Tải bản đầy đủ (.doc) (228 trang)

Đảng bộ tỉnh đồng tháp lãnh đạo cải cách hành chính từ năm 1995 đến năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.88 MB, 228 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ THANH DŨNG

ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG THÁP LÃNH
ĐẠO CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TỪ
NĂM 1995 ĐẾN NĂM 2015

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2020


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ THANH DŨNG

ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG THÁP
LÃNH ĐẠO CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH TỪ NĂM 1995 ĐẾN NĂM
2015

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
MÃ SỐ: 9 22 90 15

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐỖ XUÂN TUẤT
TS. NGUYỄN DANH LỢI

HÀ NỘI - 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn góc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án

Lê Thanh Dũng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU............................................................................................................................1

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN.......................................................................................................7

1.1. Những công trình liên quan đến đề tài luận án.......................................7
1.2. Kết quả của các công trình khoa học liên quan và những nội dung
luận án tập trung nghiên cứu.......................................................................26
Chƣơng 2. CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG
THÁP VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TỪ NĂM 1995 ĐẾN NĂM 2005.....29

2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của đảng bộ tỉnh về cải
cách hành chính...........................................................................................29
2.2. Quá trình đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lãnh đạo triển khai thực hiện
cải cách hành chính từ năm 1995 đến năm 2005.........................................50
Chƣơng 3. ĐẢNG BỘ TỈNH ĐỒNG THÁP LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH


CẢI

CÁCH HÀNH CHÍNH TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2015................................88

3.1. Hoàn cảnh lịch sử và những yêu cầu mới về cải cách hành chính.......88
3.2. Chủ trương và chỉ đạo thực hiện của đảng bộ tỉnh Đồng Tháp đẩy mạnh
cải cách hành chính đáp ứng yêu cầu mới................................................. 103
Chƣơng 4. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM........................................ 136
4.1. Một số nhận xét.................................................................................. 136
4.2. Một số kinh nghiệm............................................................................ 153
KẾT LUẬN....................................................................................................................169
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN..................................................................................... 173
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................174
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BCHTW

: Ban Chấp hành Trung ương

CCHC

: Cải cách hành chính

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH


: Chủ nghĩa xã hội

HĐND

: Hội đồng nhân dân

TTHC

: Thủ tục hành chính

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật

KT-XH

: Kinh tế - xã hội


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Cải cách hành chính (CCHC) là vấn đề mang tính toàn cầu, thu hút sự quan
tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới. Các quốc gia luôn xem CCHC là một
trong những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển các
mặt đời sống xã hội, CCHC cũng là một nội dung cốt yếu để nâng cao chất
lượng, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng xác định CCHC là một
khâu quan trọng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
(XHCN), Đảng đã đề ra quan điểm, chủ trương và ban hành một số Nghị quyết
chuyên đề về (CCHC), đồng thời tập trung lãnh đạo và tổ chức thực hiện. Hội
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1995) đã ra Nghị
quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nhà nước, đã xác định mục tiêu
của CCHC là xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng
đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu qủa
công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục
vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật
trong xã hội [2]. Từ mục tiêu, Đảng đề ra chủ trương cải cách một bước nền hành
chính nhà nước đồng bộ trên các nội dung cơ bản, đảm bảo xây dựng một nền
hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Kế thừa và phát triển quan điểm, chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác CCHC qua các kỳ Đại hội và thực tiễn sau 20 năm đổi mới, Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X (2007) tiếp tục ban hành Nghị
quyết về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lí của bộ
máy nhà nước, nhằm tiếp tục xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch,
vững mạnh, từng bước hiện đại, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng
lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu


2


quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh
tế quốc tế, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước [6].
Quán triệt chủ trương của Đảng, Chính phủ đã tổ chức triển khai thực hiện
chương trình CCHC theo từng giai đoạn, với việc bám sát mục tiêu của Đảng đề
ra nhằm tiến hành CCHC toàn diện, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước
pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Qua quá trình thực hiện CCHC
từ năm 1995 đến năm 2015, nền hành chính nhà nước đã có sự chuyển biến tích
cực và đạt nhiều thành tựu to lớn, góp phần ồn định chính trị và thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội (KT - XH) của đất nước. Đề đạt được thành tựu đó, Thủ
tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn
2001-2010 theo Quyết định Số 136/2001/QĐ-TTG ngày 17-9-2001 và Chương
trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 theo Nghị quyết số
30c/NQ-CP của Chính phủ ban hành ngày 08-11-2011, thể hiện khâu đột phá,
then chốt trong thực hiện chủ trương đẩy mạnh CCHC của Đảng, để tạo tiền đề
làm chuyển động toàn bộ tình hình KT - XH và đưa đất nước hội nhập sâu rộng
trên các mặt của đời sống, để tiến vào kỷ nguyên mới.
Đường lối, chủ trương của Đảng về CCHC được các cấp ủy địa phương
quan tâm, chỉ đạo, trong đó có Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp. Chương trình hành
động số 09 ngày 19-7-1995 của Ban Chấp hành Bảng bộ tỉnh khoá V đã cụ thể
hóa chủ trương CCHC trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, xác định CCHC là nhiệm vụ
trọng tâm của việc xây dựng và tiến tới hoàn thiện nhà nước, do đó trong tổ chức
thực hiện cần tập trung các biện pháp đồng bộ và tiến hành thận trọng từng bước.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lần thứ VI (1996) xác định cải cách thủ
tục hành chính, tổ chức sắp xếp lại bộ máy hành chính các cấp, bố trí lại đội ngũ
công chức hành chính và cán bộ trực tiếp quản lý doanh nghiệp là nội dung trọng
tâm của quá trình đổi mới. Đến Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng
Tháp VII (2001) và các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh tiếp theo, tiếp tục xem CCHC là
nội dung trọng tâm việc hoàn thiện nền hành chính nhà nước, phát huy dân chủ
gắn liền với xây dựng và chỉnh đốn Đảng.



