Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Bảo Hiểm Xã Hội Tự Nguyện Theo Pháp Luật Việt Nam Từ Thực Tiễn Tại Thị Xã Sơn Tây, TP Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (879.07 KB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG LAN HOA

BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI
THỊ XÃ SƠN TÂY, TP HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội - 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG LAN HOA

BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI
THỊ XÃ SƠN TÂY, TP HÀ NỘI

Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS PHẠM THỊ THÚY NGA

Hà Nội - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn với đề tài: Bảo hiểm xã hội tự nguyện theo
pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình !
Hà Nội, ngày.... tháng năm 2020
HỌC VIÊN

Dương Lan Hoa


LỜI CÁM ƠN
Được sự phân công của quý thầy cô khoa Luật, đến nay em đã hoàn
thành luận văn của mình với đề tài: Bảo hiểm xã hội tự nguyện theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn tại thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội.
Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản
thân còn có sự hướng dẫn tận tình của các thầy, cô giáo và Ban Giám đốc học
viện. Đặc biệt em chân thành cảm ơn TS Phạm Thị Thúy Nga – người đã
hướng dẫn cho em trong suốt thời gian thực hiện làm luận văn. Một lần nữa
em chân thành cảm ơn cô và chúc cô dồi dào sức khoẻ, hạnh phúc.
Tuy nhiên vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân còn thiếu
nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên nội dung của luận văn không tránh khỏi
những thiếu xót, em rất mong nhận sự góp ý, chỉ bảo thêm của quý thầy, cô
để bài viết này được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa xin gửi đến quý thầy, cô và học viện lời cảm ơn chân
thành và tốt đẹp nhất!
HỌC VIÊN

Dương Lan Hoa



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ
NGUYỆN.......................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ............ 6
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ....................... 18
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật bảo hiểm xã
hội tự nguyện........................................................................................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................... 28
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở
Việt Nam hiện nay .................................................................................. 28
2.2. Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự
nguyện ở thị xã Sơn Tây thành phố Hà Nội ........................................... 34
Chương 3: YÊU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ
CHỨC THỰC HIỆN TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY THÀNH PHỐ HÀ NỘI . 48
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở
Việt Nam trong thời gian tới ................................................................... 48
3.2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ........ 49
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
Bảo hiểm xã hội tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội .......................... 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHXHTN

Bảo hiểm xã hội tự nguyện

CP

Chính phủ



Hợp đồng

KT-XH

Kinh tế - xã hội



Nghị định

NLĐ

Người lao động

TP


Thành phố


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Bảng tỷ lệ hưởng chế độ hưu trí .......................................................................... 29
Bảng 2.2. Số người tham gia BHXH tự nguyện giai đoạn 2011 – 2019. ............................ 38
Bảng 2.3. Kết quả số thu BHXH tự nguyện. ....................................................................... 39
Bảng 2.4. Kết quả người hưởng chế độ hưu trí BHXH tự nguyện. ..................................... 40


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để tồn tại, phát triển con người phải lao động nhằm tạo ra của cải vật
chất phục vụ cho cuộc sống. Muốn vậy, con người phải có sức khoẻ và khả
năng lao động. Trong thực tế, lao động không phải người lao động nào cũng
có đủ điều kiện sức khoẻ, khả năng lao động hoặc những may mắn khác để
hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Ngược lại, không mấy ai tránh được những
rủi ro bất hạnh như ốm đau, tai nạn hay già yếu, chết hoặc thiếu công ăn việc làm
do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng
như các tác động xã hội khác. Cùng với sự phát triển của xã hội, ý thức cộng
đồng được nâng dần lên thì “dịch vụ bảo hiểm xã hội" cũng hoàn thiện dần và
ngày càng đa dạng, phong phú. Khi nền kinh tế hàng hoá hình thành và phát
triển đã có sự chuyên môn hoá trong hoạt động đời sống xã hội.
Quá trình công nghiệp hoá tạo ra một đội ngũ lao động làm công ăn
lương và cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào thu nhập từ lao động của họ …
Cho nên, khi có những rủi ro xảy ra làm cho người lao động bị mất hoặc giảm
thu nhập dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ. Để khắc phục
tình trạng này truyền thống tương thân, tương ái vốn có trong nhân dân được
phát huy. Các quỹ tương tế, quỹ ái hữu và các hiệp hội ra đời nhằm bảo vệ

các thành viên của mình, dưới các hình thức quyên góp một phần thu nhập
của các thành viên khi họ còn khoẻ mạnh, còn có thu nhập. Đây là những hình
thức sơ khai của BHXH sau này. Dần dần khi kinh tế hàng hoá phát triển, các
mối quan hệ lao động và quan hệ xã hội ngày càng trở nên quan trọng.
Luật Bảo hiểm xã hội 2014 ra đời, riêng chế độ bảo hiểm xã hội tự
nguyện được áp dụng từ năm 2008. Bảo hiểm xã hội tự nguyện chủ yếu áp
dụng cho đối tượng là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi với
nam, đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi đối với nữ và không thuộc diện áp dụng của
1


pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc. Như vậy, người lao động ở mọi khu
vực có quyền lợi trong tham gia và thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội.
Tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội việc triển khai bảo hiểm xã hội tự
nguyện mặc dù còn mới, nhưng hệ thống bảo hiểm xã hội đã phân cấp tổ chức
bộ máy hoạt động đến cấp huyện và có đại lý đến cấp xã, phường rất thuận lợi
cho người lao động tiếp cận để tham gia. Tuy nhiên, qua hơn 10 năm triển
khai thực hiện, số lượng người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của họ ̣cũng như định hướng của
Đảng, Nhà nước. Nguyên nhân số lượng người tham gia còn ít do đặc điểm
lao động của đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nước ta là: trình
độ học vấn và nhận thức xã hội còn nhiều hạn chế, lao động phần lớn chưa
qua đào tạo, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp. Vấn đề cần đặt ra là làm thế
nào để người lao động nhận thức được sự cần thiết tham gia bảo hiểm xã hội
tự nguyện.
Xuất phát từ những lý do trên, em đã chọn đề tài “Bảo hiểm xã hội tự
nguyện theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội. ”
làm luận văn Thạc sỹ Luật học của mình với mong muốn góp phần hoàn thiện
pháp luật bảo hiểm xã hôị tự nguyện ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Bảo hiểm xã hội tự nguyêṇ đang ngày càng được quan tâm không chỉ
trong thực tiễn mà còn với những nhà nghiên cứu khoa học. Một số công trình
đã được thực hiện dưới dạng khóa luận tốt nghiệp như: “Thưc ̣ trạng pháp
luâṭ bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Viêṭ Nam hiện nay – trường Đại học Mở Hà
Nội” của tác giả Hồ Thị Hải (thực hiện năm 2016), “Bảo hiểm xã hội tự
nguyện - Bốn năm thực hiện và môṭ số kiến nghi ḥ oàn thiện”- tác giả Trần Thị
Huyền Lê ( Đại học Luật Hà Nội thực hiện năm 2017) …
Trong số đó có thể kể các công trình được thực hiện ở cấp độ thạc sỹ
như Luâṇ văn thạc sĩ luật học “Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam ” của
2


tác giả Lê Thị Thu Hằng – Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội (thực hiện năm
2017), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật” của tác giả Hoàng Quốc Đạt – Đại học Kinh tế
quốc dân (thực hiện năm 2016), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - 5 năm thực
hiện và một số kiến nghi ̣hoàn thiện” của tác giả Đặng Thị Vân Khánh – Đại
học Kinh tế quốc dân (thực hiện năm 2015).
Ngoài ra có các đề tài nghiên cứu của Bảo hiểm xã hội Viêṭ Nam “Cơ
sở lý luận cho việc thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện Viêṭ Nam thời gian
tới ” do Tiến sĩ Nguyễn Tiến Phú làm chủ nhiệm (thực hiện năm 2011); các
bài viết “Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam ” của TS. Lê
Thi ̣Hoài Thu - tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2017.
Đặng Như Lợi (2014), “Cải cách Luật BHXH để mở rộng bảo hiểm
hưu trí đối với người cao tuổi”, Tạp chí Lý luận chính trị.
TS. Nguyễn Hiền Phương (chủ biên, 2015), “Bình luận khoa học một
số quy định của luật BHXH năm 2014”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Những bài viết này đã đề cập đến một số khía cạnh của BHXH nói
chung và BHXH tự nguyện nói riêng của Luật BHXH năm 2014. Tuy nhiên,

thực tiễn thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện vẫn còn nhiều vướng mắc
cần tiếp tục được nghiên cứu hoàn thiện. Đặc biệt, chưa có công trình nào
nghiên cứu riêng về việc thực hiện chế độ BHXH tự nguyện ở Thị xã Sơn
Tây, TP Hà Nội.
Do đó, luận văn này trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu trước
đó cùng với thực tiễn thực hiện pháp luật nhằm bổ sung thêm vào hê ̣thống lý
luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện để từ đó đưa ra một số kiến nghi ̣hoàn thiện
pháp luâṭ bảo hiểm xã hội tự nguyện ở thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài này là nghiên cứu một số vấn đề lý luận
pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện, đánh giá thực trạng quy định pháp
luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam hiện nay, đánh giá thực tiễn
thực hiện tại thị xã Sơn Tây và đề xuất các yêu cầu, kiến nghị hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện.
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn thực hiện các nhiệm
vụ sau:
- Làm rõ khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện, nguyên
tắc điều chỉnh của bảo hiểm xã hội tự nguyện và nội dung của bảo hiểm xã
hội tự nguyện
- Phân tích các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện, chỉ ra
những thành tựu và hạn chế.
- Chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến thực tiễn thực hiện quy định về bảo
hiểm xã hội tự nguyện ở Sơn Tây
- Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại
Sơn Tây;
- Đề xuất một số yêu cầu, kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội

tự nguyện và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện từ kinh nghiệm ở Sơn Tây.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực tiễn thực hiện ở TX Sơn Tây từ
năm 2014-2019.
Do điều kiện nghiên cứu hạn chế, luận văn không nghiên cứu về thanh
tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp về bảo
hiểm xã hội tự nguyện.

4


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin (tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử ), tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, về xây dựng và hoàn
thiện hê ̣thống pháp luật nói chung, pháp luật về bảo hiểm xã hội nói riêng .
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như phương pháp phân tích và tổng hợp,̣ phương pháp so sánh,
liêṭ kê, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn đồng thời vận dụng các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo hiểm xã hội nói chung
và bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu.
6. Kết cấu Luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Chương 2: Thưc ̣ trạng quy định pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực hiện
pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại thị xã Sơn Tây thành phố Hà Nội.
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự

nguyện và nâng cao hiệu quả thực hiện tại thị xã Sơn Tây thành phố Hà Nội.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN
1.1 . Khái niệm, vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.1.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật BHXH trên thế giới cho thấy,
BHXH là vấn đề của mỗi quốc gia, nó đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống
của nó từ thế kỉ XIII ở Nam Âu khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã
bắt đầu phát triển. Tuy nhiên ban đầu BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với
phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVI một số nghiệp đoàn thợ thủ
công ra đời và để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành
lập nên các quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau.
Cộng hòa liên bang Đức là nước đầu tiên thiết lập BHXH và BHXH lúc
đó hoàn toàn mang tính chất bắt buộc. Tuy nhiên, sự phát triển của BHXH
được thiết lập từng bước. Từ năm 1881 đến 1889, các chế độ BHXH bắt buộc
lần lượt ra đời: chế độ bảo hiểm xã hội ốm đau được thiết lập năm 1883, chế
độ bảo hiểm tai nạn lao động năm 1884 và chế độ bảo hiểm tuổi già năm
1889. Vào cuối thế kỷ XIX, ở Đức chỉ có 10% dân số tham gia BHXH bắt
buộc. Tuy nhiên đến thế kỷ XX, đặc biệt là từ năm 1950 BHXH bắt buộc phát
triển đến mức số người tham gia chiếm hơn 90% dân số. [10, tr.15]
Bảo hiểm xã hội đã trở thành một trong những quyền của con người và
được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc
(10/12/1948) đã ghi nhận: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã
hội có quyền hưởng BHXH”. Ngày 04/6/1952, Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) đã kí công ước Giơnevơ về “Bảo hiểm xã hội cho người lao động” đã
khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành BHXH cho NLĐ và gia đình họ.


6


Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính sách BHXH
đặc biệt là BHXH bắt buộc và coi đó là một trong những chính sách xã hội
quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội.
Khía cạnh kinh tế và pháp lý có các khái niệm về Bảo hiểm xã hội khác
nhau. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Bảo hiểm xã hội là sự:
"Bảo đảm những quyền lợi vật chất cho công nhân, viên chức khi không làm
được vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động".
Theo tác giả Trần Quang Hùng và Tiến sĩ Mạc Văn Tiến: "Bảo hiểm xã
hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động khi họ gặp phải các biến cố hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc
làm bằng các hình thức và sử dụng một qũy tài chính tập trung sự đóng góp của
người sử dụng lao động và người lao động nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho
người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội". [14, tr.19]
Cuốn: "Thuật ngữ lao động Thương binh xã hội" Tập 1 nhà xuất bản
Lao động 1999, Bảo hiểm xã hội được hiểu là: "Sự bảo đảm của xã hội đối
với người lao động thông qua việc huy động các nguồn đóng góp của người
sử dụng lao động, người lao động và sự hỗ trợ của nhà nước để trợ cấp người
lao động khi họ bị mất sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn do ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già chết
nhằm đảm bảo an toàn xã hội".
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO): "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm
khả năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc
hình thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia
Bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội". [13, tr.10]


