nhập, đã tạo nên nhiều cơ hội, sức bật cho các làng
nghề. Tại Bắc Ninh hiện có 62 làng nghề trong đó có 30 làng nghề truyền
thống. Đặc điểm chung của các làng nghề ở Bắc Ninh là quy mô sản xuất nhỏ
lẻ, cả làng cùng sản xuất ra những sản phẩm giống nhau, với dây chuyền công
nghệ thủ công và lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên, nhiên liệu. Tại các cơ sở sản
xuất luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với môi trường và sức khỏe người dân.

Các dây chuyền sản xuất gốm hiện nay tại Bắc Ninh cũng như tại nhiều
địa phương, chủ yếu là công nghệ cũ, lạc hậu, thủ công... nguy cơ ô nhiễm
môi trường cao, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người lao động [14], [15]. Theo
số liệu của Cục y tế dự phòng Bộ Y tế năm 2003: tỷ lệ mẫu đo hơi khí độc
vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) là 12% đến 14% [6]. Cũng theo đánh giá
của các chuyên gia thuộc Cục y tế dự phòng, các yếu tố môi trường như khói,
bụi và vi khí hậu bất lợi luôn là vấn đề tồn tại ở các lò gốm thủ công. Các kết
quả nghiên cứu về hàm lượng bụi toàn phần ở các phân xưởng lò nung gốm
luôn cao hơn mức cho phép rất nhiều lần. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho
thấy sự gia tăng đáng kể các bệnh hô hấp, mũi họng trong thời gian gần đây.
Hầu hết các tác giả trong và ngoài nước cho rằng sản xuất quy mô nhỏ, lạc
hậu ở nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển góp phần gia tăng nhiều
bệnh tật [12], [33], [51]. Tại nhiều cơ sở sản xuất, tỷ lệ mắc các bệnh Tai Mũi - Họng lên tới hơn 70% [10].


4

Làng gốm Phù Lãng thuộc huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh có từ lâu đời,
tuy nhiên quy trình sản xuất ở đây vẫn là thủ công, lạc hậu. Dây chuyền sản
xuất gốm ở Phù Lãng phát sinh nhiều chất thải độc hại như: bụi, khói có chứa
CO, SO2, CO2... Các nguyên liệu chính trong sản xuất là đất, than và củi nên ô
nhiễm môi trường có thể thấy bằng mắt thường. Các nguy cơ, căn nguyên trên
đã được nhiều tác giả chứng minh về khả năng làm tăng tỷ lệ các bệnh ở mũi,
họng của người lao động [16], [18], [19]. Xuất phát từ tính cấp thiết trên,
chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu “Thực trạng môi trường và bệnh Tai mũi
họng của người lao động sản xuất gốm tại làng nghề Phù Lãng, huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh”, nhằm đáp ứng 3 mục tiêu:
1. Đánh giá môi trường lao động của người sản xuất gốm tại làng nghề
Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh năm 2014.
2. Xác định tỷ lệ mắc bệnh Tai mũi họng của người lao động sản xuất

gốm tại làng nghề Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
3. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến bệnh Tai mũi họng của người
lao động sản xuất gốm tại làng nghề Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.


5

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Bệnh tai mũi họng
Tai mũi họng là một trong nhóm các cơ quan hay bị bệnh nhất, bởi các cơ
quan này có liên quan trực tiếp với môi trường lao động và là cửa ngõ của
đường ăn, đường thở. Mỗi ngày có khoảng 9.000 lít không khí được hít thở
qua mũi. Không khí bị ô nhiễm, nhiệt độ thay đổi dễ dẫn tới nhiễm khuẩn hô
hấp. Nhóm bệnh thuộc các cơ quan này là nhóm các bệnh của đường hô hấp
trên, thông thường ít nguy hiểm, nhưng hay tái phát, tần xuất tái phát có thể 4 –
5 lần trong một năm, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến các chức năng: nghe, nói,
thở và cũng gây nên những ảnh hưởng không nhỏ trong sinh hoạt hàng ngày
như: cảm giác vướng rát trong họng như có dị vật, có khi đau lên tai, hơi thở
hôi, ngủ ngáy… dễ biến thành mạn tính hay có những đợt cấp. Trong các đợt
cấp thường hay có biến chứng chủ yếu là viêm đường hô hấp dưới: Viêm phế
quản, viêm phổi… biến chứng xa như viêm thận, thấp tim, những biến chứng
vào tai và xương chũm có thể gây biến chứng vào não rất nguy hiểm [24],
[28].
Điều kiện lao động (ĐKLĐ) là nhân tố quan trọng nhất quyết định ảnh
hưởng của bụi đối với sức khỏe (SK) và bệnh tật của người lao động (NLĐ).
Nồng độ bụi trong môi trường lao động (MTLĐ) càng cao, càng có hại. Đã có
những nghiên cứu (NC) cho thấy rằng, bụi gây ra các thương tổn niêm mạc ở
đường hô hấp trên. Giảm nồng độ bụi trong không khí MTLĐ là phương

hướng cơ bản để phòng chống tác hại của bụi. Thời gian tiếp xúc với bụi
trong ngày làm việc càng lâu càng có hại, NLĐ có tuổi nghề cao dễ bị bệnh
hơn những NLĐ có tuổi nghề ít. Cường độ lao động càng nặng, lượng thông
khí càng lớn thì bụi qua đường hô hấp trên, cửa ngõ của lưu thông khí, càng
nhiều [20], [29], [32].


6

Công nhân có tuổi nghề càng cao thì nguy cơ mắc các bệnh về tai mũi
họng càng lớn, nồng độ bụi, khí độc, nhiệt độ và độ ẩm đã làm thay đổi sinh
lý, phá vỡ thế cân bằng sinh học niêm mạc đường hô hấp trên dẫn tới các
bệnh lý về tai mũi họng. Một số nhiễm khuẩn đường hô hấp trên thường gặp
là:
- Viêm mũi cấp tính với các dấu hiệu: toàn thân có dấu hiệu nhiễm
khuẩn nhẹ; cơ năng ngạt mũi, chảy mũi, có thể ngửi kém; khám thấy niêm
mạc xung huyết nề, đỏ, sàn mũi và khe giữa có nhiều dịch tiết nhày.
- Viêm mũi mạn tính có các dấu hiệu là ngạt tắc mũi, chảy mũi kéo dài
và tùy thuộc thời gian bị mà chia ra các giai đoạn: xung huyết, xuất tiết hoặc
quá phát.
- Viêm mũi dị ứng xuất hiện trên người có cơ địa dị ứng, hắt hơi thành
tràng dài, chảy mũi trong, ngạt tắc mũi. Khám niêm mạc nề nhợt, nhiều dịch
nhày trong.
- Viêm xoang cấp tính: toàn thân có dấu hiệu nhiễm trùng, triệu chứng
khó chịu là đau đầu, ngạt mũi và chảy mũi xanh, hoặc vàng...khám thấy niêm
mạc xung huyết, khe, hốc mũi nhiều mủ.
- Viêm xoang mạn tính: tắc mũi, chảy mũi vàng, xanh, ngửi kém, khám
khe giữa nhiều mủ, có trường hợp có polyp.
- Viêm họng cấp: toàn thân có hội chứng nhiễm trùng, cơ năng rát
họng, đau, ho, khạc đờm,...khám họng nề, đỏ.

