Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại điện tử tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.35 MB, 124 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ T ư PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI








TRẦN ĐÌNH TOẢN

MỘT SỐ VÂN ĐỂ PHÁP LÝ VỂ HỢP ĐỚNG
TRONG LĨNH vực THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
TẠI VIỆT NAM






Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 50515
^ THƯ VIỆ N
TRƯỞNG ĐẠI HỌC LƯÂT HẢ MỘI I

LUẬN VĂN THẠC s ĩ LUẬT HỌC










NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM SỸ CHUNG

HÀ NỘI - 2004


1

MỤC LỤC

LỜ I MỞ ĐẦU

4

CHƯƠNG I: MỘT s ổ VÂN ĐỂ CHUNG VỂ TMĐT

11

1.1. Khái niệm TMĐT

11

1.1.1. TMĐT theo nghĩa rộng


11

1.1.2. TMĐT theo nghĩa hẹp

12

1.2. Đặc trưng của TMĐT

13

1.2.1. Tính gián tiếp trong giao dịch TMĐT

13

1.2.2. TMĐT được thực hiện trong một thị trường không có biên giới

14

1.2.3. Các chủ thể tham gia vào TMĐT

15

1.2.4. Trong TMĐT thì mạng lưới thông tin chính là thị trường

16

1.3. Các hình thức hoạt động chủ yếu của TMĐT

17


1.3.1. Thư điện tử

17

1.3.2. Thanh toán điện tử

18

1.3.3. Trao đổi dữ liệu điện tử

19

1.3.4. Truyền dung liệu

21

1.3.5. Bán lẻ hàng hoá hữu hình

22

1.4. Những yêu cầu chủ yếu của TMĐT

23

1.4.1. Về nhận thức

24

1.4.2. Về hạ tầng công nghệ


24

1.4.3. Về thanh toán điện tử

26

1.4.4. Tiêụ chuẩn hoá công nghiệp và thương mại

27

1.4.5. Hạ tầng cơ sở pháp lý

28

1.5. Lợi ích của TMĐT

31

1.5.1. Đối với doanh nghiệp

31


2

1.5.2. Đối với người tiêu dùng

35


1.5.3. Đối với Chính phủ

35

CHƯƠNG II: MỘT s ố VẤN ĐỂ CHUNG VỂ HỢP ĐỔNG

37

TRONG LĨNHvực TMĐT VÀTHựC TIẼNáp dụng tại
VIỆT NAM
2.1. Một số nét khái quát về hợp đồng trong hệ thống pháp luật Việt 37
Nam
2.1.1. Khái niệm

37

2.1.2. Chủ thể

41

2.1.3. Thẩm quyền ký kết

42

2.1.4. Thủ tục ký kết

44

2.1.5. Địa điểm giao kết


46

2.1.6. Thời điểm giao kết

47

2.2. Hợp đồng điện tử

48

2.2.1. Bản chất của hợp đồng điện tử

48

2.2.2. Các hình thức của hợp đồng điện tử

51

2.2.3. Nội dung của hợp đồng điện tử

55

2.2.4. So sánh hợp đồng điện tử và các hìnhthức hợp đồng thông thường

56

khác
2.3. Những vướng mác trong thực tiễn khi áp dụng hợp đồng điện tử 58
tại Việt Nam
2.3.1. Thiếu cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực


60

TMĐT
2.3.2. Chưa nhận thức đúng đắn về TMĐT và hợp đồng điện tử

62

2.3.3. Hiệu lực pháp lý của chữ ký điện tử

64

2.3.4. Hlnh thức của hợp đồng

67


3

2.3.5. Năng lực giao kết hợp đồng

68

2.3.6. Địa điểm giao kết hợp đồng

70

2.3.7. Thời điểm giao kết hợp đồng

71


2.3.8. Đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng

73

2.3.9. Vấn đề thanh toán điện tử

75

2.3.10. Giải quyết tranh chấp khi vi phạm hợp đồng

79

CHƯƠNG III: MỘT s ổ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO THựC

82

HIỆN HỢP ĐỔNG ĐIỆN TỬ
3.1. Xây dựng đồng bộ hệ thống pháp lý về hợp đồng điện tử

82

3.2. Hiệu lực pháp lý của chữ ký điện tử

86

3.3. Hình thức của hợp đồng điện tử

88


3.4. Năng lực giao kết hợp đồng điện tử

91

3.5. Địa điểm giao kết hợp đồng điện tử

93

3.6. Đề nghị và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử

96

3.7. Thời điểm giao kết hợp đồng điện tử

101

3.8. Giải quyết tranh chấp hợp đồng điện tử

102

KẾT LUẬN

1°6

PHỤ LỤC: HỢP ĐỔNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ CỦA ƯNECE

109

TÀI LIỆU THAM KHẢO


120


4

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Được coi là một thành tố của nền kinh tế tri thức, ngày nay Thương mại
điện tử (TMĐT) đã trở thành một xu thế phát triển tất yếu trên thế giới và làm
biến đổi sâu sắc các phương thức kinh doanh; thay đổi hình thức, nội dung
hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội của loài người, nâng cao chất lượng quản lý
và năng suất lao động trên toàn thế giới. TMĐT còn được dự đoán sẽ có những
đóng góp to lớn hơn nữa đối với mọi mặt của đời sống xã hội trong tương lai.
Hầu hết các tổ chức kinh tế-thương mại trên thế giới đều có những khuyến cáo
đối với các thành viên của mình hoặc đã có những cam kết nhằm hỗ trợ phát
triển TMĐT.
Thực hiện chủ trương và đường lối của Đảng về Hội nhập kinh tế quốc
tế, Việt Nam đã có những cam kết ứng dụng và triển khai TMĐT: Trong
khuôn khổ của ASEAN, Viêt Nam đã ký kết Hiêp đinh E-ASEAN ngày 24
tháng 10 năm 2000, cam kết thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin và phát
triển TMĐT; Trong khuôn khổ APEC, Việt Nam đã cam kết phấn đầu thực
hiện Thương mại phi giấy tờ vào năm 2010; Trong khuôn khổ Diễn đàn hợp
tác kinh tế Á-Âu (ASEM), Việt Nam đã cam kết tham gia Chương trình hành
động Thuận lợi hoá thương mại, trong đó TMĐT là một trong những nội dung
được ưu tiên cao của Chương trình.
Nhận thức được tầm quan trọng của TMĐT, Đảng và Chính phủ đã tập
trung chỉ đạo nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của TMĐT. Cụ thể:
- Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) đã khẳng định:


“Con đường cồng nghiệp hoấ, hiện đại hoấ của nước ta cẩn và có thể rút
ngấn thời gian, vừa có những bước đi tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt.
Phất huy những lợi th ế của đất nước, tận dụng m ọi khả năng để đạt trình độ
công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học... ”


5

‘Thát triển và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, k ể
cả TMĐT...SỚIĨÌ phổ cập sử dụng tin học và mạng thông tin quốc gia (internet)
trong nền kinh tế và đời sôhg xã h ộ i”.1
-

Ngày 17/10/2000 Bộ Chính trị có chỉ thị số 58-CT/TW về “Đẩy mạnh

ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá”. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một số các Quyết định
như: Quyết định số 128/2000/QĐ-TTg ngày 20/11/2000 về “Một số chính
sách và biện pháp khuyên khích đầu tư và phát triển công nghệ phần mềm”,
Quyết định số 19/2001/QĐ-TTg ngày 20/2/2001 bổ sung sản phẩm máy vi
tính vào danh mục các sản phẩm công nghiệp trọng điểm, Quyết định số
81/2001/QĐ-TTg ngày 24/5/2001 về việc phê duyệt Chương trình hành động
triển khai Đề án Tin học hoá quản lý hành chính Nhà nước giai đoạn 20012005 với mục tiêu đến cuối năm 2005 đưa hệ thống thông tin điện tử của
Chính phủ vào hoạt động. Ngày 23/08/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 55/2001/NĐ/CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet
(thay thế cho NĐ 21 năm 1997) đã tạo tiền đề cho Internet phát triển mạnh
trong tương lai và tạo điều kiện thuận lợi cho TMĐT phát triển tại Việt Nam.
Gần đây nhất là Quyết định số 95/QĐ-TTg ngày 17/7/2002 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt kế hoạch ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin
ở Việt Nam đến năm 2005 trong đó Bộ Thương mại được giao xây dựng Dự án

“Tổ chức triển khai và phát triển TMĐT ở Việt Nam”
Tuy nhiên, hiện nay việc phát triển TMĐT đã gặp phải rất nhiều khó
khăn như: Cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin và viễn thông còn kém;
Nguồn nhân lực còn rất mỏng manh về số lượng, thiếu kinh nghiệm và hiểu
biết về TMĐT; Hệ thống pháp lý thiếu và chưa đồng bộ; Hệ thống thanh toán
điện tử chưa được hình thành đầy đủ và phổ cập rộng rãi; Mức độ tham gia
của các doanh nghiệp còn rất thấp; Ngoài ra còn hạn chế về trình độ ngoại ngữ
1 V ăn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX


6

trong quảng đại quần chúng nhân dân và lề lối làm việc cũng như cách mua
bán hàng hoá nói riêng vẫn theo tập quán cũ đa số dân chúng vẫn quen thói
giao dịch bằng văn bản, giấy tờ, mua hàng phải được nhìn thấy, sờ, thử.
Trong những khó khăn trên thì khó khăn về pháp lý là một rào cản rất
lớn cho sự phát triển TMĐT của nước nhà và trong tiến trình hội nhập với nền
kinh tế thế giới. Xét trên bình diện chung thì Việt Nam chưa xây dựng được
một hạ tầng cơ sở pháp lý đảm bảo cho ứng dụng và phát triển TMĐT.
Trên thực tế việc sử dụng TMĐT trong kinh doanh đã trở nên khá phổ
biến tại Việt Nam. Thay vì việc các doanh nghiệp phải gặp gỡ nhau để trao đổi
đàm phán họ có thể trao đổi với nhau thông qua các phương tiện điện tử như:
Internet, thư điện tử, điện thoại...thay vì việc họ phải gửi chuyển phát cho
nhau các hợp đồng họ có thể thực hiện hợp đồng qua mạng, thay vì việc họ
phải đến tận cửa hàng để xem hàng hoá thì họ có thể xem và tiến hành mua
bán với nhau qua mạng w và w . Như vậy trên thực tế giao dịch điện tử và hợp
(lồng đã được thực hiện thông qua TMĐT, tuy nhiên sự thực hiện này vẫn chỉ
Tiang tính tự phát, theo phong trào mà không có một cơ sở pháp lý nào để điều
chỉnh các hành vi đó và khi xẩy ra tranh chấp thì không có cơ sở nào để giải
quyết tại Việt Nam. Trong hoạt động kinh doanh vấn đề hợp đồng là một vấn

ìề quan trọng là cầu nối các bên với nhau và ràng buộc trách nhiệm đối với
ihau. Điều này đặc biệt quan trọng trong TMĐT vì nó được thực hiện thông
jua một phương tiện hoàn toàn mới: phương tiện điện tử và giảm thiểu được
;ác yếu điểm vốn có của thương mại truyền thống.
Trước những yêu cầu trên việc nghiên cứu để góp phần xây dựng và
loàn thiện Hợp đồng trong lĩnh vực TMĐT (trong phạm vi đề tài nghiên cứu
ịọi là “Hợp đồng điện tử”) đang là một đòi hỏi mang tính cấp bách của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.