3

Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp thực hiện CCHC, đã góp
phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển KT - XH của địa phương.
Tổ chức bộ máy hành chính từ tỉnh xuống đến huyện và xã căn bản được cải
thiện theo hướng tinh gọn, hiệu quả và hiện đại, các sở, ban ngành và cơ quan
chuyên môn của tỉnh được sắp xếp, điều chỉnh tinh giản hơn trước, phát huy tác
dụng, hiệu quả tốt hơn và việc quản lý sử dụng cán bộ công chức được đổi mới
một bước từ khâu tuyển chọn, đánh giá, thi nâng ngạch, khen thưởng, kỷ luật đến
đào tạo và bồi dưỡng. Tuy nhiên, CCHC của tỉnh Đồng Tháp vẫn còn tồn tại hạn
chế và bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao, yêu cầu phục vụ nhân dân
chưa đáp ứng được trong điều kiện, bối cảnh mới. Quản lý bộ máy với sự phân
công, phân cấp giữa các cấp, các ngành chưa thực sự rành mạch, thủ tục hành
chính một số lĩnh vực vẫn còn rườm rà, phức tạp, trật tự và kỷ cương trong nền
hành chính chưa nghiêm. Công tác điều hành tổ chức bộ máy vẫn còn cồng kềnh,
nhiều cấp, đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều điểm yếu về tinh thần trách
nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng hành chính cũng như phong cách làm việc
trong quá trình CCHC của tỉnh.
Việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo CCHC của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp
nhằm làm sáng tỏ tính đúng đắn, sáng tạo và những thành công trong việc vận
dụng chủ trương của Đảng về CCHC, qua đó chỉ ra những hạn chế để góp phần
tổng kết thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm có giá trị về lãnh đạo CCHC của Đảng
bộ trong những năm tiếp theo là một việc làm cần thiết.
Xuất phát từ lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Đồng
Tháp lãnh đạo cải cách hành chính từ năm 1995 đến năm 2015” làm luận án
tiến sĩ Lịch sử, ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lãnh đạo CCHC từ năm 1995 đến
năm 2015, đúc kết một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo góp phần nâng cao hiệu
quả lãnh đạo CCHC của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay.


4

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát những nghiên cứu liên quan, chỉ ra những vấn đề đã được giải
quyết, những nội dung luận án tập trung nghiên cứu.
- Làm rõ các yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp
về CCHC.
- Phân tích chủ trương và chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp về CCHC
từ năm 1995 đến năm 2015.
- Đánh giá ưu điểm, hạn chế và đúc kết một số kinh nghiệm có giá trị tham
khảo trong quá trình Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lãnh đạo CCHC.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp về cải cách hành chính từ
năm 1995 đến năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu từ năm 1995 đến năm
2015. Luận án lấy mốc thời gian từ năm 1995 là năm Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
Đồng Tháp khoá V ban hành Chương trình hành động số 09/CTr/TU thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách
một bước nền hành chính nhà nước, kết thúc năm 2015 là năm tổng kết giai đoạn I
của Kế hoạch CCHC tỉnh Đồng Tháp giai đoạn 2011 - 2020 và năm kết thúc nhiệm
kỳ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp lần thứ IX.


Về không gian: Luận án nghiên cứu CCHC trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.
Về nội dung: Luận án nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Đồng Tháp về CCHC từ năm 1995 đến năm 2015, trên các lĩnh vực cụ thể sau:
thể chế hành chính; thủ tục hành chính; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức; tổ chức bộ máy hành chính; tài chính công, hiện đại hoá nền
hành chính và công tác thông tin, tuyên truyền CCHC.


5

4. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước pháp
quyền XHCN và những vấn đề liên quan tới hoạt động của bộ máy hành chính
nhà nước.
4.2. Nguồn tư liệu
Tư liệu được sử dụng chủ yếu dựa vào các Văn kiện của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước; Văn kiện của Đảng bộ, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh,
Hội đồng nhân dân (HĐND); các sở, ban, ngành về công tác CCHC của tỉnh
Đồng Tháp.
Kế thừa kết quả nghiên cứu các công trình khoa học có liên quan đến chủ
đề nghiên cứu.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp liên ngành khác như: phương pháp phân
tích, tổng hợp, đồng đại, lịch đại, so sánh và thống kê.
Phương pháp lịch sử được sử dụng thông qua khảo cứu tổng quan các
nguồn tư liệu để phục dựng đầy đủ các sự kiện kiện lịch sử phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, đồng thời đặt quá trình phát triển đó trong mối

quan hệ tác động qua lại với các nhân tố liên quan khác trong suốt quá trình vận
động của chúng, từ đó có thể dựng lại bức tranh chân thực quá trình lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp về CCHC theo tiến trình lịch sử.
Phương pháp lôgíc được dùng để làm rõ mối liên hệ giữa các quan điểm,
chủ trương với quá trình chỉ đạo thực hiện, những kết quả đạt được. Từ đó, khái
quát những ưu điểm, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng
bộ tỉnh Đồng Tháp lãnh đạo CCHC từ năm 1995 đến năm 2015.
Các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thông kế, so sánh, đồng
đại và lịch đại nhằm làm sáng tỏ hơn những vấn đề mà luận án đặt ra.


6

5. Những đóng góp mới của luận án
5.1. Đóng góp về khoa học
Luận án hệ thống hóa các chủ trương, quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng
bộ tỉnh Đồng Tháp về CCHC, góp phần làm rõ và phong phú thêm những vấn đề
lý luận về CCHC ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhấp
quốc tế.
Luận án cung cấp nguồn tư liệu về lãnh đạo CCHC ở địa phương, góp phần
làm phong phú lịch sử Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp.
Luận án cung cấp những luận cứ khoa học, một số kinh nghiệm có thể vận
dụng vào thực tiễn CCHC ở tỉnh Đồng Tháp cũng như một số tỉnh có điều kiện
tương đồng trong giai đoạn tiếp theo.
5.2. Đóng góp về thực tiễn
Luận án góp phần tổng kết hoạt động lãnh đạo của Đảng về CCHC thông
qua một Đảng bộ ở địa phương là Đồng Tháp.
Luận án có thể dùng làm tài liệu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập
tại các cơ sở đào tạo ở tỉnh Đồng Tháp và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
6. Bố cục luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
luận án được kết cấu thành 4 chương, 8 tiết.