- Viêm họng mạn tính: ho, ngứa họng, khạc đờm, tùy theo thời gian mắc
bệnh ta có thể chia làm 3 thể: viêm họng mạn tính xuất tiết, quá phát hoặc viêm
teo.
- Viêm amydan cấp tính: toàn thân có hội chứng nhiễm trùng, cơ năng
có nuốt đau, khám amydan xung huyết đỏ rực và có thể có mủ.
- Viêm amydan mạn tính: chủ yếu là nuốt vướng, nuốt nghẹn, khạc đờm
nhày, ngứa, ho, hơi thở hôi,....


7

- Viêm tai giữa cấp: sốt, đau tai, ù tai, nghe kém. Thường xuất hiện sau
các đợt viêm mũi họng cấp. Khám thấy màng nhĩ xung huyết, căng phồng.
- Viêm tai giữa mạn tính: chảy mủ tai kéo dài, từng đợt, tăng lên mỗi
khi có đợt viêm mũi họng cấp, cảm cúm. Mủ có thể nhầy hoặc đặc. Khám
thấy màng nhĩ bị thủng.
Từ các bệnh lý trên, nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn tới các
biến chứng hoặc di chứng ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, nhiều khi
nguy hiểm đến tính mạng.
1.1.2. Đặc điểm làng nghề Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm làng nghề
Từ xa xưa, người nông dân Việt Nam đã biết sử dụng thời gian nông
nhàn để sản xuất những sản phẩm thủ công, phi nông nghiệp phục vụ cho nhu
cầu đời sống như: các công cụ lao động nông nghiệp, giấy, lụa, vải, thực
phẩm qua chế biến… Các nghề này được lưu truyền và mở rộng qua nhiều thế
hệ, dẫn đến nhiều hộ dân có thể cùng sản xuất một loại sản phẩm. Bên cạnh
những người chuyên làm nghề, đa phần lao động vừa sản xuất nông nghiệp,
vừa làm nghề, hoặc làm thuê (nghề phụ). Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng
hóa, các nghề mang tính chất chuyên môn sâu hơn, được cải tiến kỹ thuật hơn
và thường được giới hạn trong quy mô nhỏ (làng), dần dần tách ra khỏi nghề

nông, chuyển hẳn sang nghề thủ công. Như vậy, làng nghề đã xuất hiện [21],
[26].
Theo Đặng Kim Chi: Có thể hiểu làng nghề “là làng nông thôn Việt Nam
có ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số lao
động và thu nhập so với nghề nông” [12]
Tiêu chí để một làng ở nông thôn được coi là một làng nghề:
- Giá trị sản xuất và thu nhập từ phi nông nghiệp ở làng nghề đạt trên
50% so với tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng nghề trong năm;
hoặc doanh thu hàng năm từ ngành nghề ít nhất đạt trên 300 triệu đồng, hoặc:


8

- Số hộ và số lao động tham gia thường xuyên hoặc không thường
xuyên, trực tiếp hoặc gián tiếp đối với nghề phi nông nghiệp ở làng ít nhất đạt
30% so với tổng số hộ hoặc lao động ở làng nghề có ít nhất 300 lao động.
- Sản phẩm phi nông nghiệp do làng sản xuất mang tính đặc thù của làng
và do người trong làng tham gia.
Theo Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008, tiêu chí công nhận làng
nghề gồm có 3 tiêu chí sau:
- Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành
nghề nông thôn.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm đề nghị công nhận.
- Chấp hành tốt chính sách Pháp luật của Nhà nước [55]
1.1.2.2. Vai trò của các làng nghề truyền thống
Với hơn 2000 làng nghề trong cả nước, gồm 11 nhóm ngành nghề, sử
dụng hơn 10 triệu lao động, đóng góp hơn 40 ngàn tỷ đồng cho thu nhập quốc
gia… các làng nghề truyền thống đã và đang đóng một vai trò quan trọng đối
với sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam, đặc biệt là khu vực kinh tế nông

thôn:
- Sản xuất tiểu thủ công nghiệp tận dụng nguồn nguyên liệu phong phú
với giá thành rẻ. Các nghề truyền thống chủ yếu sử dụng các nguyên liệu sẵn
có trong nước, vốn là các tài nguyên thiên nhiên điển hình của miền nhiệt đới:
tre nứa, gỗ, tơ tằm, các sản phẩm của nông nghiệp nhiệt đới (lúa gạo, hoa quả,
ngô, khoai, sắn…), các loại vật liệu xây dựng…
- Mặt khác, sản phẩm từ các làng nghề không chỉ đáp ứng các thị trường
trong nước với các mức độ nhu cầu khác nhau mà còn xuất khẩu sang các thị
trường nước bạn với nhiều mặt hàng phong phú, có giá trị cao. Trong đó, điển
hình nhất là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ (hiện nay, mặt hàng này xuất
khẩu đạt giá trị gần 1 tỷ USD/năm). Giá trị hàng hóa từ các làng nghề hàng


9

năm đóng góp cho nền kinh tế quốc dân từ 40 – 50 ngàn tỷ đồng. Góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh quá trình CNH - HĐH nông thôn [12]
- Đặc biệt, phát triển các nghề truyền thống đang góp phần giải quyết
công ăn việc làm cho hơn 11 triệu lao động chuyên và hàng ngàn lao động
nông nhàn ở nông thôn, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân [12]
- Hơn nữa, nhiều làng nghề hiện nay có xu hướng phát triển theo
hướng phục vụ các dịch vụ du lịch. Đây là hướng đi mới nhưng phù hợp
với thời đại hiện nay và mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời có thể
giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường, nâng đời sống vật chất và tinh
thần cho người dân, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững
1.1.2.3. Phân loại làng nghề
Làng nghề với những hoạt động và phát triển đã có những tác động tích
cực và tiêu cực đến nền kinh tế, đời sống xã hội và môi trường với những nét
đặc thù rất đa dạng. Vấn đề phát triển và môi trường của các làng nghề hiện
nay đang có nhiều bất cập và đang được chú ý nghiên cứu. Muốn có được

những kết quả nghiên cứu xác thực, đúng đắn và có thể quản lý tốt các làng
nghề thì cần có sự nhìn nhận theo nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau
đối với làng nghề. Bởi vậy, hệ thống phân loại các làng nghề dựa trên các số
liệu thông tin điều tra, khảo sát là cơ sở khoa học cho nghiên cứu, quản lý
hoạt động sản xuất cũng như việc quản lý, bảo vệ môi trường làng nghề.
Cách phân loại làng nghề phổ biến nhất là phân theo loại hình sản xuất,
loại hình sản phẩm. Theo cách này có thể phân thành 6 nhóm ngành sản
xuất gồm:
+ Ươm tơ, dệt vải và may đồ da.
+ Chế biến lương thực thực phẩm, dược liệu.
+ Tái chế phế liệu (giấy, nhựa, kim loại…).
+ Thủ công mỹ nghệ, thêu ren.
+ Vật liệu xây dựng, khai thác và chế tác đá.