7

2. Tình hình nghiên cứu
TMĐT là một vấn đề còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Chính vì vậy có rất
ít các đề tài nghiên cứu về TMĐT nói chung và đặc biệt là vấn đề pháp lý của
TMĐT. Hiện nay mới chỉ có một số tài liệu nghiên cứu về góc độ chung của
TMĐT. Dưới góc độ pháp lý của TMĐT có thể kể tới một số công trình
nghiên cứu sau: Luận văn Thạc sỹ Luật học “Một số khía cạnh pháp lý về
TMĐT” của tác giả Vũ Hải Anh, chuyên đề “Bàn về cơ sở pháp lý của TMĐT
ở Việt Nam”của tập thể tác giả thuộc Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý-Bộ
Tư pháp. Ngoài ra còn một số bài viết trong các tạp chí chuyên ngành như bài
viết “Những vấn đề pháp lý về TMĐT ở Việt Nam” của tác giả Bùi Bích Liên
trong tạp chí Luật học số 6/2000, bài viết “Một số vấn đề pháp lý của TMĐT
và việc áp dụng ở Việt Nam” của tác giả Mai Hồng Quỳ trong tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 2/2000. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu và các bài
viết trên chủ yếu tập trung nghiên cứu tổng quan về TMĐT và các yêu cầu
pháp lý cho TMĐT hoạt động mà chưa tập trung đi sâu vào một vấn đề pháp
lý cụ thể nào của TMĐT. Đối với vấn đề pháp lý của Hơp đồng điện tử thì
theo nghiên cứu cho đến nay chưa có một công trình nào đề cập đến vấn đề
này.

Trên thế giới đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề này
và thực tế đã xây dựng được các văn bản pháp lý cho TMĐT nói chung và Hợp
đồng điện tử nói riêng. Đó là: “Đạo luật mẫu về TMĐT” của Uỷ ban Liên hiệp
quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), các đạo luật mẫu về giao dịch
điện tử và chữ ký điện tử của một số nước như Mỹ, Pháp, Singapore, Thái Lan,
Philippines..., “Tài liệu tham khảo về khuôn khổ pháp lý cho TMĐT” của Ban
thư ký ASEAN, “Các yêu cầu pháp lý về vấn đề an toàn và thực hiện các giao
dịch

điện

tử” của

Baker&McKenzie...

tác

giả

Thomas

J.Smedinghof'f thuộc

công

ty


8


Qua nghiên cứu trên, bản thân em thấy việc nghiên cứu làm sáng tỏ một
số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vực TMĐT là một vấn đề có tính thời
sự cao, góp phần vào việc xây dựng hành lang pháp lý cho hợp đồng điện tử
qua đó làm cơ sở thúc đẩy sự phát triển của TMĐT nước nhà.

3. Mục đích và ý nghĩa
Mục đích chủ yếu của đề tài tập trung làm sáng tỏ một số vấn đề pháp
lý về Hợp đồng điện tử và đưa ra phương hướng giải quyết tạo điều kiện cho
Hợp đồng điện tử được áp dụng rộng rãi vào trong thực tiễn tại Việt Nam. Qua
việc nghiên cứu này cũng mong muốn góp phần vào việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp lý tạo môi trường cho Hợp đồng điện tử được thực hiện tại
Việt Nam.
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Thông qua nghiên cứu đề tài góp phần làm sáng tỏ một hình thức hợp đồng
mới trong hệ thống khoa học pháp lý hiện nay còn đang có nhiều ý kiến. Bên
cạnh đó nó còn góp phần khai thác và làm rõ hình thức hợp đồng này trong
thực tiễn qua đó giúp cho việc nghiên cứu và triển khai hình thức hợp đồng
này tại Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hợp đồng điện tử. Đây là một
phạm trù còn khá mới mẻ tại Việt Nam. Trên thế giới hợp đồng điện tử là đối
tượng được nghiên cứu khá nhiều trong từ việc xây dựng hệ thống pháp luật
tới các công trình nghiên cứu về kinh tế và thương mại quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là một số vấn đề pháp lý liên quan tới
Hợp đồng điện tử. Trong phạm vi của luận án tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu
những vấn đề pháp lý chính có liên quan trực tiếp tới việc thực hiện hợp đồng


9


điện tử qua đó muốn làm sáng tỏ những yêu cầu pháp lý cần để hợp đồng điện
tử dược áp dụng vào trong thực tiễn tại Việt Nam.

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận án dựa trên lý luận của Chủ nghĩa
Mác-Lê nin và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta. Đây là những tư
tưởng lý luận chủ đạo định hướng cho việc triển khai các nội dung của luận
án. Phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật
lịch sử được nhìn nhận là kim chỉ nam cho việc nghiên cứu luận án. Ngoài ra
luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu so sánh, tổng hợp; phân tích,
chứng minh; phương pháp phi thực nghiệm; phương pháp nghiên cứu tài liệu;
phương pháp tiếp cận thu thập thông tin để thu thập tài liệu, làm sáng tỏ các
vấn đề nghiên cứu qua đó thấy được thực trạng của vấn đề và đưa ra được các
biện pháp giải quyết phù hợp.