7


Dưới góc độ kinh tế: Bảo hiểm xã hội là phạm trù kinh tế tổng hợp, là
sự bảo đảm thu nhập nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi bị
giảm hoặc mất khả năng lao động.
Dưới góc độ pháp lý: Chế độ Bảo hiểm xã hội là tổng hợp những quy
định của Nhà nước, quy định các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh
thần cho người lao động và trong một số trường hợp là thành viên gia đình họ
khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động.
Như vậy, đã có rất nhiều quan điểm khi đưa ra khái niệm Bảo hiểm xã
hội song có một điểm chung là Bảo hiểm xã hội có tác dụng giúp người lao
động trong những lúc khó khăn hiểm nghèo, ốm đau, tai nạn, thai sản... trên
cơ sở đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động có sự hỗ trợ của
Nhà nước trước khi có biến cố xảy ra và khi người lao động gặp phải thì quỹ
Bảo hiểm xã hội sẽ giúp họ cân bằng phần thu nhập bị giảm sút hay bị mất,
giúp họ trang trải phần chi tiêu bị tăng cao khi gặp các rủi ro khó khăn.
Như vậy, về bản chất BHXH chính là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp
một phần thu nhập cho người lao động trong trường hợp họ gặp rủi ro trong
quá trình lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc khi họ không
còn tham gia quan hệ lao động nữa như hết tuổi lao động, chết…BHXH
thường được thực hiện dưới 2 hình thức: BHXH bắt buộc và BHXH tự
nguyện trong đó BHXH bắt buộc là hình thức BHXH quan trọng được áp
dụng với phạm vi đối tượng tương đối rộng và các chế độ BHXH bao gồm cả
BHXH ngắn hạn và BHXH dài hạn.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện
BHXH tự nguyện là một loại hình BHXH được xây dựng và thực hiện
ở nước ta. Cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện BHXH tự nguyện ở Việt
Nam là luật BHXH số 76/2006/QH được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN

Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006. Chế định về
BHXH tự nguyện tại luật BHXH số 76/2006/QH được Quốc hội nước Cộng
8


hòa XHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006, có
hiệu lực thực hiện vào ngày 01/1/2008, cho đến nay pháp luật về BHXH tự
nguyện ở Việt Nam được thực hiện gần 9 năm. Sau thời gian đưa vào thực
hiện đã được sửa đổi tại luật số 58/2014/QH13, được Quốc hội nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20/11/2014.
Theo Từ điển giải thích thuâṭ ngữ Luâṭ hoc ̣ :“Bảo hiểm xã hôị tự
nguyêṇ là loại hình bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở kết hợp giữa tổ
chức , bảo trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động
có nhu cầu bảo hiểm”.
Nhằm hiểu rõ hơn bản chất của bảo hiểm xã hôị tự nguyêṇ cần phải
phân biêṭ với loaị hình kinh doanh bảo hiểm (bảo hiểm thương mại ). Bảo
hiểm xã hôị tự nguyêṇ và bảo hiểm thương mại được thực hiện trên cùng một
nguyên tắc là có tham gia đóng góp bảo hiểm thì mới được hưởng quyền lợi.
Hoạt động của hai loại bảo hiểm này đều nhằm để bù đắp tài chính cho các
đối tượng tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những rủi ro gây ra thiệt hại
trong khuôn khổ bảo hiểm đang tham gia. Phương thức hoạt động của hai loại
hình này đều mang tính cộng đồng lấy số đông bù số ít. Tuy nhiên mục tiêu
hoạt động của bảo hiểm thương mại là lợi nhuận còn mục tiêu hoạt động bảo
hiểm xã hội tự nguyện là nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước,
góp phần ổn định đời sống cho người lao động và các thành viên trong gia
đình họ. Vì vậy hoạt động bảo hiểm xã hội tự nguyện là hoạt động phi lợi
nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội.
Như vậy thì BHXH tự nguyện là hệ thống những quy tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, nhằm điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực BHXH tự nguyện.

Luật BHXH tự nguyện quy định chế độ, chính sách BHXH tự nguyện,
đối tượng đóng, mức đóng, phương thức đóng, quyền, trách nhiệm của các
bên liên quan đến việc thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện.
9