10

+ Nghề khác (mộc gia dụng, cơ khí nhỏ, đóng thuyền, quạt giấy, đan vó,
lưới..) [7]
Ngoài ra còn có thể phân loại theo quy mô sản xuất (lớn, nhỏ, trung
bình); phân loại theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm; theo lịch sử phát triển;
theo mức độ sử dụng nguyên liệu, theo thị trường tiêu thụ sản phẩm hoặc theo
tiềm năng tồn tại và phát triển…Ở Việt Nam, vấn đề làng nghề được đề cập đến
qua nhiều thời kỳ, với những khía cạnh và các mục đích khác nhau.
1.1.2.4. Một số đặc điểm của làng nghề Việt Nam hiện nay
Theo thống kê, hiện trong cả nước có 13% số hộ nông dân chuyên sản
xuất nghề, 27% số hộ nông dân tham gia sản xuất nghề, thu hút hơn 29% lực
lượng lao động ở nông thôn. Các làng nghề hoạt động với các hình thức khá
đa dạng: Trong tổng số 40.500 cơ sở sản xuất ở các làng nghề có 80,1% là các
hộ cá thể, 5,8% theo hình thức Hợp tác xã và 14,1% thuộc các dạng sở hữu

khác [5]. Làng nghề Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản là:
* Phân bố làng nghề trong cả nước
Với các chỉ tiêu đã đề ra, cho tới nay, Việt Nam có khoảng 2017 làng
nghề, thuộc 11 nhóm ngành nghề khác nhau, trong đó gồm 1,4 triệu hộ tham
gia sản xuất (cả hộ kiêm), thu hút hơn 11 triệu lao động. Nhiều tỉnh có số lượng
các làng nghề lớn như Hà Tây (cũ) với 280 làng nghề, Bắc Ninh (187), Hải
Dương (65), Hưng Yên (48)… với hàng trăm ngành nghề khác nhau, phương
thức sản xuất đa dạng. Tuy nhiên, sự phân bố và phát triển các làng nghề lại
không đồng đều trong cả nước. Các làng nghề ở miền Bắc phát triển hơn ở
miền Trung và miền Nam, chiếm gần 70% số lượng các làng nghề trong cả
nước (1594 làng nghề), trong đó tập trung nhiều nhất và mạnh nhất là ở vùng
đồng bằng sông Hồng. Miền Trung có khoảng 111 làng nghề, còn lại ở miền
Nam hơn 300 làng nghề [12].


11

Miền Nam
16%
Miền Trung
5%

Miền Bắc
79%

Hình 1.1. Sự phân bố các làng nghề Việt Nam theo khu vực

(Báo cáo môi trường làng nghề 2008)[12]
* Tình hình sản xuất của các làng nghề
- Nguyên liệu cho sản xuất:

Nguyên vật liệu cho các làng nghề chủ yếu được khai thác ở các địa
phương trong nước. Nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, phong phú
nông sản và thực vật, đồng thời có nguồn khoáng sản phong phú, đa dạng
trong đó có các loại vật liệu xây dựng. Do đó, hầu hết các nguồn nguyên liệu
vẫn lấy trực tiếp từ tự nhiên.
Do sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất, việc khai thác và cung ứng các
nguyên liệu tại chỗ hay các vùng khác trong nước đang dần bị hạn chế. Ví dụ,
theo thống kê, làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) mỗi năm tiêu thụ khoảng
70.000 tấn than, gần 100.000 tấn đất nguyên liệu; Các làng nghề chế biến gỗ,
mây tre đan trong những năm qua đòi hỏi cung cấp một khối lượng nguyên
liệu rất lớn, đặc biệt là các loại gỗ quý dùng cho sản xuất đồ gỗ gia dụng và
gỗ mỹ nghệ. Nhiều nguyên liệu chúng ta đã phải nhập từ một số nước khác.
Sự khai thác bừa bãi, không có kế hoạch đã làm cạn kiệt tài nguyên và
gây ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. Việc sơ chế các nguyên liệu chủ yếu
do các hộ, các cơ sở sản xuất tự làm với kỹ thuật thủ công hoặc các máy móc
thiết bị tự chế lạc hậu. Do đó, chưa khai thác hết hiệu quả của các nguyên liệu,
gây lãng phí tài nguyên.


12

- Công nghệ, thiết bị và cơ sở hạ tầng sản xuất
Hầu hết các cơ sở sản xuất nghề nông thôn, nhất là ở khu vực các hộ tư
nhân vẫn còn sử dụng các loại công cụ thủ công truyền thống hoặc cải tiến
một phần. Trình độ công nghệ còn lạc hậu, cơ khí hóa thấp, các thiết bị phần
lớn đã cũ, sử dụng lại của các cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô lớn không
đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, an toàn và vệ sinh môi trường. Trình độ công nghệ
thủ công và bán cơ khí vẫn chiếm tỷ lệ hơn 60% ở các làng nghề.
Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và thế giới, nhiều
làng nghề đã áp dụng công nghệ mới, thay thế máy móc mới, hiện đại. Ví dụ,

làng gốm Bát Tràng đã dần dần đưa công nghệ nung gốm sứ bằng lò tuy nen
(dùng ga và điện) thay cho lò hộp và lò bầu (dùng than và củi), nhào luyện đất
bằng máy thay cho bằng tay thủ công, dùng bàn xoay bằng mô tơ điện thay cho
bàn xoay bằng tay...; làng gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ Bắc Ninh hiện nay đã đầu tư 11
máy xẻ ngang, 300 máy cắt dọc, 100 máy vanh, 500 máy khoan bàn, 500 máy
phun sơn… phục vụ cho sản xuất, nhờ đó mà năng suất và chất lượng sản phẩm
cũng được nâng cao rõ rệt…
1.1.3. Môi trường
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên, xã hội và các yếu tố vật chất
nhân tạo bao quanh con người có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn
tại, phát triển của con người và sinh vật [4], [39]. Trên thực tiễn hoạt động
khoa học, người ta thường chia ra các khái niệm là môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội, môi trường sống, môi trường lao động...
1.1.4. Môi trường lao động
Môi trường lao động là tập hợp các yếu tố văn hóa, xã hội, sinh học,
hóa học, lí học xung quanh một người trong không gian của người đó, bên
cạnh đó là điều kiện, phương tiện bảo hộ, hiểu biết, ý thức về môi trường của
con người cũng là các yếu tố tác động lên sức khỏe người lao động (SKNLĐ)
[1], [31], [62]


