Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Tiểu luận môn tài chính tiền tệ hệ thống tiền tệ của các nước theo hệ thống đồng franc và vị thế của các đồng franc trên thị trường ngoại hối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 49 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA TÀI CHÍNH – THƯƠNG MẠI

BÀI TIỂU LUẬN
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài
HỆ THỐNG TIỀN TỆ CỦA CÁC NƯỚC THEO HỆ THỐNG
ĐỒNG FRANC VÀ VỊ THẾ CỦA CÁC ĐỒNG FRANC TRÊN THỊ
TRƯỜNG NGOẠI HỐI

Ngành:

TÀI CHÍNH - THƯƠNG MẠI

Chuyên ngành: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Giảng viên hướng dẫn:

TS.NGUYỄN THỊ CÚC HỒNG

Sinh viên thực hiện:

MSSV

Lớp

1. Nguyễn Thị Huyền Trang

19DTCB4

2. Hồ Thu Trang



19DTCB4

3. Nguyễn Quỳnh Như

19DTCB4

4. Nguyễn Nhật Uyên

19DTCB4

5. Mai Thị Ánh Tuyết

19DTCB4

TP. Hồ Chí Minh, 2020


DANH SÁCH NHÓM 2 - LỚP 19DTCB4 - CA 2 THỨ 2,4
PHÂN CÔNG

ĐÁNH
GIÁ

STT

HỌ VÀ TÊN

1


Nguyễn Thị Huyền Trang

Tìm hiểu đồng franc CFP, lời mở
đầu và lời kết, sửa lỗi.

10/10

2

Hồ Thu Trang

Tìm hiểu đồng franc Pháp và làm
word.

10/10

3

Nguyễn Quỳnh Như

Tìm hiểu đồng franc CFA và làm
powerpoint.

10/10

4

Nguyễn Nhật Uyên

Tìm hiểu đồng franc CHF và một số

đồng khác.

10/10

5

Mai Thị Ánh Tuyết

Lý thuyết về hệ thống tiền tệ và thị
trường ngoại hối.

10/10

1


2


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI

NHTW

Ngân hàng Trung Ương

NHTM


Ngân hàng Thương mại

ECB

Ngân hàng Trung ương Châu Âu

USD

Đô la Mỹ

GBP

Bảng Anh

FPF

Franc Pháp

JPY

Yên Nhật

DEM

Mác Đức

GDP

Tổng sản phẩm quốc gia


IFM

Quỹ tiền tệ Quốc tế

SNB

Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ

CEDEAO

Cộng đồng Kinh tế các nước Tây Phi

WAMU

Tám nước thuộc Liên minh Tiền tệ Tây Phi


DANH SÁCH CÁC BIỂU DỒ, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH

Hình 2-1 : Đồng Franc vàng đầu tiên năm 1360...........................................15
Hình 2-2 : Giá trị đồng Franc mới tính theo Euro (1960-2002) ..................21
Hình 2-3 : Đồng Bernese Rollbatzen ( Thế kỷ 15)........................................23
Hình 2-4 : Đồng Zũrich Taler (1768)............................................................23
Hình 2-5 : Đồng xu vàng 16 Franc đầu tiên của Cộng hòa Helvetic (1800)..27
Hình 2-6 : Tiền giấy 1000 franc đợt in thứ chín............................................28
Hình 2-7 : Tiền giấy 10 franc đợt in thứ chín................................................29
Hình 2-8 : Tỷ giá hối đoái CHF/USD từ tháng 3/2020-8/2020.....................32
Hình 2-9 : Tiền giấy 5000 F và 10000 F đầu tiên..........................................34


MỤC LỤC


CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG TIỀN TỆ VÀ THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
1.1

HỆ THỐNG TIỀN TỆ
Tổng quan về hệ thống tiền tệ

5

1.1.2

Quá trình phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế

7

1.1.2.1

Hệ thống bản vị vàng (gold standard)

7

1.1.2.2

Hệ thống Bretton Woods: 1945 – 1972

8

1.1.2.3


Hệ thống tiền tệ quốc tế hiện đại – chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt (Flexible Exchange Rate) :
9