7

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Quá trình khảo cứu các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án, có
thể chia các công trình liên quan đến nền hành chính nhà nước, công tác CCHC
nói chung và vấn đề CCHC ở tỉnh Đồng Tháp như sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nƣớc, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
Từ khi ra đời, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được lịch
sử cách mạng và xã hội thừa nhận như một tất yếu lịch sử. Đảng là lực lượng
lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo Đảng luôn luôn đổi mới tư duy và phương
thức lãnh đạo đối với việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN.
Vì vậy, đây là vấn đề luôn được các nhà lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước và
các nhà khoa học tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và tìm tòi nghiên cứu để cho ra
đời rất nhiều công trình khoa học, sách chuyên khảo phục vụ cho chuyên môn và
là nguồn tư liệu quý giá cho thế hệ sau:
Cuốn sách Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân [114] của Trần Hậu Thành
(2005), tác giả đã làm rõ thêm về cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam và trên cơ sở khảo sát một số mô hình thực tiễn

xây dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới, đề xuất một số phương hướng, nội
dung cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Trong nội dung cuốn sách tác giả cũng phân tích về sự
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội, trong đó tác
giả đã đề cập khá mới về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ và
đối với UBND cấc cấp, bên cạnh đó cuốn sách đề cập khá sâu sắc về vấn đề xây
dựng đội ngũ cán bộ công chức và đánh giá khá toàn diện về cán bộ công chức là


8

một mấu chốt để phục vụ cho xây dựng chính quyền thông suốt từ trung ương tới
địa phương. Có thể nói cuốn sách đã cung cấp được những chỉ dẫn về mặt lý
luận về mặt lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và đánh giá được vai trò của
đội ngũ cán bộ công chức, tuy cuốn sách không đề cập tới vấn đề cải cách hành
chính, nhưng những chỉ dẫn về mặt chính quyền là một nguồn tư liệu tốt và đáng
tin cậy.
Tác giả Lê Duy Truy (2006) với cuốn sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với xây
dựng nhà nước và công tác cán bộ [93], là nguồn tư liệu được tổng hợp trên cơ
sở những quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
pháp quyền, về công tác cán bộ... Trong đó, những bài viết, những quyết định
của Người về quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền có giá trị về mặt
lý luận và thực tiễn cho tới ngày hôm nay. Vấn đề nổi bật được tác giả chọn lọc
là vấn đề chính quyền địa phương, với việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành
những sắc lệnh, những chỉ thị trong xây dựng một nền hành chính ở địa phương
thông suốt với Trung ương. Có thể thấy rằng cuốn sách đã là nguồn tư liệu có giá
trị tư tưởng lý luận chỉ đạo sâu sắc của Hồ Chí Minh về công tác xây dựng nhà
nước pháp quyền nói chung và quản lý nền hành chính địa phương nói riêng.
Tác giả Nguyễn Văn Thảo (2006), Xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự
lãnh đạo của Đảng [91], cuốn sách là tập hợp đầy đủ và rõ nét về quá trình lãnh

đạo của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, cuốn sách
tập trung khai thác từ lịch sử xây dựng nhà nước pháp quyền từ năm 1945 tời
2005, trong đó chú trọng trình bày quan điểm của Đảng lãnh đạo trong công
cuộc đổi mới Nhà nước pháp quyền, trọng tâm là lãnh đạo đổi mới bộ máy lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Về lãnh đạo CCHC thì tập trung đi sâu vào các vấn
đề cải cách và xây dựng thể chế hành chính là hạt nhân của xây dựng nhà nước
pháp quyền, tập trung phân tích vấn đề phân cấp, phân quyền, phi tập trung hóa
nền hành chính nước ta, xác định phân cấp cho chính quyền địa phương trong
điều kiện mới. Cuốn sách đã có phân tích khá sâu về dịch vụ công và vai trò
quản lý của nhà nước, khai thác những thành tựu của quá trình lãnh đạo công tác
cải cách thủ tục hành chính, vấn đề đánh giá, đào tạo kỹ năng


9

cho công chức hành chính, tổng kết và đề ra được một số giải pháp trong công
tác CCHC.
Phạm Ngọc Quang - Ngô Kim Ngân (2007) với cuốn sách Phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân do dân vì dân [83], đã trình bày rõ quá trình đổi mới nhận
thức của Đảng về vai trò lãnh đạo và ý thức lãnh đạo trong thời kỳ mới. Trong
đó, đã nêu bật tính cấp thiết đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải được
tiến hành khẩn trương, kiên quyết, không cứng nhắc, máy móc trong sự phân
định giữa sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý của Nhà nước, song phải phân
định rõ chức năng lãnh đạo chính trị, phương thức lãnh đạo chính trị của Đảng
với chức năng quản lý của Nhà nước pháp quyền.
Cuốn sách Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới [42] của
Bùi Kim Đỉnh (2009), tác giả đã làm rõ thêm quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội từ năm 1986 tới năm 2008, với những bước phát triển, những thành

tựu, hạn chế và kinh nghiệm. Đồng thời cuốn sách đã hệ thống những thành quả
nghiên cứu đã được công bố về những yếu tố tác động và quá trình hình thành
đường lối đổi mới ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế, tự đổi mới, tự chỉnh đốn - nhìn từ góc độ lịch sử, đổi mới
nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hôi ở Việt Nam và đổi mới hệ thống
chính trị, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, phát huy dân chủ, xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Trong đó cuốn sách đã hệ thống
lại quá trình lãnh đạo của Đảng về công tác CCHC của Chính phủ đã đạt được
những thành tựu cũng như nêu lên được hạn chế yếu kém và rút ra một số bài
học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo công tác cải cách hành chính.
Đoàn Minh Huấn (2010) với cuốn sách Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
xây dựng củng cố nhà nước (1986-1996)[65], tác giả đã hệ thống quá trình đổi
mới tư duy nhận thức của Đảng về Nhà nước, từ phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước ta, từ nguyên lý tổ chức và hoạt động, cơ chế vận hành, xây
dựng các cơ sở KT-XH của Nhà nước, cũng như quá trình tổ chức chỉ đạo thực