13

1.1.5. Vệ sinh lao động
Vệ sinh lao động là một bộ môn khoa học dự phòng, nghiên cứu điều
kiện thiên nhiên, điều kiện làm việc, các yếu tố có hại trong sản xuất, các yếu
tố tâm sinh lý trong lao động và bệnh nghề nghiệp. Từ đó tìm ra các biện pháp
phòng ngừa các tác hại nghề nghiệp đối với sức khỏe người lao động [30],
[56]
1.1.6. Ô nhiễm môi trường lao động

Ô nhiễm môi trường lao động (MTLĐ) là sự biến đổi của các thành
phần MTLĐ không phù hợp với tiêu chuẩn của MTLĐ, gây ảnh hưởng xấu
đến người lao động [ 21 ].
1.1.7. Môi trường lao động và sức khỏe người lao động
Môi trường lao động là một yếu tố tác động rất lớn đến sức khỏe của
cộng đồng nói chung và sức khỏe của người lao động (NLĐ) trực tiếp nói
riêng. Theo nghiên cứu gần đây MTLĐ hiện đại có khoảng 10.000 loại hóa
chất khác nhau được sử dụng, khoảng 850 loại là những chất độc thần kinh,
khoảng 200 tác nhân sinh học là vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, nấm mốc, bụi
hữu cơ và 3000 tác nhân gây dị ứng. 80% lực lượng lao động ở các nước đang
phát triển và 40% lực lượng lao động ở các nước công nghiệp phải chịu ảnh
hưởng của những yếu tố vật lý có hại trong lao động như: tiếng ồn, rung, bức
xạ ion hóa, bức xạ điện từ trường, điều kiện vi khí hậu không thuận lợi [40],
[43], [68].
Sự ô nhiễm MTLĐ hay các điều kiện sản xuất (ĐKSX) không đảm bảo
như dây chuyền công nghệ lạc hậu, sản xuất thủ công... kết hợp với các biện
pháp vệ sinh lao động (VSLĐ) không tốt, bảo hộ lao động không đảm bảo...
là những yếu tố có thể gây ra tình trạng ô nhiễm MTLĐ làm suy giảm SKCN
thậm chí có thể gây nên những bệnh khó chữa như: bệnh bụi phổi silic, bệnh
điếc nghề nghiệp... mặc dù sau đó đã cách ly NLĐ ra khỏi môi trường bị ô
nhiễm [25], [41], [48], [61].


14

Cùng với khảo sát hơi khí độc thì kết quả giám sát bụi trong môi trường
sản xuất trên phạm vi toàn quốc: số mẫu vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép là
23,9% (2003), 17,5% (2004) [45]. Bụi và hơi khí độc trong MTLĐ gây ô
nhiễm không khí. Không khí ô nhiễm gây nên các tổn thương cho đường hô
hấp từ mũi, họng đến các tổ chức của phế quản - phổi [42].

Cho đến những năm gần đây báo cáo của cục y tế dự phòng (YTDP) về
kết quả đo môi trường lao động tại các cơ sơ sản xuất trong cả nước, tỷ lệ %
mẫu đo hơi khí độc vượt TCCP là 13,4% (2002), 13,5% (2003) và 11,9%
(Báo cáo năm 2004).
1.1.8. Môi trường lao động đặc thù của người làm nghề gốm
- Do đặc thù nghề nghiệp làm gốm thủ công, những người làm trực tiếp
tại các xưởng sản xuất phải thường xuyên tiếp xúc với các yếu tố độc hại như:
Vi khí hậu có nhiệt độ cao ngoài trời tại nơi khai thác nguyên liệu hay nhiệt
độ rất cao tại lò nung.
- Độ ẩm và gió tại cơ sở sản xuất cũng như công đoạn làm đất, vận
chuyển.
- Bụi và hơi khí độc là những yếu tố thường xuyên có mặt trong các lò
đốt gốm thủ công.
1.2. Một số nghiên cứu về tình hình bệnh tai mũi họng và yếu tố môi
trƣờng ở Việt Nam và trên Thế Giới
1.2.1. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Trong những năm qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu về môi trường lao
động và ảnh hưởng của nó đến bệnh đường hô hấp nói chung, bệnh tai mũi
họng nói riêng ở nhiều ngành nghề khác nhau, điều kiện làm việc khác nhau
cho phép khái quát mô hình bệnh tai mũi họng một số ngành, nghề liên quan
đến ô nhiễm môi trường như điều kiện vi khí hậu, bụi, tiếng ồn,…
Theo Nguyễn Thị Toán, Lê Trung, Đặng Anh Ngọc và CS (1992) qua
kiểm tra 117 công nhân nhà máy xi măng Bỉm Sơn đã cho thấy tỷ lệ bệnh về
tai là 15,3%, họng 70,1%, trích từ [29]. Phùng Văn Hoàn, Nguyễn Thị Thu,


15

Nguyễn Thị Phúc (1992) nghiên cứu đặc điểm bệnh tai mũi họng của 100 công
nhân làm việc trong điều kiện vi khí hậu nóng, ẩm trong ngành công nghiệp cơ

khí vào mùa hè cho thấy có sự khác biệt trong mô hình bệnh tật ở ba nhóm
nghiên cứu trong ba điều kiện nhiệt độ môi trường khác nhau, trong đó bệnh tai
mũi họng là 15,8%, 50% và 58%.
Theo Lương Sỹ Cần và CS (1986) điều tra trên 529 trẻ em nhà máy dệt
8 - 3 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh TMH là 50% [10].
Theo Phạm Khánh Hòa và CS (1994): Trong một số điều tra cơ bản về
bệnh TMH ở một số vùng khác nhau, nhận xét:
+ Tỷ lệ mắc bệnh tai mũi họng ở 3 xã Vạn Phúc, Vĩnh Quỳnh, Tam
Hiệp huyện Thanh Trì, Hà Nội như sau: Ở trẻ em là 59,25%, Người lớn là
62,2% [28]
+ Tỷ lệ mắc bệnh tai mũi họng trong nhân dân khu công nghiệp
Thượng Đình là 52,8%.
Tác giả Phạm Khánh Hòa, Nguyễn Hữu Phẩm (1995) nghiên cứu bệnh tai
mũi họng trên 12.300 nhân dân ở khu công nghiệp Thượng Đình, Hà Nội cho
thấy tỷ lệ bệnh tai mũi họng là 58,70%, trong đó viêm mũi 15,56%, viêm họng
mạn 25,2%, viên Amiđan 6,50% [28].
Vũ Trường Phong (1998) nghiên cứu bệnh tai mũi họng ở 215 công nhân
nhà máy đóng tầu Sông Cấm và vận tải thủy Hải Phòng cho thấy bệnh tai mũi
họng là 68,48%, viêm họng 44,28%, viêm mũi xoang 15,40%, viêm amydan
6,50% [40].
Trần Thị Ngọc Lan (1999) điều tra sức khỏe công nhân sản xuất tấm lợp
amiăng cho thấy tỷ lệ bệnh tai mũi họng là 55,48%. Nguyễn Quốc Tiến, Trần
Văn Tập (2000) nghiên cứu môi trường lao động và sức khỏe công nhân công ty
sứ Thái Bình của 228 công nhân thấy rằng môi trường nhiệt độ 37±7, độ ẩm
trung bình 72%, tốc độ gió 0,35m/s và bụi 11,2mg/m³ thì tỷ lệ bệnh tai mũi họng
là 49,12% [51].