6. Bô cục của luận án
Luận án được chia làm ba chương:
Chương I: Một số vấn đề chung về TMĐT
Chương II: Một số vấn đề chung về Hợp đồng điện tử và thực tiễn áp
dụng tại Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện Hợp đồng điện
tử
Do đây là một vấn đề còn rất mới mẻ tại Việt Nam đặc biệt trong lĩnh
vực pháp lý và do trình độ, thời gian nghiên cứu về lĩnh vưc này có hạn nên
luận án không tránh khỏi những hạn chế. Tác giả của luận án rất mong nhận
được các ý kiến đóng góp của các thầy, cô, các nhà nghiên cứu và bạn đọc
nhằm hoàn thiện đề tài nghiên cứu này.



10

Em xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Phạm Sỹ Chung-Phó Vụ trưởng Vụ
Đầu tư - Bộ Thương mại; các thầy, cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội; lãnh
đạo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); gia đình và bạn bè
đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành luận án này.


11

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỂ CHUNG VỂ TMĐT

1.1. Khái niệm TMĐT
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về “TMĐT” nhưng tựu trung
lại có hai quan điểm lớn trên thế giới xin được nêu ra dưới đây.

1.1.1. TMĐT theo nghĩa rộng
TMĐT theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu về Thương mại
điện tử của ủ y ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế
(ƯNCITRAL): “Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để

bao quất cấc vấn đề phát sinh từ m ọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có
hay không có hợp đồng. Cắc quan hệ mang tính thương mại bao gồm cấc giao
dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về thương m ại nào về cung cấp hoặc trao
dổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phàn phối; dại diện hoặc đại lý ÚiƯƯng
mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng cấc công trình; tư vấn; k ỹ
thuật công trình; đầu tư; cấp vôh; ngân hàng; bảo hiểm; ửiỏa thuận khai ứiác
hoặc tô nhượng; liên doanh cắc hình thức khấc về hợp tầc công nghiệp hoặc
kinh doanh; chuyên chở hằng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường

không, đường sắt hoặc đường bộ”2. Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của
TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán
hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của TMĐT.
ủ y ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về TMĐT như sau: “TMĐT được

hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua cấc phương tiện điện tử. Nó
dựa trên việc xử lý và ữuỵền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm ứianh và hình
ảnh”. TMĐT gồm nhiều hành vi trong đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch

2 Điều 1 Đạo Luật mẫu về TM ĐT của UNCITRAL


12

vạ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng,
chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương
mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp
tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. TMĐT được thực hiện đối
với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên
dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ
pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo
dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo).
Tóm lại, theo nghĩa rộng thì TMĐT có thể được hiểu là các giao dịch tài
chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử;
chuyển tiền điện tử và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng.

1.1.2. TMĐT theo nghĩa hẹp
TMĐT theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động thương mại được thực
hiện thông qua mạng Internet. Các tổ chức như: Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế (OECD) đưa ra các khái niệm về

TMĐT theo hướng này. TMĐT được nói đến ở đây là hình thức mua bán hàng
hóa được bày tại các trang Web trên Internet với phương thức thanh toán bằng
thẻ tín dụng. Có thể nói rằng TMĐT đang trở thành một cuộc cách mạng làm
thay đổi cách thức mua sắm của con người.
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới: “TMĐT bao gồm việc sản xuất,

quảng cáo, bẩn hàng và phân phối sản phẩm được mua bần và thanh toán trên
mạng Internet, nhưng được giao nhận m ột cách hữu hình cả các sản phẩm
được giao nhận cũng như những ứiồng tin số hóa thông qua mạng ửitem et”.
Khái niệm về TMĐT do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của Liên
Hợp quốc (OECD) đưa ra: “TMĐT được định nghĩa sơ bộ là cấc giao dịch

thương m ại dựa trên truyền dữ liệu qua cấc mạng truyền thông như Internet”.


13

Theo các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu được rằng theo nghĩa hẹp
TMĐT chỉ bao gồm những hoạt động thương mại được thực hiện thòng qua
mạng Internet mà không tính đến các phương tiện điện tử khác như điện
thoại, fax, telex...
Qua nghiên cứu các khái niệm về TMĐT như trên, hiểu theo nghla rộng
thì hoạt động thương mại được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin
liên lạc đã tồn tại hàng chục năm nay và đạt tới doanh số hàng tỷ USD mỗi
ngày. Theo nghĩa hẹp thì TMĐT chỉ mới tồn tại được vài năm nay nhưng đã
đạt được những kết quả rất đáng quan tâm, TMĐT chỉ gồm các hoạt động
thương mại được tiến hàng trên mạng máy tính mở như Internet. Trên thực tế,
chính các hoạt động thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh
thuật ngữ TMĐT.