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.2.1

9

Tổng quan về tỷ giá hối đoái

9

1.2.1.1

Khái niệm

9

1.2.1.2

Ý nghĩa kinh tế của tỷ giá hối đoái

9

1.2.1.3

Tác động của tỷ giá đến các quan hệ kinh tế quốc tế

1.2.2


1.3

5

1.1.1

từ 1973 đến nay

1.2

5

10

Chế độ tỷ giá hối đoái

10

1.2.2.1

Chế độ tỷ giá cố định

10

1.2.2.2

Chế độ tỷ giá thả nổi

11


1.2.2.3

Chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước

11

THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
1.3.1

12

Tổng quan về thị trường ngoại hối

12

1.3.1.1

Khái niệm

12

1.3.1.2

Đặc điểm của thị trường ngoại hối

12

1.3.1.3


Hàng hóa của thị trường hối đoái

13

1.3.2

Các thành phần tham gia

13

1.3.3

Vai trò của thị trường ngoại hối

14

1.3.3.1

Cân đối các nhu cầu mua bán ngoại tệ

14

1.3.3.2

Phòng chống rủi ro tỷ giá

14

1.3.3.3


Tạo ra thu nhập cho người sở hữu ngoại tệ

14

CHƯƠNG 2 HỆ THỐNG CÁC NƯỚC THEO HỆ THỐNG ĐỒNG FRANC VÀ VỊ THẾ CỦA CÁC ĐỒNG FRANC
TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
2.1

15

CỘNG HÒA PHÁP – ĐỒNG FRANC PHÁP

15

2.1.1

Tổng quan

15

2.1.2

Đồng franc Pháp qua các thời kỳ

15

2.1.2.1

Ra đời: năm 1360 đến 1641


15

2.1.2.2

Từ 1795 đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất

16

2.1.2.3

Chiến tranh thế giới thứ nhất

16

2


2.1.2.4

Chiến tranh thế giới thứ hai

16

2.1.2.5

Sau chiến tranh thế giới thứ hai đến 1999

17

2.1.3

2.2

22

2.2.1

Tổng quan

22

2.2.2

Đồng franc Thụy Sỹ qua các thời kỳ

23

2.2.2.1

Trước và trong thời kì Cộng hòa Helvetic

23

2.2.2.2

Franc của Liên minh Thụy Sĩ

23

2.2.2.3


Trong hai cuộc chiến tranh thế giới.

25

2.2.2.4

Những năm gần đây

26

Tiền xu và tiền giấy

26

2.2.3.1

Tiền xu

26

2.2.3.2

Tiền giấy

27

2.2.4

Vị thế franc Thụy Sỹ hiện nay trên thị trường ngoại hối


CFP FRANC

29
32

2.3.1

Tổng quan

32

2.3.2

Đồng franc Thái Bình Dương qua các thời kỳ

33

2.3.2.1

Ra đời năm 1945

33

2.3.2.2

Từ 1949 - nay

33

2.3.3

2.4

17

THỤY SĨ – CHF

2.2.3

2.3

Vị thế trên thị trường ngoại hối

Vị thế đồng CFP franc trên thị trường ngoại hối

CÁC ĐỒNG FRANC CFA

35
36

2.4.1

Tổng quan

36

2.4.2

Đồng Franc Châu Phi qua các thời kì

36


2.4.3

Vị thế của đồng Franc Châu Phi trên thị trường ngoại hối

38

CHƯƠNG 3 NHẬN XÉT-KIẾN NGHỊ

39

3.1

KẾT CHƯƠNG I

39

3.2

KẾT CHƯƠNG II

39

3.3

3.2.1

Đồng Franc Pháp

39


3.2.2

Đồng Franc Thụy Sĩ

40

3.2.3

Các đồng Franc khác

40

KẾT LUẬN

40

3


LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ ra đời và tồn tại dưới
nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế, đặc biệt là
hoạt động sản xuất, lưu thông và trao đổi hàng hóa. Nó có vai trò quan trọng thúc đẩy
quá trình sản xuất và phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi
toàn cầu, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường – nền kinh tế được tiền tệ hóa cao độ.
Cùng với sự phát triển năng động của nền kinh tế thị trường đã làm nảy sinh nhu cầu
thường xuyên và to lớn về nguồn tài chính để đầu tư và tạo lập vốn kinh doanh hoặc
đáp ứng nhu cầu trong xã hội. Kinh tế ngày càng phát triển thì quan hệ cung cầu
nguồn tài chính ngày càng tăng.