16


Vũ Thành Khoa (2001) qua nghiên cứu 1148 công nhân mỏ than Thống
nhất – Quảng Ninh cho thấy nhiệt độ hầm lò không cao hơn bên ngoài nhưng độ
ẩm cao rõ rệt 96%, tốc độ gió dưới 1m/s, bụi 1757 ± 379 hạt/cm³ tỷ lệ bệnh tai
mũi họng là 68,7% [32].
- Năm 2001, Trần Duy Ninh, trích từ [38] NC bệnh TMH tại 7 tỉnh
miền núi phía bắc Việt Nam, bệnh TMH: 63,61%, viêm tai xương chũm
2,71%, viêm mũi (VM) 12,5%, VX 3,94%, VA 16,71%, VH và Amiđan
47,42%.
Theo tác giả Nguyễn Thanh Hải (2004) Nghiên cứu bệnh viêm đường hô
hấp tại làng nghề gốm xứ Bát Tràng - Hà Nội thì tỷ lệ các bệnh về đường hô hấp
trên khá cao chiếm 54,72% [19]. Khi chưa có chương trình sử dụng năng lượng
hiệu quả, một ngày Bát Tràng sử dụng hết 800 tấn than, khói bụi, chất thải rắn là
nguyên nhân ảnh hương rất lớn đến sức khỏe người lao động. Hiện nay Bát
Tràng thực hiện chương trình sử dụng năng lượng hiệu quả, chống biến đổi khí
hậu, xây dựng môi trường xanh đã xây dựng lò nung bằng gas, việc sử dụng lò
nung bằng gas chỉ tốn 50% chi phí nhiên liệu so với dùng than, giảm lao động,
giảm ô nhiễm môi trường, điều chỉnh được nhiệt độ lò, chất lượng sản phẩm
được nâng cao, đặc biệt sức khỏe người lao động được cải thiện.
- Năm 2006, Nguyễn Thanh Trúc [54] NC bệnh TMH trẻ em ở vùng bãi
rác thải Nam Sơn (Sóc Sơn) Hà Nội, bệnh TMH 61,99%, Nam 50,36%, Nữ
49,64%. Tác giả đã nêu rõ tình trạng môi trường không khí cách trung tâm bãi
rác thải 400m Nam Sơn (Sóc Sơn) SO2 mg/m3 0,08; NO2 mg/m3 0,039; CO
mg/m3 2,78; H2S mg/m3 0,042; Bụi lơ lửng mg/m3 0,42. Sống trong môi
trường không khí bị ô nhiễm như vậy nên tỷ lệ bệnh TMH của trẻ em vùng
Nam Sơn (Sóc Sơn) cao.
- Lê Thanh Hải (2008) [18], theo một nghiên cứu mô tả thiết kế cắt
ngang để đánh giá thực trạng bệnh mũi xoang ở công nhân cán thép và những
yếu tố liên quan đã được tiến hành. Nghiên cứu thực hiện trên toàn bộ cán bộ
công nhân viên chức của nhà máy Cán thép - Công ty Gang thép Thái Nguyên



17

vào tháng 3 năm 2008. Qua khám phát hiện bằng kỹ thuật nội soi, phỏng vấn,
hồi cứu tìm yếu tố liên quan, kết quả cho thấy: Tỷ lệ bệnh viêm mũi xoang ở
nhà máy Cán thép Lưu Xá là 82,3%. Tỷ lệ viêm mũi xoang ở công nhân lao
động trực tiếp cao hơn công nhân làm việc gián tiếp (p < 0,05). Tỷ lệ mắc
viêm mũi xoang giữa 2 giới không có sự khác biệt thống kê (p>0,05). Kiến
thức về bệnh mũi xoang của công nhân thấp. Có tới 75% công nhân không
biết mình mắc viêm mũi xoang mạn tính.
1.2.2. Các nghiên cứu trên Thế giới
Có nhiều nghiên cứu đánh giá về bệnh tai mũi họng và đề cập vấn đề
yếu tố nguy cơ như ô nhiễm không khí môi trường xung quanh, môi trường
lao động.
WHO (1992) đã định nghĩa lại về sức khỏe và đánh giá lại tốc độ của ô
nhiễm môi trường tới sức khỏe; WHO đã lưu ý tác động lâu dài của ô nhiêm
không khí tới sức khỏe, khi nghiên cứu nguyên nhân các tổn thương hô hấp cho
thấy bụi, hơi khí độc đã gây kích thích, gây dị ứng, ung thư hóa đối với người
làm việc trong môi trường ô nhiễm [80]
Molia CL. Caillard D (1993) đã nghiên cứu trên 1800 người của một công
ty tại Pháp, các tác giả so sánh giữa hai nhóm, một nhóm làm việc trong môi
trường không khí bị ô nhiễm và nhóm đối chứng thấy rằng bệnh tai mũi họng ở
nhóm có ô nhiễm là 67,3% so với nhóm chứng 2,6% (p < 0,001).
Thomas V.M (1993) đã phân tích sự ảnh hưởng của sự ô nhiễm môi
trường đến sức khỏe công nhân, các tác giả nghiên cứu trên 198 công nhân làm
việc ở môi trường ô nhiễm và 218 người đối chứng tại Perugia (Ý), kết quả cho
thấy tỷ lệ bệnh ở nhóm có ô nhiêm môi trường so với nhóm chứng: tắc ngạt mũi
2,5% so với 1,1%; khô họng 21,7% so với 9,39%; ho 1,5% so với 0,47%, ngứa
mũi 21,7% so với 0,3%, trích từ [63].
Bach-B, Tougard AB (1997) đã nghiên cứu trên 16 công nhân nhà máy

thủy sản chế biến cá hồi tại Đan Mạch cho thấy có 10 người thường xuyên bị
ho và tiết dịch mũi, có 4 người bị viêm mũi dị ứng, trích từ [65].