1.2. Đặc trưng của TMĐT
Để nghiên cứu một số vấn đề Hợp đồng điện tử, chúng ta cần nghiên
cứu và tìm ra các đặc trưng của TMĐT. So với các hoạt động Thương mại
truyền thống, TMĐT có một số điểm khác biệt cơ bản sau:

1.2.1. Tính gián tiếp trong giao dịch TMĐT
Trong Thương mại truyền thống, các bên có quan hệ hợp đồng thường
gặp gỡ nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ
yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo.
Các phương tiện viễn thông như: fax, telex, .. chỉ được sử dụng để trao đổi số
liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương
mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin một cách trực tiếp giữa hai đối
tác của cùng một giao dịch. Từ khi xuất hiện mạng máy tính mở toàn cầu
Internet thì việc trao đổi thông tin không chỉ giới hạn trong quan hệ giữa các
công ty và doanh nghiệp mà các hoạt động thương mại đa dạng đã mở rộng


14

nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới với số lượng người tham gia ngày càng
tăng. Những người tham gia là cá nhân hoặc doanh nghiệp, có thể đã biết,
hoặc hoàn toàn chưa biết bao giờ.
Trong nền kinh tế số, thông tin được số hóa thành các byte, lưu giữ
trong các máy vi tính và truyền qua mạng với tốc độ ánh sáng. Điều này tạo ra
những khả năng hoàn toàn mới làm thay đổi thói quen tiêu dùng và mua bán
của con người mà trong đó, người bán (mua) hàng có thể giao dịch với đối tác
ở bất kỳ đâu trên thế giới mà không cần qua khâu trung gian hỗ trợ của bất kỳ
công ty thương mại nào. TMĐT cho phép mọi người cùng tham gia từ các
vùng xa xôi hẻo lánh đến các khu vực đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi
người ở khắp mọi nơi đều có cơ hội ngang nhau tham gia vào thị trường giao

dịch toàn cầu và không đòi hỏi nhất thiết phải có mối quen biết với nhau.

1.2.2. TMĐT được thực hiện trong một thị trường không có biên giới
TMĐT càng phát triển, thì máy tính cá nhân trở thành cửa sổ cho doanh
nghiệp hướng ra thị trường trên khắp thế giói. Không chỉ các công ty hàng đầu
thế giới mới có thể tiếp cận những thị trường mới, mà ngay cả một công ty vừa
mới khởi sự cũng có một mạng lưới tiêu thụ và phân phối không biên giới
ngay đầu ngón tay của mình. Với TMĐT, một doanh nhân dù mới thành lập
đã hoàn toàn có thể kinh doanh ở Nhật Bản, Đức và Chilê

mà không hề

phải bước ra khỏi nhà, một công việc trước kia phải mất nhiều năm.
Sang thế kỷ XXI, bất cứ người dân nào dù là người tiêu dùng, các nhà
kinh doanh nhỏ, hay chủ tịch công ty lớn - đều sẽ có thể mở rộng công việc
giao dịch của mình tới những nơi xa xôi nhất của hành tinh. Toàn cầu hóa, tự
do hóa mậu dịch và phát triển là con đường nhanh chóng đưa các quốc gia và
các doanh nghiệp thay đổi theo hướng cạnh tranh quốc tế trên phạm vi toàn
cầu, kể cả việc giành lấy các thị trường nước ngoài, thu hút các nhà đầu tư
nước ngoài và các đối tác thương mại.


15

1.2.3. Các chủ thể tham gia vào TMĐT
Các chủ thể tham gia vào TMĐT bao gồm: Chính phủ (Government),
doanh nghiệp (Business), người tiêu dùng (Customer) trong đó Chính phủ
đóng vai trò là người tạo ra môi trường cho TMĐT hoạt động, các doanh
nghiệp là động lực chính thúc đẩy TMĐT phát triển, người tiêu dùng tham gia
vào TMĐT dưới tư cách là người sử dụng TMĐT phục vụ cho hoạt động tiêu

dùng của mình.
Theo đó có các mô hình TMĐT sau: Mô hình giữa doanh nghiệp với
người tiêu dùng (Business to Customer) viết tắt là (B2C), giữa doanh nghiệp
với doanh nghiệp (Business to Business) viết tắt là (B2B), giữa doanh nghiệp
với chính phủ (Business to Government) viết tắt là (B2G), giữa người tiêu
dùng với chính phủ (Customer to Government) viết tắt là (C2G), giữa các cơ
quan của chính phủ với nhau (Government to Government) viết tắt là (G2G).
Trong các mô hình trên thì mô hình B2B là mô hình phổ biến và phát triển
mạnh nhất của TMĐT và xét về doanh số TMĐT thì B2B chiếm tới 70%.
Trong TMĐT, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như
giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là nhà cung
cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực là những người tạo môi trường cho
các giao dịch TMĐT. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có
nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch
TMĐT, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao
dịch TMĐT.

1.2.4. Trong TMĐT thỉ mạng lưới thông tin chính là thị trường
Thông qua TMĐT, nhiều loại hình kinh doanh mới được hình thành. Ví
dụ: các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình thành nên các trung
gian ảo làm các dịch vụ môi giới, trọng tài cho giới kinh doanh và tiêu dùng;


16

các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng
máy tính.
Theo một số chuyên gia về kinh doanh trên mạng, chính những tính
năng dễ sử dụng và hình thức vui mắt, dễ hiểu của các trang Web dành cho
TMĐT là những yếu tố quyết định trong việc thu hút khách hàng.