10

tiễn với tính phong phú, sinh động của nó. Đặc biệt, qua nghiên cứu lịch sử, cuốn
sách bước đầu đã tổng kết những thành tựu, hạn chế và rút ra một số kinh
nghiệm cần thiết cho hiện tại để góp phần phục vụ cho công tác cải cách bộ máy
nhà nước nói chung và cải cách nền hành chính nói riêng.
Nhà nước cách mạng Việt Nam (1945 – 2010) [77] của Nguyễn Trọng Phúc
(2010), cuốn sách được bổ sung trên cơ sở cuốn sách Nhà nước cách mạng kiểu
mới Việt Nam (1945-2005). Nội dung trình bày về con đường dẫn đến thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thiết lập Nhà nước cách mạng kiểu mới ở
Việt Nam và các thời kỳ xây dựng và phát triển Nhà nước gắn liền với tiến trình
cách mạng của Đảng và dân tộc, một số chuyên đề của cuốn sách bước đầu góp
phần làm rõ một số vấn đề về xây dựng và bảo vệ Nhà nước trong tiến trình cách

mạng. Cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích cho việc nghiên cứu lịch sử cách
mạng Việt Nam nói chung, lịch sử Nhà nước cách mạng và những vấn đề xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Ngoài những công trình cụ thể nêu trên, còn rất nhiều công trình nghiên
cứu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học về xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, về đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, như:
Đổi mới để tiến lên của Nguyễn Văn Linh (1988) [69]; Mấy vấn đề về nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Trường Chinh, (1991) [15]; Đỗ
Mười (1991) với cuốn sách Xây dựng nhà nước của nhân dân - thành tựu, kinh
nghiệm và đổi mới [70]; Trần Ngọc Đường (1999), Bộ máy Nhà nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam [44]; Nguyễn Trọng Phúc và Hồ Xuân Quang (1998), Một số
quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước XHCN
của dân, do dân, vì dân từ 1986 đến nay [78]; Nguyễn Đặng Dung (2004), Thể
chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền [19]; Bùi Xuân Đức (2007), Đổi mới,
hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay [41]; Phạm Thái Việt
(2008), Vấn đề điều chỉnh chức năng và thể chế của nhà nước dưới tác động của
toàn cầu hóa [171]; Tào Thị Quyên (2012), Cơ chế bảo vệ Hiến pháp trong Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam [85]. Các công trình trên, đã làm nổi bật quá


11

trình hình thành và phát triển quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, những đổi mới trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, kết quả từ sự lãnh đạo của Đảng đã được tổng kết, bước đầu rút ra một số
kinh nghiệm và bài học lịch sử. Trong một chừng mực nhất định, đã tổng kết quá
trình hình thành và phát triển của nền hành chính nhà nước Việt Nam mà mỗi
giai đoạn có những đặc điểm riêng, tuy không nghiên cứu riêng về nền hành
chính nhưng những quan điểm cơ bản được trình bày trong các tác phẩm này có

giá trị, trở thành định hướng để mở rộng nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng đối
với từng cơ quan bộ máy nhà nước, mà ở đó nền hành chính bao giờ cũng chiếm
vị trí nổi bật. Tuy không nghiên cứu trực diện về đổi mới lãnh đạo nền hành
chính ở địa phương, nhưng các luận cứ khoa học về chủ trương của Đảng, chính
sách nhà nước được vận dụng linh hoạt góp phần thành công cho công tác lãnh
đạo nền hành chính địa phương.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về nền hành
chính, sự lãnh đạo của Đảng đối với nền hành chính nhà nƣớc và cải cách
hành chính
Nền hành chính nhà nước là bộ phận rất quan trọng trong cơ cấu nhà nước,
là hệ thống bao gồm những yếu tố về thể chế, tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực và
các phương tiện vật chất, kỹ thuật cần thiết để đảm nhận chức năng thực thi
quyền hành pháp. Việc nghiên cứu lý luận, thực tiễn và tổng kết đánh giá kết quả
lĩnh vực hành chính nhà nước, nhất là tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng
trong công cuộc cải cách tổng thể nền hành chính của Việt Nam đã và đang thực
hiện là một yêu cầu tất yếu của lịch sử. Vì vậy, có rất nhiều công trình khoa học,
sách, tạp chí của các nhà quản lý, nhà nghiên cứu cho ra đời các tác phẩm để góp
phần làm sáng tỏ thêm về vấn đề này.
Tác giả Nguyễn Ngọc Hiến (2001) với cuốn sách Các giải pháp thúc đẩy
cải cách hành chính ở Việt Nam [59], đã tổng hợp và phân tích một cách khách
quan tiến trình CCHC của nước ta sau 20 năm đổi mới, từ đó nêu ra những thành
tựu, những mặt hạn chế và thiếu sót và nguyên nhân cản trở đối với tiến trình
nay, đồng thời đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình tiến


12

hành CCHC. Trong đo, cuốn sách đã dành một chương để bàn về đẩy mạnh
CCHC ở địa phương và cơ sở, nêu lên những vấn đề bức xúc trong CCHC ở địa
phương và đề ra các giải pháp đẩy mạnh CCHC ở địa phương và cơ sở hiện nay.