18

Một nghiên cứu của Wanpen Songkham, Chawapornpan Chanprasit
(2008), thuộc Đại học Chiang Mai, Thái Lan. Nghiên cứu các tác hại nghề
nghiệp và tình trạng sức khỏe ở công nhân gốm bao gồm 307 công nhân làm
việc tại tỉnh Chiang Mai, Thái Lan. Kết quả nghiên cứu cho thấy các bệnh về
đường hô hấp tìm thấy trong mẫu nghiên cứu bao gồm chảy nước mũi, ho, hắt
hơi và ngứa mũi (67,10%) [77].
Qua những kết quả nghiên cứu trên đây, chúng ta thấy rằng có sự tương
tác rõ rệt giữa yếu tố môi trường và bệnh lý hô hấp nói chung và bệnh tai mũi
họng nói riêng, qua đó cho thấy việc đánh giá toàn diện môi trường lao động và
tác động của nó tới sức khỏe là cần thiết nhằm góp phần nâng cao sức khỏe cho
người lao động. Từ những kết quả nghiên cứu trên càng thúc giục tôi tiến hành
đề tài nghiên cứu này, mong muốn góp phần vào công tác chăm sóc sức khỏe
cho người lao động quê nhà
1.3. Một số yếu tố nguy cơ, liên quan ảnh hƣởng đến bệnh tai mũi họng ở
ngƣời lao động làng nghề gốm
Quy trình sản xuất gốm sứ của Phù Lãng mang tính thủ công bán cơ
giới quy mô nhỏ phù hợp với quy mô sản xuất gốm hộ gia đình ở địa phương.
Những tác động của cơ sở sản xuất đến môi trường sức khỏe rất phức tạp và
có mối quan hệ chặt chẽ vì làng nghề là hỗn hợp của khu sản xuất và khu dân
cư. Hiện tại làng nghề có 160 lò nung gốm, bình quân 1 tháng nung một lò,
trung bình một lò nung gốm tiêu thụ hết khoảng 10 m3 củi, như vậy một năm
làng nghề tiêu thụ hết khoảng 20 ngàn m3 củi. Do vậy điều kiện lao động tại
các làng nghề bao gồm cả khu sản xuất, điều kiện sống và môi trường xung
quanh, tất cả các yếu tố trên ảnh hưởng đến sức khỏe người dân làng nghề.

Các yếu tố nguy cơ, liên quan ảnh hưởng tới bệnh tai mũi họng. Bao
gồm các yếu tố môi trường tự nhiên và các yếu tố môi trường xã hội.
1.3.1. Các yếu tố ô nhiễm môi trường không khí
Các tác nhân gây ô nhiễm không khí chủ yếu tại làng nghề là các chất
độc hại phát sinh từ quá trình đốt cháy củi của các lò như SO2, CO, CO2.


19

Ngoài ra, ở làng nghề Phù Lãng một phần những mảnh sành vỡ được tận
dụng để san lấp ao, san nền, phần còn lại thì đổ rải rác khắp làng, nhìn đâu
cũng thấy gốm. Bao bọc quanh làng không chỉ có phế liệu, phế thải mà còn
bụi, khói và hơi đốt ra từ các lò nung gốm, gây ô nhiễm cả một khoảng không
gian rộng, ảnh hưởng tới các khu dân trong và ngoài làng.
1.3.2. Môi trường nơi sản xuất
Quá trình sản xuất gốm ở Phù Lãng thải ra nhiều chất thải gây ô nhiễm
môi trường. Khí thải ra của các lò sử dụng nguyên liệu củi có chứa nhiều chất
độc như: CO, CO2, SO2,... Đặc biệt do cấu tạo và cách vận hành của lò nung
(lò rồng bị coi là quá lạc hậu), không có ống khói cao nên khí thải thường bị
quẩn, khó phát tán, khả năng gây ô nhiễm không khí cao. Tro, bụi, khói và
đặc biệt là hơi nóng trong lò đã ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động.
1.3.3. Điều kiện an toàn vệ sinh lao động
Một trong những khó khăn của làng gốm Phù Lãng là diện tích để sản
xuất. Diện tích mặt bằng đất thổ cư của các hộ gia đình nhỏ. Trong khi đó cơ
sở sản xuất lại nằm ngay trên diện tích đất của gia đình. Đây là những yếu tố
nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động trong đó tập trung chủ yếu là
bệnh tai mũi họng.
1.3.4. Kiến thức về an toàn vệ sinh lao động
Số người sử dụng bảo hộ lao động còn thấp, nguyên nhân do người lao
động chưa coi trọng đúng mức công tác an toàn lao động, sợ tốn kém. Các

trang bị bảo hộ lao động thường được sử dụng là những khẩu trang không
đúng quy cách, sử dụng không thường xuyên. Có nhiều nguyên nhân nhưng
nguyên nhân chủ yếu là người lao động thiếu kiến thức về vệ sinh an toàn lao
động
Một nghiên cứu của Wanpen Songkham, Chawapornpan Chanprasit
thuộc Đại học Chiang Mai, Thái Lan [77]. Nghiên cứu các tác hại nghề
nghiệp và tình trạng sức khỏe ở công nhân gốm bao gồm 307 công nhân làm
việc tại tỉnh Chiang Mai, Thái Lan. Kết quả nghiên cứu cho thấy các tác hại


20

nghề nghiệp tại nơi làm việc được đo đạc bằng các thiết bị vệ sinh công
nghiệp không vượt quá TCCP, bao gồm nồng độ bụi toàn phần (0,16 1,500mg/m3), bụi hô hấp (0,427 - 7,782 mg/m3), độ ồn (64,3 - 84,7 dBA), và
stress nhiệt (26,1 - 32,50c). Tuy nhiên, kết quả đo độ rọi sáng tại nơi làm việc
thấp hơn TCCP (64,14%). Về tự đánh giá tác hại nghề nghiệp, mẫu nghiên
cứu cho thấy họ phải tiếp xúc với các tác hại tại nơi làm việc như bụi
(91,86%) và nhiệt (90, 23%). Có 62,63% mẫu nghiên cứu nhận thấy tình
trạng sức khỏe chung của họ ở mức trung bình (63,68 và 65,26%). Về tình
hình sức khỏe liên quan đến nghề nghiệp, nghiên cứu cho thấy các bệnh về
đường hô hấp tìm thấy trong mẫu nghiên cứu bao gồm chảy nước mũi, ho, hắt
hơi và ngứa mũi (67,10%). Kết quả nghiên cứu cho thấy công nhân gốm phải
tiếp xúc với nhiều tác hại và mắc nhiều vấn đề sức khỏe liên quan tới công
việc [77].
1.4. Giải pháp can thiệp phòng chống bệnh tai mũi họng ở làng nghề gốm
Việc đưa ra các biện pháp phòng phơi nhiễm với các tác nhân độc hại
trong công nghiệp như hạn chế tối đa việc tiếp xúc với khói, bụi như cải tạo
hệ thống thông gió, mang khẩu trang thường xuyên trong khi làm việc cũng
hạn chế được khá nhiều, làm giảm nhẹ đáng kể tỷ lệ mắc và tần số mắc các
bệnh đường hô hấp nói chung và hạn chế bệnh TMH nói riêng. Tại Indonesia,