Các trang Web khá nổi tiếng như Yahoo! America Online hay Alta
Vista& , đóng vai trò như các trang Web gốc khác với vô số thông tin. Các
trang Web này đã trở thành các “khu chợ” khổng lồ trên Internet. Với mỗi lần
nhấn chuột, khách hàng có khả năng truy cập vào hàng ngàn cửa hàng ảo khác
nhau và tỷ lệ khách hàng vào hàng ngàn các cửa hàng ảo khác nhau và tỷ lệ
khách hàng vào thăm rồi mua hàng là rất cao.
Giá cả không quan trọng bằng tính dễ sử dụng và tiện lợi. Tuy nhiên,
trong thời gian tới, khi các công ty kinh doanh trên Web cạnh tranh không liệt
hơn và đua nhau dành cho khách hàng những dịch vụ tiện lợi nhất, giá cả sẽ
lại trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh.
Người tiêu dùng đã bắt đầu mua trên mạng một số các loại hàng trước
đây được coi là khó bán trên mạng. Con người ngày càng trở nên lười biếng và
họ cho rằng thà phải trả thêm một chút tiền còn hơn là phải đi tới tận cửa
hàng. Một số công ty đã mời khách may đo quần áo trên mạng, tức là khách
hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng dẫn tới cửa hàng (qua Internet) rồi sau
một thời gian nhất định nhận được bộ quần áo theo đúng yêu cầu của mình.
Điều tưởng như không thể thực hiện được này cũng có rất nhiều người hưởng
ứng.
Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đang đua nhau đưa
thông tin lên Web để tiến tới khai thác mảng thị trường rộng lớn trên Web
bằng cách mở cửa hàng ảo.
Tóm lại, trong TMĐT bản chất của thông tin không thay đổi. TMĐT
chỉ biến đổi cách thức khởi tạo, trao đổi, bảo quản và xử lý thông tin, hoàn


17

toàn không thay đổi những chức năng cơ bản của thông tin đối với các bên
tham gia truyền thống của hợp đồng.
Việc mã hóa, số hóa nội dung của các thông tin, chứng từ và tài liệu

giao dịch làm cho TMĐT dù cho hoạt động trong khuôn khổ quốc gia hay
quốc tế, có sự khác biệt so với thương mại truyền thống chủ yếu dựa trên
chứng từ bằng giấy tờ. Trong thương mại truyền thống (bằng giấy tờ) nếu có
nhiều bên tham gia thì sẽ phải tốn một khối lượng lớn giao dịch về hợp đồng.
Trong khi đó nếu giao dịch được thực hiện thông qua TMĐT, thì tiết kiệm
được rất nhiều giấy tờ và thời gian. Tuy nhiên các chứng từ được thể hiện bằng
giấy tờ, cho đến nay, lại có ưu thế hơn trong vai trò chứng cứ khi xảy ra tranh
chấp.3

1.3. Các hình thức hoạt động chủ yếu của TMĐT
1.3.1. Thư điện tử
Các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước,., sử dụng thư điện tử để gửi
thư cho nhau một cách “trực tuyến” thông qua mạng, gọi là thư điện tử
(electronic mail, viết tắt là e-mail). Thông tin trong thư điện tử không phải
tuân theo một cấu trúc định trước nào. Có thể nói thư điện tử đã tạo ra một
cuộc cách mạng trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong cuộc sống
và hiệu quả mà nó mang lại sẽ không thể tính được bằng những con số cụ thể.
Thay vì việc các doanh nghiệp phải gửi cho nhau các tài liệu, hợp đồng bằng
thư từ truyền thống rất tốn kém cả về vật chất và thời gian họ chỉ cần mất vài
phút để gửi một lá thư điện tử cho nhau với chi phí hầu như không đáng kể.

THƯ vĩ Ẹ ,v



HOC LỦÂT h à MÔ! I
PHniNiricx/
'
■ỉ


trư ơ ng đ ạ i

3 TS. Hoàng T h ế Liên và các tác giả, Bàn về cơ sở pháp lý của TM ĐT ở Việt Nam, Viện nghiên cứu khoa học
pháp lý - Bộ Tư pháp, 2000


18

1.3.2. Thanh toán điện tử
Thanh toán điện tử (electronic paymcnt) là việc thanh toán tiền thông
qua bản tin điện tử (electronic message) thay cho việc giao dịch dùng tiền
mặt; ví dụ, trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền
mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ tín dụng V.V.. thực chất đều là dạng thanh
toán điện tử. Ngày nay, với sự phát triển của TMĐT, thanh toán điện tử đã mở
rộng sang các lĩnh vực mới đó là:
1.3.2.1.Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data
Interchange) gọi tắt là FEDI chuyên phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa
các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử.
1.3.2.2.

Tiền mặt Internet (Internet Cash) là tiền mặt được mua từ một

nơi phát hành (ngân hàng hoặc một tổ chức tín dụng nào đó), sau đó được
chuyển đổi tự do sang các đồng tiền khác thông qua Internet, áp dụng trong cả
phạm vi một nước cũng như giữa các quốc gia; tất cả đều được thực hiện bằng
kỹ thuật số hóa, vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là “tiền mặt số hóa”
(digital cash), có công nghệ đặc thù chuyên phục vụ mục đích này, đảm bảo
được mọi yêu cầu của người bán và người mua theo luật quốc tế. Tiền mặt
Internet được người mua hàng mua bằng đồng nội tệ, rồi dùng mạng Internet
đó chuyển cho người bán hàng. Thanh toán bằng tiền Internet đang trên đà

phát triển nhanh, nó có ưu điểm nổi bật sau:
+ Có thể dùng để thanh toán những món hàng giá trị nhỏ, thậm chí ngay
cả tiền mua báo (vì phí giao dịch mua hàng và chuyển tiền rất thấp
không đáng kể);
+ Không đòi hỏi phải có một quy chế được thỏa thuận tò trước, có thể
tiến hàng giữa hai con người hoặc hai công ty bất kỳ, các thanh toán là
vô danh;
+ Tiền mặt nhận được đảm bảo là tiền thật, tránh được tiền giả