Dựa theo nghiên cứu của Marx-Lenin về lịch sử và bản chất của tiền tệ: “Tiền
là loại hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật ngang giá
chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và biểu hiện
quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.” Vì vậy, mỗi quốc gia hay mỗi khu vực
đều có một đồng tiền đại diện riêng. Đồng Franc từ khi xuất hiện đến nay đã đóng một
vai trò rất quan trọng trong thị trường tiền tệ của khu vực và cả thế giới. Vậy tại sao lại
nói đồng Franc có vai trò quan trọng trong thị trường ngoại hối? Để hiểu rõ hơn Nhóm
2 đã có bài nghiên cứu về đề tài :” Hệ thống tiền tệ của các nước theo hệ thống đồng
Franc và vị thế của các đồng Franc trên thị trường ngoại hối” nhằm mục đích có thể đi
sâu vào nghiên cứu về lịch sử hình thành, quá trình phát triển và vị thế của nó trong thị
trường ngoại hối.

4


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG TIỀN TỆ VÀ
THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI

1.1 HỆ THỐNG TIỀN TỆ
1.1.1 Tổng quan về hệ thống tiền tệ
Tiền tệ ra đời như là một tất yếu của hoạt động trao đổi, tuy nhiên tiền tệ chỉ
thực sự phát triển trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Kể từ khi ra đời đến
nay, tiền tệ đã tồn tại nhiều hình thái khác nhau bao gồm:
-

Vật ngang giá chung (hình thái cổ xưa).
Tiền kim loại: Vàng và bạc là phổ biến nhất. Vàng đại diện cho sự giàu có
và của cải và được gọi là kim loại quý. Do khối lượng vàng hạn chế nên
người ta sử dụng kim loại khác để đúc tiền ( đồng, nhôm ) những đồng tiền


-

kim loại đầu tiên được đúc do các địa chỉ, tầng lớp quý tộc.
Tiền giấy do sự phát triển của ngành in.
Tiền tín dụng: Sự phát triển của hệ thống ngân hàng giữa các nước với
nhau, trong hệ thống thanh toán đã xuất hiện tiền tín dụng. Việc sử dụng
tiền tín dụng rất thuận lợi và an toàn. Đối với bản thân nền kinh tế thì tất cả
đồng tiền của nền kinh tế được đưa vào lưu thông, tốc độ luân chuyển nhiều
nên tăng GDP.

Ngày nay chúng ta còn có các khái niệm phân biệt giữa tiền của một nước và
tiền thế giới như tiền tệ quốc gia và tiền tệ quốc tế. Về cơ bản, chúng đều là tiền, có
chức năng giống nhau là lưu thông, trao đổi, buôn bán. Tuy nhiên hai loại tiền này có
sự khác nhau về phạm vi: Tiền quốc gia được từng quốc gia thừa nhận còn tiền quốc
tế được nhiều quốc gia thừa nhận. Vậy để tiền tệ quốc gia trở thành tiền tệ quốc tế dựa
trên cơ sở là đồng tiền đó phải có khả năng chuyển đổi. Chính vì sự cần thiết của việc
trao đổi giữa các quốc gia với nhau trong một xã hội đã phát triển vượt bậc, như một
sự tất yếu, hệ thống tiền tệ quốc tế ra đời giải quyết những khó khăn cho nền kinh tế.
5


Hệ thống tiền tệ quốc tế là một định chế chung, mà trong đó thực hiện những
hoạt động thanh toán quốc tế, điều tiết các giao dịch vốn và quyết định tỷ giá hối đoái
giữa các đơn vị tiền tệ. Nghĩa là hệ thống tiền tệ quốc tế là cơ chế tổ chức lưu thông
tiền tệ giữa các quốc gia, được thực hiện bằng những thỏa ước và quy định ràng buộc
của các quốc gia, có hiệu lực trong phạm vi không gian và thời gian nhất định. Hệ
thống tiền tệ quốc tế tập trung vào hai đặc điểm đó là chọn loại hình tiền tệ làm đơn vị
quốc tế và tổ chức lưu thông tiền tệ.
- Chọn loại hình tiền tệ làm đơn vị tiền tệ quốc tế. Đơn vị tiền tệ chung là đơn