Phân biệt BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện
BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện cùng là chính sách an sinh xã
hội được thực hiện ở nước ta như BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện có nhiều
điểm khác biệt để nhận thấy.
+ Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là người lao động tham gia hợp
đồng lao động với chủ sử dụng lao động (tổ chức hoặc cá nhân), nhưng đối
với người tham gia BHXH tự nguyện là lao động tự do, tự mình tham gia
đóng BHXH tự nguyện.
+ Phí BHXH bắt buộc bao gồm người lao động đóng một phần, chủ sử
dụng đóng một phần, riêng phí BHXH tự nguyện thì do người tham gia
BHXH tự nguyện đóng 100%; tuy nhiên do thực hiện chính sách mới cho nên
Nhà nước hỗ trợ phần nhỏ trên đóng BHXH tự nguyện từ 2018 trở đi.
+ BHXH bắt buộc hiện nay có 5 chế độ, gồm ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động bằng nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất về BHXH tự nguyện có hai chế độ
sau: hưu trí, tử tuất.
+ Phương thức đóng BHXH bắt buộc là theo tháng, có trường hợp đặc
biệt theo ngành sản xuất kinh doanh của đơn vị sử dụng lao động thì họ có thể
đóng theo quý, theo 6 tháng.
Đối với BHXH tự nguyện, người lao động có thể đóng theo tháng, theo
quý, cả năm hoặc đóng một lần cho nhiều năm sau đó, đặc biệt người tham gia
BHXH tự nguyện đủ tuổi nghỉ hưu nhưng thời gian đóng BHXH tự nguyện đóng
đủ từ 10 năm trở lên thì được đóng mỗi lần tiền gốc, tiền lãi để đủ tối thiếu 20
năm đóng BHXH tự nguyện để hưởng chế độ hưu BHXH. [23, tr.66]
Quy định tại Khoản 3 điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội, Quốc hội nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014): “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là
loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa
chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để
hưởng bảo hiểm xã hội”.
10


Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học:“Bảo hiểm xã hội tự nguyện
là loại hình bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở kết hợp giữa tổ chức, bảo
trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động có nhu cầu
bảo hiểm”. [15, tr.15]
Như vậy, nhằm hiểu rõ hơn bản chất của bảo hiểm xã hội tự nguyện
cần phải phân biệt với loại hình kinh doanh bảo hiểm (bảo hiểm thương mại).
Bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thương mại được thực hiện trên cùng
một nguyên tắc là có tham gia đóng góp bảo hiểm thì mới được hưởng quyền
lợi. Hoạt động của hai loại bảo hiểm này đều nhằm để bù đắp tài chính cho
các đối tượng tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những rủi ro gây ra thiệt hại
trong khuôn khổ bảo hiểm đang tham gia.
Phương thức hoạt động của hai loại hình này đều mang tính cộng đồng
lấy số đông bù số ít. Tuy nhiên mục tiêu hoạt động của bảo hiểm thương mại
là lợi nhuận còn mục tiêu hoạt động bảo hiểm xã hội tự nguyện là nhằm thực
hiện chính sách xã hội của Nhà nước, góp phần ổn định đời sống cho người
lao động và các thành viên trong gia đình họ. Vì vậy hoạt động bảo hiểm xã
hội tự nguyện là hoạt động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội.
Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện
Hệ thống bảo hiểm xã hội lần đầu tiên trên thế giới được hình thành
vào giữa thế kỷ XIX là công trình của Chính phủ Đức và sau đó được hoàn
thiện năm 1883-1889 với chế độ bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm tuổi già, tàn tật
và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người lao động, người sử dụng
lao động và Nhà nước.

Kinh nghiệm về bảo hiểm xã hội của Đức,sau đó lan dần sang nhiều
nước châu Âu (Anh 1991, Ý: 1919, Pháp 1918…)
Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Trung Quốc
Chương trình BHXH tự nguyện ở nông thôn được thực hiện như một
chương trình tiết kiệm cá nhân, trong đó có mức đóng hoặc tỷ lệ đóng do
11


người lao động tự chọn, các hợp tác xã ở nông thôn khuyến khích người lao
động trong xã hội tham gia đóng quỹ với mức tương ứng của hợp tác xã.
Đối tượng tham gia chương trình Bảo hiểm tự nguyện ở nông thôn là
những lao động làm việc trong các hợp tác xã ở khu vực nông thôn.
- Cơ chế đóng.
+ Mức đóng quỹ: Mức đóng, tỷ lệ đóng quỹ là tự nguyện, hợp tác xã và
người lao động có thể đóng cùng một mức, nhưng có thể đóng mức khác nhau
tùy thuộc vào điều kiện của từng Hợp tác xã và người lao động.
+ Phương thức đóng: Việc đóng của người lao động là tự nguyện,
không hạn chế tuổi tác, có thể đóng một lần, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào
điều kiện và hoàn cảnh riêng của người lao động.
+ Mức đóng và phương thức hưởng:
Mức hưởng BHXH hàng tháng của người nghỉ hưu được xác định trên
cơ sở lấy tổng số tiền trên tài khoản cá nhân chia ra 216 tháng (18 năm), nếu
người đóng quỹ quá ít, người lao động thường xin nhận một lần với toàn bộ
số tiền có trong tài khoản.
Phương thức hưởng đối với người lao động là rất linh hoạt, người lao
động có thể nhận tiền hàng tháng hoặc có thể được nhận một lần, trong quá
trình đóng quỹ người lao động có thể nhận tiền đóng của mình trong các
trường hợp như: phải di chuyển chỗ ở sang tỉnh khác, hay có lý do chính đáng
khác nhưng chỉ được nhận lại số tiền do chính bản thân mình đóng góp còn
phần đóng của Hợp tác xã thì người lao động không được nhận. [8, tr.38]

- Điều kiện hưởng:
+ Người lao động tham gia quỹ và số tiền được hưởng trong tài khoản
của cá nhân.
+ Người lao động được nhận chế độ BHXH đối với nam đủ 60 tuổi và
nữ 55 tuổi trở lên.