Từ Điển (2001) với cuốn sách Cải cách hành chính và cải cách kinh tế
[43], nội dung cuốn sách đánh giá khá chân thực mối quan hệ giữa CCHC và cải
cách kinh tế là một quá trình lâu dài với nhiều vấn đề mới và phức tạp, là sự tác
động một cách biện chứng với nhau. Tác giả cũng tập trung trình bày về vị trí,
vai trò của CCHC và cải cách kinh tế trong giai đoạn hiện nay cũng như chiến
lược và những vấn đề thực thi của CCHC trong những năm trước mắt. Nhìn nhận
vấn đề khách quan thông qua nội dung cuốn sách, chúng ta có thể có cách nhìn
cụ thể của công tác CCHC ở Đồng Tháp trong xu thế đổi mới kinh tế của Tỉnh.
Trung tâm nghiên cứu khoa học tổ chức quản lý (2004), Cải cách hành
chính vấn đề cấp thiết để đổi mới bộ máy nhà nước [105], cuốn sách là tập hợp
những bài viết, ý kiến là lãnh đạo của các cơ quan Trung ương, những nhà
nghiên cứu về đổi mới và cải cách về nền hành chính nhà nước. Nội dung cuốn
sách đã hệ thống quan điểm, lý luận và thực tiễn về công tác CCHC của Đảng và
Nhà nước ta từ sau đổi mới đến nay, với việc tập trung nghiên cứu các chủ
trương, đường lối của Đảng về CCHC; những phân tích về thực trạng, giải pháp
và những vấn đề về văn bản pháp luật liên quan đến quá trình tiến hành CCHC.
Nguyễn Anh Tuấn (2004), Ứng dụng logíc hình thức trong quản lý hành
chính nhà nước [88], cuốn sách là công trình nghiên cứu liên ngành khoa học, sự
kết hợp giao thoa giữa các khoa học, các miền trí thức còn hạn chế và chỉ có thể
được khai phá trên sự liên minh các cơ sở khoa học với nhau, cuốn sách chính là
sự biểu hiện của sự hợp tác giữa logic học, hành chính học, luật học trong việc
nghiên cứu hỗ trợ CCHC. Sự đề cập một cách khoa học để nâng cao hiệu quả
hiệu lực của quản lý hành chính nhà nước đòi hỏi phải cải cách sâu rộng toàn bộ
hệ thống hành chính nói chung và từng khâu của tiến trình quản lý hành chính
nói riêng. Nghiên cứu những điều kiện đảm bảo cho một tư duy logic đúng đắn,
khoa học chỉ đạo có hiệu quả hoạt động thực tiễn quản lý nhà nước không chỉ có
tư duy hình thức mà còn có cả tư duy biện chứng là một nhu cầu thiết thực.


13


Cuốn sách Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn [115] của Chu Văn Thành (2004), là tập hợp một số chuyên luận,
những bài nghiên cứu được công bố về vấn đề dịch vụ công và xã hội hóa dịch
vụ công trong quá trình nghiên cứu về quá trình lãnh đạo tiến hành cải cách nền
hành chính nhà nước của Đảng và Chính phủ Việt Nam. Cuốn sách đã đề cập
một góc nhìn mới về khái niệm “hành chính công” cung như bàn về chức năng
dịch vụ công của bộ máy quản lý hành chính nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa
dịch vụ công là một xu hướng của nền hành chính hiện đại, phù hợp với tình
hình và nhiệm vụ mới của đất nước. Bên cạnh đó, cuốn sách đã cung cấp những
mãng lý luận và thực tiễn về dịch vụ công, một số vấn đề xã hội hóa dịch vụ
công ở Việt Nam, qua đó cuốn sách cũng đã đề cập đến một số vấn đề thực tiễn
và kinh nghiệm của một số địa phương ở Việt Nam và một số quốc gia trên thế
giới trong việc cung ứng dịch vụ công.
Học viện Hành chính quốc gia (2006) với cuốn sách Hành chính công [53],
đề cập đến những vấn đề cơ bản của khoa học hành chính công, nội dung bắt đầu
từ những kiến thức cơ bản về hành chính công dưới góc độ khoa học và thực tiễn
và tiếp nối bằng những nội dung cơ bản nhất như thuật ngữ, khái niệm cho đến
chức năng hành chính, thể chế hành chính, tài chính công … và kết thúc ở nội
dung CCHC - một nội dung thời sự hiện nay trong khoa học hành chính công ở
nước ta. Tiếp cận cuốn sách đã cung cấp một cách khá đầy đủ những quy luật
vận hành khách quan trong hoạt động quản lý của bộ máy hành chính nhà nước,
trong đó nội dung CCHC được đề cập dưới góc độ tổng kết và đánh giá thực
trạng và đề ra một số giải pháp cho công tác CCHC nhà nước Việt Nam hiện
nay.
Đào Trọng Truyến (2006) với cuốn sách Cải cách hành chính và công cuộc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam [90], tác giả tổng hợp,
bàn luận về nhà nước pháp quyền, về nền hành chính trên cơ sở học thuyết Mác - Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giá sâu sắc về nền hành chính từ thời kỳ phong
kiến Việt Nam. Có cách nhìn độc lập về nền hành chính nước ta, thẳng thắn đánh