vị thanh toán, đo lường và dự trữ giá trị của một cộng đồng kinh tế. Thông thường
các nước sử dụng một đồng tiền mạnh của một quốc gia nào đó trong khối làm đồng
tiền chung của khối. Các đồng tiền USD, GBP, FRF, JPY, DEM đã từng là các đồng
tiền quốc tế trong một khoảng thời gian. Tuy nhiên, sau này do sự phát triển và hội
nhập kinh tế, các liên minh kinh tế được hình thành hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện do
vậy, mà các nước châu Âu đã không chọn một đồng tiền nào của quốc gia được làm
đồng tiền chung, mà các nước trong liên minh tự định ra một đồng tiền chung của cả
khối. Chẳng hạn: Ngày 01/01/1999 Đồng tiền chung của châu Âu là euro đã ra đời với
tỷ giá ngay tại ngày ra đời là 1 EUR = 1,16675 USD.
- Tổ chức lưu thông tiền tệ: Chế độ tổ chức lưu thông tiền tệ trong các hệ thống
tiền tệ quốc tế thông thường bao gồm những nội dung đặc trưng sau:


Xác định tỷ giá giữa đồng tiền chung với các đồng tiền thành viên của
khối. Có thể theo tỷ giá cố định hoặc tỷ giá thả nổi.



Quy định về lưu thông tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt và lưu
thông các giấy tờ có giá khác ghi bằng đồng tiền chung của cả khối.



Quy định về tỷ lệ dự trữ ngoại hối: ấn định tỷ trọng giá trị của đồng
tiền chung trong tổng dự trữ ngoại hối của các nước thành viên, của
ngân hàng thuộc khối.

Tiền tệ quốc tế và hệ thống tiền tệ quốc tế đều là sản phẩm của các liên minh
kinh tế. Do vậy sự phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế phụ thuộc vào các liên minh
kinh tế. Tuy nhiên, các liên minh kinh tế thường không đứng vững trong một thời

gian dài do các nguyên nhân khác nhau cho nên khi các liên minh kinh tế tan vỡ thì
6


hệ thống tiền tệ quốc tế cũng bị ảnh hưởng theo.
Mỗi hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành đều xuất phát từ những mục đích
nhất định của các nước tham gia. Tuy nhiên có thể thấy các hệ thống tiền tệ đều có
một số mục đích chung như sau:
- Mở mang giao lưu về kinh tế quốc tế, tạo sự liên kết kinh tế giữa một số nước
đã có quan hệ gắn bó hoặc phụ thuộc lẫn nhau với ý định cạnh tranh hoặc chống lại sự
xâm nhập kinh tế – tài chính của các khối kinh tế khác.
- Có thể tạo ra các mối liên kết (liên minh) về chính trị giữa các quốc gia một
cách chặt chẽ hoặc ràng buộc lỏng lẻo giữa các nước dưới sự chỉ huy hoặc thao túng
của một quốc gia mạnh.
- Củng cố vai trò và vị trí kinh tế – tiền tệ của một số quốc gia trong khu vực.
1.1.2 Quá trình phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế
Hệ thống tiền tệ quốc tế đã hình thành từ tự phát đến tự giác. Ban đầu là tự
phát thể hiện một đồng tiền của quốc gia nào đó tự nó có đầy đủ các yếu tố trở thành
tiền tệ quốc tế. Dần dần hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành một cách tự giác trên
cơ sở các quốc gia thỏa thuận, thống nhất với nhau thông qua đàm phán, ký kết văn
bản hoặc thừa nhận một đồng tiền của một quốc gia nào đó làm đơn vị tiền tệ quốc tế.
1.1.2.1

Hệ thống bản vị vàng (gold standard)

Từ trước dương lịch 300 năm, thời của các Pharaoh, vàng được xem là phương
tiện thanh toán và cất trữ. Hy Lạp và đế chế Roman dùng tiền vàng cho đến thời kỳ
khếch trương thương mại của thế kỷ 19. Khi sự gia tăng thương mại lớn hơn đã đặt ra
yêu cầu cần phải có hệ thống chính thức trong cán cân thương mại quốc tế. Các quốc
gia lần lượt thiết lập các mệnh giá cho các loại tiền tệ của quốc gia mình theo giá trị

của vàng và từ đó gắn với luật chơi đã đặt ra. Chế độ bản vị vàng được xem là hệ
thống tiền tệ quốc tế được Châu Âu thừa nhận từ những năm 1870. Mỹ là nước đi sau
và chỉ thừa nhận hệ thống này đến năm 1879.
Theo bản vị vàng, tỷ lệ chuyển đổi giữa hai loại tiền bất kì xác lập dựa trên giá
trị của vàng của hai loại tiền đó ( tiền tệ lưu thông là tiền đúc bằng vàng ). Thí dụ,
hàm lượng vàng của 1 bảng Anh (GBP) là 2,488281 gram và của 1 đô la Mỹ ( USD) là
0,888671 gram do đó quan hệ so sánh giữa GBP và USD là:
7