12


- Chính sách khuyến khích Thực hiện chính sách khuyến khích thông
qua lãi suất tài khoản cá nhân với mức hiện nay là 2,5%, trong khi đó lãi suất
tiết kiệm 1 năm là 1,9% và lãi suất được tính gộp (tức là lãi suất được tính vào
vốn), đây là chính sách được khuyến khích mạnh mẽ người lao động tham gia
đóng quỹ.
Người lao động phải trừ chi phí quản lý 30% trong năm đầu đóng quỹ, từ
năm thứ hai không phải trừ một loại chi phí nào khác, trong trường hợp thiếu chi
phí quản lý được bổ sung từ ngân sách địa phương (Bùi Sỹ Lợi, 2012).
Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Ba Lan
Tại Ba Lan do số lao động nông thôn và nông dân khá lớn, Chính phủ
Ba Lan đã triển khai các hoạt động xã hội cho nông dân ở Ba Lan được thực
hiện trên cơ sở tự nguyện từng khu vực (không phụ thuộc vào biên giới hành
chính mà phụ thuộc vào điều kiện canh tác) có thể thương lượng và lập ra quỹ
BHXH (chủ yếu là chương trình hưu trí).
Đối tượng tham gia vào chương trình BHXH tự nguyện ở nông thôn là
những người lao động làm nhiệm vụ trong các trang trại tư nhân và người lao
động ở nông thôn (không phải nông dân cũng có quyền tham gia)
- Cơ chế đóng hưởng
+ Mức đóng vào quỹ: Mức đóng hay tỷ lệ đóng quỹ là tự nguyện ban
quản lý quỹ thông qua các mức đóng – hưởng khác nhau và được chính quyền
chấp nhận, tùy thuộc vào điều kiện của từng khu vực và người lao động.

+ Phương thức đóng: Có thể một lần hay nhiều lần .
+ Khi đủ tuổi nghỉ hưu như quy định chung của hệ thống BHXH quốc
gia người lao động có quyền hưởng lương hưu không phụ thuộc vào người đó
có làm việc hay không. Nhà nước (chính quyền Trung ương và địa phương)
có thể hỗ trợ trực tiếp cho quỹ một khoản hàng năm, tùy thuộc vào mức độ
chi BHXH và khả năng của ngân sách, đồng thời bảo hộ cho các hoạt động
đầu tư quỹ.
13


- Quản lý quỹ: Quỹ BHXH này do đại diện nông dân bầu ra từ dưới lên và
BHXH nông dân Trung ương có đại diện từ các quỹ địa phương, quỹ được quản
lý theo cơ chế tự quản, có sự bảo hộ và giám sát của các cơ quan Nhà nước.
Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Pháp
Hệ thống an sinh xã hội (ASXH) được hình thành từ năm 1945 mô
hình An sinh xã hội cùng áp dụng chủ yếu từ mô hình Bismarc. Pháp là nước
điển hình kiên trì hỗ trợ chăm sóc trẻ em trước độ tuổi đến trường, trong đó
phụ nữ được hưởng trợ cấp an sinh rất cao trong thời kỳ có con nhỏ.
Các chương trình ASXH Pháp hiện nay bao gồm Bảo hiểm hưu trí và
trợ cấp tuổi già, bảo hiểm thương tật khi làm việc, bảo hiểm thất nghiệp, trợ
cấp gia đình và mỗi chương trình này đều có luật riêng điều chỉnh (Đức
Cường và cs, 2010).
Trong hệ thống bảo hiểm tuổi già ở Pháp có hệ thống bảo hiểm cho
nông dân, bảo hiểm cho nông dân Pháp có những điều đáng chú ý sau:
Về mặt tài chính có đặc điểm thu nhập của người nông thôn, nên để
tính toán mức đóng góp người ta định ra “số điểm” mỗi “điểm” ứng với số
tiền nào đó tại thời điểm đóng góp. Ví dụ 100f 1 điểm. Như vậy giá trị của
mỗi điểm có thể khác nhau tùy thuộc vào giá trị của đồng tiền tại thời điểm
đóng góp và tổng lượng tiền dự kiến cơ quan BHXH có thể thu được trong
năm, cách làm này khá tiện lợi để người lao động nông nghiệp có thể tùy thu