19

1.3.2.3. Túi tiền điện tử (electronic purse); còn gọi là “ví điện tử” là nơi
để tiền mặt Internet, chủ yếu là thẻ thông minh (smart card), còn gọi là thẻ giữ
tiền (stored value card), tiền được trả cho bất kỳ ai đọc được thẻ đó; kỹ thuật
của túi tiền điện tử tương tự như kỹ thuật áp dụng cho “tiền mặt Internet” .
Thẻ thông minh, nhìn bề ngoài như thẻ tín dụng, nhưng ở mặt sau của thẻ,
thay cho dải từ là một chíp máy tính điện tử có một bộ nhớ để lưu trữ tiền số
hóa, tiền ấy chỉ được “chi trả” khi sử dụng hoặc thư yêu cầu (như xác nhận
thanh toán hóa đơn) được xác thực là “đúng”
1.3.2.4. Giao dịch ngân hàng số hóa (digital banking), giao dịch chứng
khoán số hóa (digital securities trading).
Hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng là một hệ thống lớn gồm nhiều hệ
thống nhỏ:
(1)Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng qua điện thoại, tại các
điểm bán lẻ, các kiôt, giao dịch cá nhân tại các gia đình, giao dịch
tại trụ sở khách hàng, giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ
tín dụng, thông tin hỏi đáp
(2)


Thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng,

siêu thị)
(3) Thanh toán nội bộ một hệ thống ngân hàng
(4) Thanh toán giữa hệ thống ngân hàng này với hệ thống ngân hàng

1.3.3. Trao đổi dữ liệu điện tử
Trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange, viết tắt là EDI) là
việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” (stuctured form), (có cấu trúc
nghĩa là các thông tin trao đổi được với các đối tác thỏa thuận với nhau tuân
thủ theo một khuôn dạng nào đó) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện
tử khác, giữa các công ty hoặc đơn vị đã thỏa thuận buôn bán với nhau, theo
cách này sẽ tự động hóa hoàn toàn không cần có sự can thiệp của con người.


20

Theo ủy ban liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), việc trao
đổi dữ liệu điện tử được xác định như sau: “Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) là

việc chuyển giao thông tin từ m ẩy tính điện tử này sang m ấy tính điện tử khác
bằng phương tiện điện tử, có sử dụng m ột tiêu chuẩn đã được thỏa thuận để
cấu trúc thông tin
EDI ngày càng được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu, chủ yếu phục vụ
cho việc mua và phân phối hàng (gửi đơn hàng, các xác nhận, các tài liệu gửi
hàng, hóa đơn v.v), người ta cũng dùng cho các mục đích khác, như thanh
toán tiền khám bệnh, trao đổi các kết quả xét nghiệm v.v. EDI chủ yếu được
thực hiện thông qua mạng ngoài (extranet) với nhau và thường được gọi là
“mạng thương mại” (net-commerce). Cũng có khi có “EDI hỗn hợp” (hybird
EDI) dùng cho trường hợp chỉ có một bên đối tác dùng EDI, còn bên kia thì

vẫn dùng các phương thức thông thường (như fax, thư tín qua bưu điện). Trước
khi có Internet đã có EDI, khi đó người ta dùng “mạng giá trị gia tăng”
(Value Added Netvvork, viết tắt là VAN) để liên kết các đối tác EDI với nhau;
cốt lõi của VAN là một hệ thống thư điện tử cho phép các máy tính điện tử
liên lạc được với nhau, và hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm kiếm;
khi nối vào VAN, một doanh nghiệp có thể liên lạc với nhiếu máy tính điện tử
nằm ở nhiều thành phố trên khắp thế giới. Ngày nay EDI chủ yếu được thực
hiện thông qua mạng Internet.
Để phục vụ cho buôn bán giữa các doanh nghiệp thuận lợi hơn với chi
phí truyền thông không quá tốn kém, người ta đã xây dựng một kiểu mạng
mới gọi là “mạng riêng ảo” (Virtual private network), là mạng riêng dạng
intranet của một doanh nghiệp nhưng được thiết lập dựa trên chuẩn trang Web
và truyền thồng qua mạng Internet. Hai mạng Intranet liên kết, trao đổi thông
tin với nhau được gọi là mạng extranet giữa hai doanh nghiệp. Mạng riêng ảo
có các khối phần cứng hoặc phần mềm dùng để mã hóa thông tin, đôi lúc có


21

tác dụng như một tường lửa bảo vệ thông tin (firewall) giữa các đối tác với
nhau.
TMĐT có đặc tính phi biên giới (Cross border electronic commerce), về
bản chất phi biên giới là trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) giữa các doanh nghiệp
ở các quốc gia khác nhau, công việc trao đổi EDI thường là các nội dung sau:
1/ Giao dịch kết nối
2/ Đặt hàng
3/ Giao dịch gửi hàng
4/Thanh toán
Vấn đề này đang được tiếp tục nghiên cứu và xử lý, đặc biệt là buôn
bán giữa các nước có quan điểm chính sách, và luật pháp thương mại khác

nhau, đòi hỏi phải có một pháp lý chung trên nền tảng thống nhất quan điểm
về tự do hóa thương mại và tự do hóa việc sử dụng mạng Internet, chỉ như vậy
mới bảo đảm được tính khả thi, tính an toàn, và tính có hiệu quả của việc trao
đổi dữ liệu điện tử (EDI)

1.3.4. Truyền dung liệu
Dung liệu (content) là nội dung của hàng hóa, mà không phải là bản
thân vật mang nội dung đó; ví dụ như: tin tức, nhạc phim, các chương trình
phát thanh, truyền hình, các chương trình phần mềm, các ý kiến tư vấn, vé
m áy bay, vé xem phim, xem hát, hợp đồng bảo hiểm, V.V..