giá thực trạng của nó ở thời điểm, đồng thời đề xuất mô hình một nền hành


14

chính tương lai. Cuốn sách đã hệ thống hóa lý luận về xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền, về những mục tiêu và nội dung của CCHC quốc gia, nêu
nổi bật quan điểm, nguyên tắc và phương hướng của CCHC, xem đây là trọng
tâm của công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước. Một phần quan trọng tác
giả đề cập đến đó là vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước của các cấp
chính quyền địa phương, hướng cơ bản của công cuộc CCHC nhà nước ở địa
phương, xem trong mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương trong công tác CCHC.
Nguyễn Hữu Tri, Nguyễn Lan Phương (2006) với cuốn sách Hành Chính
Công [92] tác giả đã tiếp cận một cách khoa học về hành chính công, trên cơ sở
hai tác giả đã đề cập đến các khái luận về hành chính nhà nước, công vụ, công
chức, các quyết định hành chính và thủ tục hành chính và nhất là vấn đề cải cách
nền hành chính nhà nước. Cuốn sách đã nêu lên sự cần thiết khách quan của
CCHC ở Việt Nam cũng như việc quán triệt quan điểm chỉ đạo cải cách nền hành
chính nhà nước, qua đó cuốn sách cũng đã đề cập đến nội dung và giải pháp để
đẩy mạnh CCHC ở Việt Nam hiện nay. Đây là nguồn tư liệu có giá trị tổng quan,
cung cấp vấn đề cơ sở lý luận về sự lãnh chỉ đạo công tác CCHC Việt Nam hiện
nay.
Viện nghiên cứu khoa học hành chính (2009) với cuốn sách Thuật ngữ
hành chính [172], là tập hợp những nghiên cứu về khái niệm thuật ngữ như:
“Chính quyền địa phương” là thuật ngữ được sử dụng khi nói đến một hệ thống
các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước trên một đơn vị hành chính nhằm
quản lý mọi mặt của đười song xã hội trên địa bàn và làm nghĩa vụ chung với cả
nước [172, tr.40], qua đó, cuốn sách nêu ra các yếu tố của chính quyền địa
phương ở Việt Nam được xem là một đơn vị hành chính lãnh thổ phải đủ 3 yếu

tố: Hội đồng nhân dân do nhân dân địa phương bầu ra; Ủy ban nhân dân do
HĐND bầu ra; có ngân sách địa phương. Cuốn sách còn đề cập đến khái niệm về
thuật ngữ “Cải cách hành chính” (Administrative reform) là “quá trình cải biến
có kế hoạch cụ thể để đạt mục tiêu hoàn thiện một hay một số nội dung của nền
hành chính nhà nước (như thể chế, cơ câu tổ chức, cơ cấu vận hành,


15

chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức…) nhằm xây dựng nền hành chính hiệu
lực, hiệu quả và hiện đại” [172, tr.23]. Cuốn sách của các nhà khoa học được cho
là thỏa đáng, nhằm mục đích cung cấp cho các nhà nghiên cứu cũng như nhà
quản lý hành chính nhà nước những tài liệu cơ bản của khoa học hành chính, làm
căn cứ bước đầu cho sự thống nhất quan điểm, quan niệm trong nghiên cứu lý
luận khoa học hành chính cũng như trong quá trình xây dựng các văn bản quản
lý nhà nước, phục vụ cho công cuộc CCHC ở Việt Nam hiện nay.
Trần Đình Thắng (2011) với cuốn sách Đảng Cộng sản Việt Nam với việc
cải cách nền hành chính nhà nước [116], tác giả đã phân tích, luận giải có căn cứ
khoa học trên cả phương diện lý luận và thực tiễn để làm rõ yêu cầu tất yếu
khách quan của Đảng lãnh đạo cải cách, xây dựng nền hành chính n hà nước
trong công cuộc đổi mới. Tác giả phân tích, khái quát và hệ thống hóa chuyên
sâu các quan điểm, chủ trương và quá trình lãnh đạo thực hiện chủ trương của
Đảng về cải cách, xây dựng nền hành chính nhà nước trong sự nghiệp đổi mới
đất nước; đánh giá khách quan, có cơ sở khoa học về kết quả lãnh đạo và rút ra
một số kinh nghiệm chủ yếu trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cải cách, xây dựng
nền hành chính trong thời kỳ mới. Qua đó, khẳng định sự phát triển về tư duy lý
luận và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn của Đảng đối với xây dựng nền hành
chính nhà nước dân chủ, hiện đại trong công cuộc đổi mới đât nước - nhiệm vụ
trọng tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Cuốn sách đã cung
cấp cơ bản về mặt lý luận và thực tiễn của Đảng lãnh đạo nền hành chính nhà

nước từ năm 1986 đến năm 2010, đây là nguồn tư liệu hết sức quan trọng để
cung cấp cho luận án về mặt lý luận chung về đường lối, chủ trường và quá trình
chỉ đạo của Đảng.
Nguyễn Hữu Hải (2013) với cuốn sách Tìm hiểu hành chính công Hoa Kỳ
lý thuyết và thực tiễn [55], tác giả đã cung cấp cách nhìn tổng quan lịch sử phát
triển của khoa học hành chính công Hoa Kỳ qua các thời kỳ, với nhận thức rằng
Hoa Kỳ vừa là cái nôi, vừa là mảnh đất giàu thực tiễn cho ngành khoa học về
quản lý của chính phủ. Với nội dung là các chủ đề về lý thuyết hành chính công,


16

mối quan hệ giữa hành chính và chính trị, lý thuyết về tổ chức, quản lý nguồn
nhân lực, quá trình ngân sách công, quản lý công…, thực thi và đánh giá chương
trình, mối quan hệ liên chính quyền, đạo đức hành chính và quản lý công mới.
Có thể thấy rằng cuốn sách đã mô tả phần lý thuyết khá sâu sắc về một nền hành
chính công tiên tiến nhất thế giới hiện nay, nó có thể được vận dụng lý thuyết
này vào trong thực tiễn công cuộc CCHC mà Đảng và Chính phủ Việt Nam đang
tiến hành trong quá trình đổi mới đất nước, trở thành nguồn tư liệu cả về lý
thuyết và thực tiễn cho các nhà hoạch định chính sách cũng như nhà nghiên cứu
về CCHC của chúng ta.
Nguyễn Hữu Hải (2014) với cuốn sách Cơ sở lý luận và thực tiễn về hành
chính nhà nước [56], tác giả trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng, học thuyết về
hành chính đang được phổ biến rộng rãi ở trong và ngoài nước, tập trung và cung
cấp những kiến thức cơ bản của khoa học hành chính nói chung và hành chính
nhà nước nói riêng về các khái niệm cơ bản, đặc điểm, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của hành chính nhà nước; các lý thuyết và mô hình hành chính nhà
nước; các yếu tố cấu thành nền hành chính nhà nước và quyết định hành chính
nhà nước; chức năng, hình thức và phương pháp hành chính nhà nước; kiểm soát
bên ngoài và kiểm soát nội bộ đối với hành chính nhà nước; các giải pháp nâng