Chế độ này ra đời có nhiều tác động tích cực đối với nền kinh tế tỷ giá giữa các
đồng tiền là cố định. Tuy nhiên khi nền kinh tế phát triển, lượng vàng cung ứng không
đáp ứng đủ cho lượng hàng hóa được làm ra từ đó gây áp lực nên nền kinh tế vì vậy
mà chế độ bản vị vàng đã sụp đổ sau hai cuộc chiến tranh thế giới và cuộc Đại khủng
hoảng năm 1930.
1.1.2.2

Hệ thống Bretton Woods: 1945 – 1972

Tháng 7/1944, đại diện 44 nước họp tại Bretton Woods, New Hampshire để
bàn bạc phác thảo hệ thống tiền tệ quốc tế thời hậu chiến. Sau nhiều lần tranh cãi,
thương lượng, các đại diện đã cùng dự thảo và ký kết Thỏa ước mang tên Bretton
Woods. Hiệp định Bretton Woods thiết lập hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên đồng Đô
la Mỹ và thiết lập hai định chế mới là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Tái
thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD). Theo đó, IMF chuyên hỗ trợ các quốc gia thành
viên trong cán cân thanh toán và vấn đề tỷ giá còn Ngân hàng Tái thiết và Phát triển
Quốc tế (IBRD) mà chúng ta thường gọi là Ngân hàng Thế giới (WB) hỗ trợ vốn tái
thiết sau chiến tranh và tài trợ phát triển kinh tế các nước nghèo.
Hiệp định Bretton Woods thực chất là thỏa thuận hướng về việc giữ giá đồng
tiền các nước theo giá vàng và chống lạm phát giá cả. Đồng tiền của Hoa Kỳ (USD)

dựa trên thế mạnh của nền kinh tế phát triển vượt hơn và không bị tàn phá trong chiến
tranh đã được cố định ở mức 35 USD = 1OUNCE* vàng làm chuẩn cho việc xác định
tỷ giá đồng tiền của các nước còn lại tương ứng với đồng đô la Mỹ. Các nước tham gia
đồng ý duy trì giá trị của đồng tiền của mình trong vòng 1% (sau này mở rộng đến
2.25%) của mệnh giá bằng cách mua hoặc bán ngoại tệ hoặc vàng khi cần thiết. Làm
giảm giá đã không được sử dụng như một chính sách cạnh tranh thương mại trong giai
đoạn này, nhưng nếu một đồng tiền quá yếu và khi mất giá quá 10% thì cần có sự can
thiệp của IMF. Như vậy, có thể xem hệ thống Bretton Woods là “hệ thống bản vị hối
đoái vàng dựa trên Đô la Mỹ”.
Hệ thống Bretton Woods được duy trì đến năm 1971 thì sụp đổ. Nguyên nhân
của sự sụp đổ này lạm phát quá mức ở Mỹ, biểu hiện ở sự mất giá rõ rệt của đồng đô la
Mỹ, nhất là trong tương quan với đồng mark Đức và yên Nhật. Tổng thống Richard
M. Nixon đã tuyên bố chấm dứt việc chuyển đổi đô la ra vàng vào ngày 15/8/1971.
8


1.1.2.3

Hệ thống tiền tệ quốc tế hiện đại – chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt
(Flexible Exchange Rate) : từ 1973 đến nay