các tác giả đưa ra vấn đề văn hóa an toàn từ rất lâu [67]. Các tác giả Thailand
có nhiều kinh nghiệm trong chăm sóc sức khỏe, dự phòng bệnh mũi họng ở
công nhân các ngành nghề khác nhau [78].
Các nghiên cứu trên thế giới về các bệnh TMH do tiếp xúc với khói bụi
đã đề cập tới các phương pháp thải loại các yếu tố bám dính, giúp hệ thống
tiết nhày lông chuyển của niêm mạc mũi xoang mau sạch trong trường hợp
quá tải chức năng của hệ thống này. Trong các trường hợp quá tải đó thì việc
can thiệp hỗ trợ thải loại các tác nhân bụi, khói còn nằm trên bề mặt hệ thống
nhày lông chuyển là hoàn toàn cần thiết và giúp cho quá trình phục hồi chức
năng của hệ thống, làm giảm nguy cơ mắc bệnh TMH. Các nghiên cứu này đã


21

được các tác giả nước ta áp dụng trong thời gian gần đây đối với một số đối
tượng lao động công nghiệp khai thác mỏ và luyện kim [34], [49], [60].
1.4.1. Giải pháp thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
Giải pháp thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho
người lao động, người sử dụng lao động, nhân viên y tế, lãnh đạo xã và đội
ngũ an toàn viên…đóng vai trò trong vấn đề phòng chống tác hại của môi
trường đến sức khỏe người lao động nói chung, các tác hại từ môi trường lao
động như bụi, hơi khí độc, nhiệt độ tới bệnh tai mũi họng. Trong khi chưa có
điều kiện áp dụng các biện pháp khác thì tuyên truyền, giáo dục chuyển đổi
hành vi có lợi cho sức khỏe, dự phòng bệnh mũi họng đã được nhiều nhà khoa
học áp dụng [2], [13], [50], [59], [74]. Kết quả nghiên cứu của John Birchall
(2007) [70] cho thấy giáo dục truyền thông có thể chuyển đổi hành vi có lợi
cho sức khỏe nhanh chóng và mất ít kinh phí.
Ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới đã có nhiều tác giả tiến
hành can thiệp tổng hợp không những chỉ bằng giáo dục truyền thông đảm
bảo ATVSLĐ mà còn nhiều giải pháp kỹ thuật kết hợp khác mới có thể giảm

thiểu được tỷ lệ mắc các bệnh liên quan, bệnh nghề nghiệp, trong đó có các
đường hô hấp trên, đặc biệt là các bệnh ở mũi họng [3], [11], [52], [53], [72].
1.4.2. Biện pháp dự phòng bằng bảo vệ cá nhân
Trong các biện pháp bảo vệ cá nhân thì sử dụng khẩu trang thường
xuyên khi tiếp xúc với khói, bụi, hơi hóa chất là biện pháp thường được áp
dụng và mang lại hiệu quả cao. Sử dụng khẩu trang cũng là quy định bắt buộc
đối với công nhân lao động tiếp xúc trực tiếp với các yếu tố nguy cơ nghề
nghiệp. Đặc biệt cần áp dụng đầy đủ và nghiêm túc trong điều kiện lao động ở
môi trường ô nhiễm bụi và các chất hóa học độc hại.
Ưu điểm: Khẩu trang có tác dụng ngăn ngừa bụi, hơi khí độc sinh ra
trong điều kiện lao động đặc thù.


22

Nhược điểm: Phải được thay thế thường xuyên tùy thuộc điều kiện lao
động để đảm bảo chức năng lọc bụi của khẩu trang dẫn đến các chi phí tốn
kém.
Trong trường hợp lao động sản xuất, có nhiều công đoạn nặng nhọc, do
vậy nhiều người lao động mặc dù biết dùng khẩu trang là cần thiết tuy nhiên
vì đặc điểm lao động nặng nhọc nên nhu cầu tăng lưu lượng khí thở là tất yếu
nên họ thường không sử dụng do thấy thiếu thở.
Mặt khác, với những công nhân đã mắc bệnh viêm mũi xoang, triệu
chứng ngạt tắc mũi là triệu trứng thường thấy, do vậy khi dùng khẩu trang
liên tục trong điều kiện làm việc của công nhân sản xuất gốm mắc bệnh thì
thiếu thở là điều chắc chắn sẽ xảy ra.
Rửa mũi sau mỗi ngày lao động cũng là biện pháp cá nhân phòng bệnh
tai mũi họng hiệu quả. Rửa mũi giúp thải loại các tác nhân bụi, khói còn nằm
trên bề mặt hệ thống nhày lông chuyển của mũi, giúp cho quá trình phục hồi
chức năng của hệ thống niêm mạc mũi họng.

1.4.3. Biện pháp y tế
- Khám sức khỏe định kỳ, khám bệnh nghề nghiệp để phát hiện sớm và
điều trị kịp thời các bệnh liên quan đến nghề nghiệp do điều kiện lao động đặc
thù gây ra được coi là một trong những giải pháp quan trọng. Công việc này
thậm chí được quán triệt ngay từ các bệnh viện tuyến cơ sở [73], [76].
- Khám các chuyên khoa sâu, dùng các phương pháp chẩn đoán hiện
đại trong thăm khám, chẩn đoán sớm từ đó đưa ra các biện pháp can thiệp cụ
thể làm giảm nhẹ hậu quả của bệnh tật trong đó có bệnh lý mũi xoang.
- Quản lý tốt các ca bệnh, phân loại bệnh, áp dụng các biện pháp điều
trị kịp thời: Phẫu thuật các trường hợp viêm mũi xoang có chỉ định phẫu
thuật, điều trị tích cực với các trường hợp viêm mũi xoang có nhiễm khuẩn,
áp dụng các biện pháp dự phòng cá nhân và tư vấn sức khỏe thường xuyên là
giải pháp tích cực giải quyết đáng kể bệnh viêm mũi xoang nhưng trên thực tế