nhập của mình mà đóng góp, tuy nhiên Nhà nước cũng xác định số điểm tối
thiểu để đóng góp trong một kỳ (tháng, quý, năm) đóng góp. Đối với những
người nông dân quá nghèo, họ khuyến cáo không nên tham gia vào hệ thống
BHXH mà là đối tượng của những chính sách trợ giúp xã hội khác.
Trong hệ thống ASXH, ngoài ra để xác định giá trị của “điểm” có thể
căn cứ vào tổng thu và tổng chi của năm trước, để điều chỉnh trên cơ sở tổng
số điểm của người lao động trong suốt quá trình đóng BHXH, để khuyến
khích hưởng BHXH sẽ được tính trên giá trị thực tế của điểm tại thời điểm
14


thụ hưởng. Như vậy mức hưởng BHXH hàng năm cũng sẽ khác nhau, tùy
thuộc vào giá trị của từng thời điểm thụ hưởng. Về mặt quản lý BHXH như đã
nêu trên do tính chất sản xuất nông nghiệp và địa bàn cư trú, bảo hiểm xã hội
cho nông dân Pháp không tổ chức theo mô hình tập trung như hệ thống bảo
hiểm xã hội chung của Nhà nước, mà tổ chức theo mô hình tự quản.
Theo mô hình này từ địa bàn, dân cư (vùng) tự bầu ra Hội đồng quản trị
cơ sở, tổ chức việc thực hiện BHXH, quản lý đối tượng ở địa bàn mình được
bầu, đồng thời bầu ra Hội đồng quản trị Trung Ương. Hội đồng quản trị Trung
Ương đại diện cho ý chí của mọi người nông dân tham gia BHXH, quyết định
mọi vấn đề trong hoạt động BHXH, trong khuôn khổ của pháp luật. Nhà nước
chỉ nên định hướng và tạo hành lang pháp lý cho hoạt động bảo hiểm có tính
cộng đồng rộng lớn này.
Một số gợi mở cho Việt Nam
Pháp luật về BHXH tự nguyện là hệ thống những quy tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, nhằm điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực BHXH tự nguyện.
Pháp luật BHXH tự nguyện quy định chế độ, chính sách BHXH tự
nguyện, đối tượng đóng, mức đóng, phương thức đóng, quyền, trách nhiệm
của các bên liên quan đến việc thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện.

Pháp luật BHXH tự nguyện là một bộ phận cấu thành cơ bản của chính
sách an sinh xã hội, Nhà nước ta với bản chất nhân dân, có trách nhiệm tổ
chức, đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ, tôn trọng thực hiện pháp luật là
một trong những hình thức để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước, người dân, các tổ chức của người dân trong Nhà nước pháp quyền, có
quyền và bổn phận công dân trong việc kiểm tra, giám sát của nhân dân nói
chung về thực hiện pháp luật của BHXH tự nguyện nói riêng. [20, tr.18]
Trong Nhà nước pháp quyền các biện pháp tổ chức thực hiện pháp luật,
đáp ứng những nguyên tắc cơ bản của quyền con người không được tùy tiện
hoặc ngẫu nhiên mà phải tuân thủ theo tiêu chuẩn đã quy định.
15


Căn cứ vào đặc điểm riêng của Việt Nam cũng như qua nghiên cứu mô
hình triển khai BHXH tự nguyện của một số nước cho chúng ta một số bài
học kinh nghiệm, từ đó làm cơ sở để xây dựng, hoàn thiện BHXH tự nguyện
ở Việt Nam; cũng không nằm ngoài chủ chương chính sách pháp luật của Nhà
nước, do vậy cũng rút ra một số kinh nghiệm đó là:
- Bảo hiểm xã hội muốn thực sự phát triển chính sách bảo hiểm xã hội
tự nguyện phải tuân thủ theo đúng các quy luật phát triển khách quan của nó,
không thể chủ quan duy ý chí hoặc áp đặt tuỳ tiện, nôn nóng đáp ứng ngay
nhu cầu mong muốn của mọi người, trong khi mọi điều kiện cơ bản để hình
thành, ổn định và phát triển nó chưa có hoặc chưa đầy đủ.
- Chính sách BHXH tự nguyện chủ yếu hướng tới đối tượng là NLĐ
làm việc tự do, buôn bán, kinh doanh nhỏ lẻ, lao động nông nghiệp, đó là
những người dân sống ở vùng nông thôn, những NLĐ có việc làm không ổn
định và theo thời vụ, người tham gia vào công việc nội trợ, giúp việc hoặc các
công việc phụ khác không có hợp đồng lao động, do đó công tác lãnh đạo,
phải chỉ đạo cho những ban ngành liên quan phối hợp để làm sao tuyên truyền
đúng đối tượng theo các vùng, địa phương có đa số đối tượng có nhu cầu