cao hiệu lực, hiệu quả nền hành chính và công tác CCHC nhà nước hiện hành,
nhất là vận dụng cơ sở lý luận này vào công tác CCHC ở Việt Nam hiện nay.
Nguyễn Hữu Hải (2016) với cuốn sách Cải cách hành chính nhà nước lý
luận và thực tiễn [57], tác giả đã trình bày một cách khái quát các vấn đề quyền
hành pháp và các cách tiếp cận về hành chính nhà nước, các mô hình hành chính
nhà nước và xu hướng CCHC trên thế giới, nổi bật các vấn đề là CCHC nhà
nước Việt Nam qua các thời kỳ từ năm 1945 tới nay. Trong đó nội dung về quá
trình CCHC Việt Nam từ khi đổi mới đến nay được các tác giả phân tích, đánh
giá một cách sâu sắc về lý luận và thực tiễn thực hiện trên các mặt như: cải cách
thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; xây dựng nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính


17

công; hiện đại hóa nền hành chính…, luận giải của tác giả đã góp phần để các
nhà hoạch định nhà nước nghiên cứu về chương trình cải cách tổng thể nền hành
chính nhà nước mà Đang ta đã tiên hành.
Đoàn Duy Khương (2016) với cuốn sách Cải cách hành chính công phục
vụ phát triển kinh tế cải thiện môi trường kinh doanh [67], tác giả không chỉ
phân tích quá trình CCHC ở một số quốc gia trong khu vực ASEAN và nhân
định về xu hướng CCHC trong khu vực, mà còn đưa ra bức tranh về quá trình
CCHC công tại Việt Nam, trong đó đặc biệt nhấn mạnh những thay đổi của
CCHC gắn với cải thiện môi trường kinh doanh, sự ghi nhận của một số tổ chức
quốc tế đối với quá trình CCHC ở Việt Nam, từ đó đúc rút một số kinh nghiệm
và khuyến nghị cho công tác CCHC. Từ cuốn sách, đã cho ta cách nhìn khách
quan về sự vận dụng giữa công tác CCHC gắn chặt với cải cách kinh tế.
Cuốn sách Vấn đề minh bạch hóa hoạt động quản lý hành chính nhà nước
ở Việt Nam hiện nay [80] của Nguyễn Thị Phương (2016), tác giả đã khai thác
khá sâu sác khía cạnh minh bạch hóa hoạt động quản lý nhà nước nói chung,

quản lý nền hành chính nhà nước nói riêng là hoạt động nhằm bảo đảm tính dân
chủ xã hội, thể hiện quyền của người dân trong việc tham gia quản lý hành chính
nhà nước. Điều này thể hiện ở chổ, việc minh bạch hóa hoạt động quản lý hành
chính nhà nước sẽ giúp cho công tác hoạch định chính sách, phân bổ và quản lý
đối với các nguồn lực xã hội đạt kết quả cao, tạo điều kiện cho người dân có
quyền tiếp cận, giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị hành chính nhà
nước. Cuốn sách đã nêu bật được những chủ trương, chính sách của Đảng, Chính
phủ trong việc hiện thực hóa minh bạch trong nên hành chính trong chủ trương
và hành động của mình thông qua các nghỉ quyết chuyên đề về đẩy mạnh CCHC,
qua đó cũng đã chỉ ra vấn đề thiếu minh bạch, công khai trong hoạt động quản lý
hành chính nhà nước xuất phát từ những lý do như về mặt pháp lý, hay chia sẻ
thông tin, phương thức thực hiện hiện, sự thông suốt trong chỉ đạo điều hành.
Các nghiên cứu lĩnh vực hành chính, CCHC dưới góc độ chuyên khảo, luận
án, luận văn và các bài viết công bố trên tạp chí trong nước như:


18

Lê Hữu Hiền (1997) với bài viết “Mấy vấn đề bất cập trong cải cách hành
chính ở cấp tỉnh hiện nay” [60], tác giả nêu lên công tác nêu lên cấp tỉnh là cấp
có nhiều văn bản, quyết định về mặt thủ tục hành chính ở tầm vĩ mô, nhằm định
ra những chính sách, chiến lược phát triển KT - XH, an ninh quốc phòng trên địa
bàn tỉnh. Nhưng hiện nay có một số thực trạng phổ biến, một số công việc thuộc
thẩm quyền cấp sở, ngành giải quyết nhưng phải lại gủi xin ý kiến UBND tỉnh.
Từ đó việc giải quyết công việc giữa tổ chức và tổ chức, tổ chức với công dân
còn bị ùn tắc gây phiền hà lớn cho tổ chức và công dân. Qua đó, tác giả đã chỉ ra
những bất cập trong công tác CCHC ở cấp tỉnh hiện nay và đề ra một số kiến
nghị để tháo gỡ những vướng mắc đó.
Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng của Nguyễn Minh Sơn (2009), Thành ủy
Vĩnh Yên – tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo cải cách hành chính nhà nước trong giai đoạn

hiện nay [87], kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần giải quyết cả về lý luận
và thực tiễn cho các vấn đề đặt ra, làm rõ quan niệm, nhiệm vụ, đặc điểm công tác
CCHC của thành phố Vĩnh Yên và nội dung, phương thức lãnh đạo công tác CCHC
của Thành ủy. Đánh giá đúng thực trạng công tác CCHC và sự lãnh đạo công tác
CCHC của Thành ủy Vĩnh Yên hiện nay, chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng và rút ra
những kinh nghiệm bước đầu từ thực trạng đó. Đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Thành ủy đối với công tác CCHC
nhà nước trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn hiện nay.
Thông qua kết quả nghiên cứu nay, sự tương đồng về một số nội dung sẽ góp phần
trong việc đánh giá, so sánh về công tác CCHC của hai địa phương nhằm tạo được
sự đánh gia khách quan cho đề tài luận án.

Luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng của Nguyễn Hữu Nhân (2012), Thành Ủy
thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay
[75], trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Thành ủy thành phố
Hồ Chí Minh lãnh đạo CCHC nhà nước trên địa bàn thành phố trong thời gian
qua, làm rõ phương thức lãnh đạo của Thành ủy thành phố đối với công tác
CCHC, luân án đề xuất những giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy
đối với CCHC nhà nước đến năm 2020. Thông qua nội dung luận án, chúng ta có


19

cách nhìn nhận so sánh, đối chiếu với công tác CCHC ở tỉnh Đồng Tháp để có
thể rút ra được đánh giá khách quan.
Luận án tiến sĩ Chỉ huy, quản lý kỷ thuật của Hoàng Minh Huệ (2014), Cải
cách hành chính trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở Bộ Công
an [63], kết quả nghiên cứu lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp đồng bộ, khả
thi về CCHC trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở Bộ Công an
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ ngành Công

an, trong đó tập trung vào các giải pháp để sử dụng có hiệu quả kinh phí đầu tư
và tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân tham gia công tác nghiên
cứu bằng nguồn ngân sách nhà nước. Xây dựng các khái niệm công cụ của luận
án để thống nhất nhận thức về CCHC trong quản lý nhà nước về khoa học và
công nghệ, đồng thời làm rõ các đặc điểm của quản lý nhà nước về khoa học và
công nghệ nói chung, các chủ trương của Đảng và Nhà nước về CCHC.
Ngoài những công trình nghiên cứu được nêu cụ thể như trên, thì còn rất
nhiều các công trình nghiên cứu có liên quan đến hành chính công, CCHC như:
Nguyễn Duy Gia (1996), Cải cách một bước bộ máy nhà nước ở nước ta hiện
nay [45]; Lê Sĩ Dược (2000), Cải cách bộ máy hành chính cấp Trung ương trong
công cuộc đổi mới nước ta hiện nay [23]; Thang Văn Phúc (2001), CCHC nhà
nước - thực trạng, nguyên nhân và giải pháp [79]; Trung tâm nghiên cứu khoa
học và tổ chức quán lý (2004), CCHC vấn đề cấp thiết để đổi mới bộ máy Nhà
nước [117]. Là nhóm công trình chiếm số lượng nhiều nhất, phần nào phác họa
quá trình đổi mới và phát triển nền hành chính nhà nước trong quá trình hội
nhập, tổ chức bộ máy, đội ngũ công chức trong xu thế của nền hành chính mới.
Những công trình này lại gián tiếp phản ánh sự vận động phát triển đường lối cải
cách, vận hành nền hành chính nhà nước.
Vì xuất phát từ gốc độ khoa học lịch sử, nên các công trình này chú trọng
tổng kết sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, lãnh đạo cải cách nền hành
chính là một bộ phận hợp thành. Những công trình nghiên cứu, những bài viết đã
đi sâu nghiên cứu vấn đề CCHC nói chung và những cải cách của hệ thống chính
trị, quyền lực nhà nước. Có thể nói, nhóm công trình trên là luận cứ khoa học sâu


20

sắc, góp phần hình thành cách nhìn khách quan, thế giới quan khoa học về nền
hành chính nhà nước. Tuy không thể là những dẫn chứng thực tế cụ thể cho đề
tài, nhưng sẽ là điều kiện cần thiết để tác giả nghiên cứu, mở ra cánh cửa đón

nhận những mảng lý luận và tìm tòi một cách sâu sắc để phục vụ cho nội dung
nghiên cứu đề tài này.
1.1.3. Các công trình về tỉnh Đồng Tháp có liên quan đến đề tài luận án
Hiện nay, chưa có công trình nào nghiên cứu trực diện về CCHC ở tỉnh
Đồng Tháp. Tuy nhiên, có nhiều công trình, đề cập về điều kiện tự nhiên, dân cư,
kinh tế, chính trị, xã hội của địa phương và đây cũng là nguồn tài liệu quý đối
với đề tài luận án, với những công trình cụ thể như sau:
Huỳnh Xuân Hiệp (2011), Xây dựng hệ thống thông tin quản lý hành chính
phục vụ lãnh đạo cấp huyện, tỉnh Đồng Tháp [61]. Đề tài phân tích đánh giá hiện
trạng và hệ thống lại các bộ chỉ tiêu và biểu mẫu của các đơn vị thí điểm. Nghiên
cứu giải pháp kỹ thuật xây dựng mô hình hệ thống thông tin, giải pháp khai thác
thông tin phục vụ điều hành quản lý hành chính. Phân tích và thiết kế hệ thống
thông tin, xây dựng phần mềm và trang bị máy chủ và cài đặt phần mềm cho hệ
thống quản lý. Tổ chức tập huấn, triển khai và đánh giá đơn vị thí điểm quy trình
quản lý số liệu và quy chế vận hành và quản lý hệ thống ở cấp huyện. Địa chí
tỉnh Đồng Tháp [9] của Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Đồng Tháp (2014), cuốn sách là
tập hợp hệ thống thông tin về một bức tranh tổng thể khái quát về mãnh đất
Đồng Tháp, con người, lịch sử, địa lý và KT-XH của tỉnh cho tới năm 2013.
Những thông tin, số liệu góp phần minh chứng cho công cuộc xây dựng chính
quyền của tỉnh một cách khách quan về số liệu. Tuy nhiên đây mới chỉ dừng lại
ở góc độ lịch sử địa chí và số liêu về KT-XH, nhưng không thể đề cập tới công
tác CCHC ở tỉnh như thế nào, quy trình và cách thức tiến hành ra sao.
Nguyễn Nam Hà (2013), Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam [54]. Cuốn
sách đã làm rõ được tính chất quan trọng của HĐND, vừa là cơ quan quyền lực
nhà nước ở địa phương, có vai trò quan trọng trong việc quyết định những vấn đề
trọng đại ở địa phương, giám sát các cơ quan nhà nước ở địa phương. Đặt



×