Trước đây, dung liệu được trao đổi dưới dạng hiện vật (physical form)
bằng cách đưa vào đĩa, vào băng, in thành sách báo, thành văn bản, đóng gói
bao bì chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến điểm phân phối (như của hàng,
quầy báo v.v.) để người sử dụng mua và nhận trức tiếp. Ngày nay, dung liệu
được số hóa và truyền gửi theo mạng, gọi là “giao gửi số hóa”
delivery).

(digital


22

Các tờ báo, các tư liệu công ty, các ca-ta-lô sản phẩm lần lượt đưa lên
Web, người ta gọi là “xuất bản điện tử” (electronic publishing hoặc Web
publishing), khoảng 2700 tờ báo đã được đưa lên Web gọi là “sách điện tử” ;
các chương trình phát thanh, truyền hình, giáo dục, ca nhạc, kể chuyên
v.v.xũng được số hóa, truyền qua Internet, người sử dụng tải xuống
(dovvnload); và sử dụng thông qua màn hình và thiết bị âm thanh của máy tính
điện tử. Đặt mua chỗ trên máy bay, rạp hát qua Internet gọi là “Vé điện tử”

(electronic ticket), ở Mỹ đã chiếm tỷ trọng tới 70%. Người tiêu thụ dùng
Internet liên lạc trực tuyến với cơ quan tín dụng, ngân hàng để biết các thông
tin về bảo hiểm và số liệu phút chót về tài chính của mình (tiền tiết kiệm, tiền
gửi, tiền sắp phải trả V.V.). Với góc độ kinh tế - thương mại, các loại thông tin
kinh tế và kinh doanh trên Internet đều rất phong phú, một nhiệm vụ quan
trọng của công tác thông tin ngày nay là khai thác Web và phân tích tổng hợp.

1.3.5. Bán lẻ hàng hóa hữu hỉnh
Đến nay, danh sách các hàng hóa bán lẻ qua mạng đã mở rộng, từ hoa
tới quần áo, ôtô và xuất hiện một loại hoạt động gọi là “mua hàng điện tử”
(electronic shopping), hay “mua hàng trên mạng” ; ở một số nước, Internet bắt
đầu trở thành công cụ để cạnh tranh bán lẻ hàng hữu hình (Retail of tangible
goods). Tận dụng tính năng đa phương tiện (multimedia) của môi trường Web
và Java, người bán xây dựng trên mạng các “cửa hàng ảo” (Virtual shop), gọi
là ảo bởi vì, cửa hàng có thật nhưng ta chỉ xem toàn bộ quang cảnh cửa hàng
và các hàng hóa chứa trong đó trên từng trang màn hình một. Để có thể mua,
bán hàng, khách hàng tìm trang Web của cửa hàng, xem hàng hóa hiển thị
trên màn hình, xác nhận mua và trả tiển bằng thanh toán điện tử. Lúc đầu (giai
đoạn một), việc mua bán như vậy còn ở dạng sơ khai: người mua chọn hàng
rồi đặt hàng thông qua mẫu đơn (form) cũng đặt ngay trên Web. Nhưng có
trường hợp muốn lựa chọn giữa nhiều loại hàng ở các trang Web khác nhau


23

(của cùng một cửa hàng) thì hàng hóa miêu tả nằm ở một trang, đơn đặt hàng
lại nằm ở trang khác, gây ra nhiều phiền toái. Để khắc phục, giai đoạn hai,
xuất hiện loại phần mềm mới, cùng với hàng hóa của cửa hàng trên màn hình
đã có thêm phần “xe mua hàng” (shopping cart, shopping trolly), giỏ mua
hàng (shopping basket, shopping bag) giống như giỏ mua hàng hay xe mua

hàng thật mà người mua thường dùng khi vào cửa hàng siêu thị. Xe và giỏ
mua hàng này đi theo người mua suốt quá trình chuyển từ trang Wen này đến
trang Web khác để chọn hàng, khi tìm được hàng vừa ý, người mua ấn phím
“Hãy bỏ vào giỏ” ( Put in into shopping bag); các xe hay giỏ mua hàng này có
nhiệm vụ tự động tính tiền (kể cả thuế, cước vận chuyển) để thanh toán với
khách mua. Hiện nay, các hãng bán hàng đã có hệ thống phần mềm mới hơn
gọi là “Thương điếm điện tử” (store front, hay store - building ) có tính năng
cao hơn, cho phép người mua giao tiếp thoải mái hơn với cửa hàng và hàng
hóa V.V.. Vì hàng hóa là hữu hình, nên tất yếu sau đó cửa hàng phải dùng tới
các phương tiện gửi hàng theo kiểu truyền thống để đưa hàng đến tay người
tiêu dùng.
Một trong những thuận lợi của mua hàng trên mạng là khách hàng có
cửa hàng tại nhà (home shopping ) mà không cần phải đích thân đi tới nơi có
cửa hàng thật.4

1.4. Những yêu cầu chủ yếu của TMĐT
Để TMĐT có đủ điều kiện phát triển đòi hỏi phải có những hạ tầng cơ
sở thiết yếu cho nó hoạt động. Đó chính là những yêu cầu chủ yếu cho TMĐT
hoạt động, điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam-một
quốc gia đang trong giai đoạn đầu tiên của việc ứng dụng và phát triển TMĐT.
Có thể nhận thấy một số yêu cầu chủ yếu sau:

4 PGS.TS Vu Ngọc Cừ, THS Trịnh Thanh Lâm, Thương m ại điện tử, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, 2001


×