mong muốn được tham gia.
- Chính sách BHXH tự nguyện phải thực hiện trên cơ sở phát triển kinh
tế trong nông nghiệp của nền kinh tế quốc dân nói chung.
- Quản lý Quỹ BHXH tự nguyện đòi hỏi cơ quan bảo hiểm xã hội phải
tuân thủ nguyên tắc quản lý theo quy định chung của Nhà nước. Như vậy mới
đảm bảo cho quỹ được bảo toàn và phát triển.
1.1.2. Vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện
BHXH trong đó có BHXH tự nguyện là trụ cột của hệ thống an sinh xã
hội, việc thực hiện hiệu quả pháp luật BHXH tự nguyện đóng vai trò vô cùng
quan trọng, trong hệ thống chính sách pháp luật về xã hội, do đó việc hoàn
thiện chính sách BHXH tự nguyện có vai trò quan trọng trong việc góp phần
16


làm cho xã hội ổn định. Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ
XI, khẳng định: Bảo đảm an sinh xã hội, tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống 29
BHXH, BHYT, BHTN trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt có khả năng
bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là những đối tượng yếu thế, dễ
bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong cuộc sống. Nghị quyết số
21/NQ-TW của Bộ chính trị ngày 22/11/2012 về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 – 2020 khẳng định
“BHXH, BHYT là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ
thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội bảo đảm
ổn định chính sách chính trị - xã hội và phát triển kinh tế xã hội”. [14, tr.37]
Ở Việt Nam chính sách BHXH, trong đó BHXH tự nguyện là một bộ
phận quan trọng của chính sách xã hội, giúp nhà nước điều tiết mối quan hệ
giữa chính sách kinh tế - xã hội trên phương diện quy mô, bảo đảm cho nền
kinh tế liên tục phát triển và ổn định xã hội.
Trong hoạt động BHXH nhà nước tiến hành xây dựng nhiều chính
sách, chế độ, tổ chức triển khai, giám sát, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của

người tham gia BHXH tự nguyện mà không phải chính từ ngân sách nhà nước
(NSNN) cho lĩnh vực này. BHXH tự nguyện là một nhu cầu khách quan trong
xã hội hiện đại. Vai trò của thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện trong hệ
thống chính sách và pháp luật về xã hội được thể hiện ở những nội dung sau:
- Thực hiện hiện tốt pháp luật BHXH tự nguyện góp phần ổn định cuộc
sống cho người lao động khi hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao
động. Với hình thức đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất và hưởng chế độ hưu trí khi
về già, đây là một bước tiến lớn trong thực hiện chính sách an sinh xã hội,
không chỉ tham gia vào các quan hệ lao động mới được đóng BHXH mà lao
động tự do cũng được hưởng lương hưu khi hết tuổi lao động.

17


- Thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện góp phần ổn định và nâng cao
chất lượng lao động, đảm bảo sự bình đẳng, vị thế xã hội của người lao động
trong các thành phần kinh tế khác nhau thúc đẩy sản xuất phát triển.
Pháp luật BHXH tự nguyện dựa trên nguyên tắc cơ bản là (đóng –
hưởng) đã tạo ra bước đột phá quan trọng về bình đẳng của người lao động về
chính sách BHXH, các ngành nghề, địa bàn khách nhau, theo các hình thức
khác nhau đều được tham gia, thực hiện chính sách về BHXH. Người tham
gia BHXH tự nguyện khi về hưu được cấp thẻ BHYT và được quỹ BHYT chi
trả phần lớn chi phí khi đi khám chữa bệnh.
- Thực hiện tốt BHXH tự nguyện góp phần xây dựng xã hội ổn định với
phần lớn người lao động ở Việt Nam tham gia vào thị trường lao động phi chính
thức. Với nền kinh tế mà lao động tự do hơn 70% tổng số lao động, nếu lực lượng
lao động này không được đóng BHXH và không có chế độ lương hưu khi về già thì
nhà nước và xã hội sẽ gánh một sức nặng của chính sách bảo trợ xã hội.
Thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện góp phần giảm chi phí cho ngân
sách Nhà nước đảm bảo an sinh xã hội bên vững. Người thực hiện chính sách

BHXH là người tham gia đóng góp, nhà nước không phải tự bỏ ngân sách
hoàn toàn nhưng vẫn thực hiện được mục tiêu an sinh xã hội. [17, tr.20]
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện
1.2.1. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện
Thứ nhất, pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện được thực hiện trên cơ
sở tự nguyện của người tham gia.
Đây là nguyên tắc đặc trưng của bảo hiểm xã hội tự nguyện, khác với
bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội người lao động và
người sử dụng lao động phải bắt buộc tham gia theo quy định của pháp luật.
Bảo hiểm xã hội tự nguyện thực hiện hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện
của người lao động tham gia, họ được quyền tự quyết định tham gia loại hình
này. Người tham gia được lựa chọn tham gia hay không tham gia, lựa chọn
18


×