23

việc áp dụng giải pháp tổng thể về y tế chưa thực sự được áp dụng trong các
cơ sở y tế nhà máy, nhất là trong các làng nghề do còn nhiều bất cập.
- Vệ sinh mũi xoang: Đây là biện pháp được áp dụng từ lâu và rộng rãi
trên thế giới. Biện pháp này được coi là biện pháp hàng đầu để dự phòng và
điều trị bệnh viêm mũi xoang đặc biệt là các trường hợp viêm mũi xoang do
tác hại của môi trường. Tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, do điều kiện
không khí ô nhiễm nhiều do giao thông dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh viêm mũi
xoang tăng cao nên đây cũng là biện pháp được khuyến cáo áp dụng cho tất
cả người dân tham gia giao thông hàng ngày.
- Rửa mũi trong và sau ca làm việc có tiếp xúc nhiều với khói bụi là
biện pháp thải loại giúp hệ thống tiết nhày lông chuyển của niêm mạc mũi
xoang trong trường hợp quá tải chức năng của hệ thống này. Thông qua rửa
có thể thiết lập lại trạng thái hoạt động sinh lý của hệ thống tiết nhày lông

chuyển của niêm mạc mũi xoang sau thời gian không cho tiếp xúc trực tiếp sẽ
làm giảm nguy cơ mắc bệnh viêm mũi xoang
1.4.4. Biện pháp quy hoạch không gian sản xuất
Trước tiên về qui hoạch, cần chú trọng tới qui hoạch mặt bằng chung và
hạ tầng cơ sở, trong đó cần bố trí thỏa đáng diện tích cho việc thu gom và xử
lý chất thải, diện tích cây xanh, đầu tư giải quyết hệ thống đường sá trong
ngoài thôn xóm cũng như hệ thống cấp thoát nước. Về tổ chức quản lý sản
xuất, cần chú ý xây dựng, cải tạo nhà xưởng, tổ chức không gian thông thoáng
tự nhiên tại nơi lao động, trang bị các dụng cụ an toàn lao động, thiết bị thu
gom bụi, hút khí tại các vị trí xả khí độc hại, tránh ô nhiễm nhiệt do các lò
nung, hầm sấy. Về công nghệ và thiết bị sản xuất, việc quan trọng cần giải
quyết kịp thời là thay thế các thiết bị cũ kỹ, áp dụng công nghệ mới ít chất
thải, hạn chế tiếng ồn và rung, sử dụng các công nghệ phù hợp có khả năng
giảm thiểu các chất độc hại (khói bụi tại một làng nghề). Việc đề ra các giải
pháp bảo vệ và cải thiện môi trường cho các làng nghề phải căn cứ cụ thể vào
các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của địa phương [17]. Điều đó có


24

nghĩa là phải đa dạng hóa các giải pháp bảo vệ môi trường (BVMT) tại các
làng nghề mà điều chính yếu là phải đạt được giải pháp tận dụng các ưu thế
và khắc phục được các hạn chế của từng làng nghề. Song dù ở địa phương
nào và đối với nghề gì thì giải pháp thu gom và xử lý chất thải đều phải đặt
lên hàng đầu. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách chuyển đổi cơ cấu sản
xuất, khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn theo quy hoạch, tập trung
các khu sản xuất, kế hoạch gắn với bảo vệ môi trường, với bảo vệ, tôn tạo
những di sản văn hoá ở địa phương. Bên cạnh đó là việc hoàn thiện hành lang
pháp lý bảo vệ môi trường, đưa vấn đề môi trường vào các dự án, vào hệ
thống giáo dục...

1.4.5. Chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó
chế tài xử phạt (cưỡng chế hành chính và xử lý hình sự) phải thực sự đủ mạnh
để đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Cần cụ thể hơn về các văn bản pháp
quy quy định liên quan đến thuế về môi trường. Ở nước ta, việc quản lý và
BVMT chủ yếu vẫn dựa vào các công cụ pháp lý và mệnh lệnh hành chính kết
hợp với giáo dục và truyền thông về BVMT. Việc sử dụng các công cụ thuế,
phí để bảo vệ môi trường mới được quy định rải rác trong các văn bản pháp
luật có liên quan như thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu
thụ đặc biệt... Nhưng chúng ta chưa có riêng một loại thuế bảo vệ môi trường
cụ thể.
1.4.6. Công tác thanh, kiểm tra
Tăng cường tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý đến đầu đến đũa
các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng [52]. (Thực hiện triệt để
Quyết định 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/3/2003 của Chính phủ về việc phê
duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng). Tăng cường nắm bắt tình hình, giám sát về môi trường (thường xuyên,
định kỳ, đột xuất); phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn, nhất là
giữa lực lượng thanh tra môi trường với lực lượng cảnh sát môi trường các


25

cấp, nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, triệt để những hành vi gây ô
nhiễm môi trường của các tổ chức, cá nhân.
1.4.7. Đầu tư hệ thống bảo vệ môi trường làng nghề
Đa dạng hoá đầu tư cho bảo vệ môi trường. Các ngành chức năng địa
phương hỗ trợ công nghệ nung gốm từ nguyên liệu chính là củi sang công
nghệ nung gốm bằng gas để giảm mức độ ô nhiễm môi trường nơi sản xuất,
quy hoạch khu sản xuất với hệ thống xử lý nước thải, rác thải… Hiện nay,

chuyện bảo vệ môi trường có ý nghĩa quan trọng, không chỉ là sức khoẻ, là
môi trường sống của cộng đồng mà nó còn có ý nghĩa sống còn với chính
ngay các sản phẩm của làng nghề. Muốn nâng cao tính “đua chen” của sản
phẩm, dù là thị trường nội địa hay quốc tế, vấn đề sản xuất sạch được người
tiêu dùng đặc biệt quan tâm.
1.4.8. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường tại các làng nghề
Tăng cường công tác giáo dục truyền thống trên các phương tiện thông
tin đại chúng, tổ chức hội thảo giới thiệu các văn bản quy phạm pháp luật về
lĩnh vực môi trường nhằm thay đổi hành vi ứng xử.
Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và trách nhiệm của các cấp chính
quyền, các ban, ngành, đoàn thể trong việc thực hiện quy hoạch phát triển
ngành, vùng kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị và khu dân cư.
Tổ chức giám sát chặt chẽ quá trình thẩm định công nghệ của các dự án
đầu tư mới vào các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp vừa và nhỏ,
cụm công nghiệp làng nghề. Chỉ tiếp nhận các dự án đầu tư công nghệ hiện
đại, tiêu hao ít nguyên nhiên liệu và năng lượng, công nghệ tái sử dụng các
loại chất thải phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Quy hoạch các cụm công nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó, các cụm công
nghiệp phải đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng, khuyến khích các làng nghề phát
triển theo hướng kết hợp khoa học kỹ thuật hiện đại với kỹ thuật truyền thống,
tạo ra những sản phẩm tinh xảo vừa giữ được bản sắc truyền thống và nâng
cao hiệu quả sản xuất cho các làng nghề.


×