Đầu tháng 2/1973, một cuộc công kích ồ ạt mang tính đầu cơ vào đồng đô la
Mỹ lại bắt đầu dẫn tới thị trường ngoại hối phải đóng cửa. Sau khi các NHTW châu
Âu mua 3,6 tỷ đô la vào 1/3/1973 để ngăn chặn đồng tiền của họ lên giá, thị trường
ngoại hối lại đóng cửa một lần nữa. Khi thị trường ngoại hối mở lại vào 19/3, đồng
yên của Nhật và phần lớn các đồng tiền của các nước châu Âu được thả nổi so với
đồng đô la. Giá thị trường tăng từ 38 lên 42 USD/ounce vàng. Việc thả nổi tỷ giá trao
đổi đô la của các nước công nghiệp khi đó được xem như một phản ứng tạm thời đối
với việc di chuyển vốn mang tính đầu cơ và không quản lý được. Nhưng, những thỏa
thuận tạm thời được chấp nhận vào tháng 3/1973 đã trở thành lâu dài và đánh dấu sự

kết thúc tỷ giá trao đổi cố định của hệ thống Bretton Woods và sự bắt đầu của một thời
kỳ mới sôi động trong quan hệ tiền tệ quốc tế. Từ đó tỷ giá hối đoái giữa những đồng
tiền mạnh như Đô la, Mác, Bảng và Yên đều dao động so với các ngoại tệ khác.
1.2 TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.2.1 Tổng quan về tỷ giá hối đoái
1.2.1.1

Khái niệm

Tỷ giá hối đoái là mối quan hệ so sánh sức mua giữa các đồng tiền với nhau.
Đó là giá cả chuyển đổi một đơn vị tiền tệ của nước này thành những đơn vị tiền tệ của
nước khác. Ví dụ: Tỷ giá bán ra của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngày
12/03/2005 là 1 USD = 15804VND.
1.2.1.2

Ý nghĩa kinh tế của tỷ giá hối đoái

- So sánh sức mua giữa các đồng tiền: Tỷ giá hối đoái phản ánh tương quan giá
trị giữa hai đồng tiền, thông qua đó có thể so sánh giá cả tại thị trường trong nước và
trên thế giới, đánh giá năng suất lao động, giá thành sản phẩm trong nước với các
nước khác.
- Vai trò kích thích và điều chỉnh xuất nhập khẩu: Thông qua cơ chế tỷ giá,
chính phủ sử dụng tỷ giá để tác động đến xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ, khuyến
khích những ngành hàng, chủng loại hàng hóa tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại,
hạn chế nhập khẩu nhằm thực hiện định hướng phát triển cho từng giai đoạn.
-Điều tiết thu nhập trong hoạt động kinh tế đối ngoại: Phân phối lại thu nhập
giữa các ngành hàng có liên quan đến kinh tế đối ngoại và giữa các nước có liên quan
9



về kinh tế với nhau. Khi tỷ giá cao, tức là giảm sức mua của đồng tiền trong nước so
với đồng tiền nước ngoài. Điều này có tác dụng giúp cho nhà xuất khẩu có thêm lợi
thế để cạnh tranh tăng thêm thu nhập cho nhà xuất khẩu.
-Tỷ

giá còn là công cụ sử dụng trong cạnh tranh thương mại, giành giật thị

trường tiêu thụ hàng hóa, khai thác nguyên liệu của nước khác với giá rẻ. Đó là biện
pháp phá giá đồng tiền. Điển hình là nước Mỹ đã dùng công cụ tỷ giá để cản trở sự
xuất khẩu các hàng hóa của Nhật sang Mỹ (đặc biệt là xe hơi). Việc làm này đã gây
thiệt hại cho Nhật, làm giảm thu nhập từ xuất khẩu của Nhật. Phá giá đồng tiền là việc
chính phủ đứng ra tuyên bố giảm giá nội tệ so với ngoại tệ.
1.2.1.3

Tác động của tỷ giá đến các quan hệ kinh tế quốc tế

Tác động đến thương mại quốc tế: Khi tỷ giá hối đoái tăng theo nghĩa là đồng
nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ sẽ có tác động bất lợi cho nhập khẩu
nhưng lại có lợi cho xuất khẩu. Khi tỷ giá giảm có tác động hạn chế xuất khẩu,
khuyến khích nhập khẩu.
Tác động đến hoạt động đầu tư: Khi tỷ giá hối đoái tăng lên sẽ hạn chế việc đầu
tư ra nước ngoài của nhà đầu tư trong nước, vì họ sẽ không có lợi nếu chuyển vốn
bằng đồng nội tệ ra nước ngoài để đổi lấy ngoại tệ tăng giá. Các khoản vốn đầu tư này
nếu được tái đầu tư hoặc để mua hàng hóa trong nước thì sẽ đem lại hiệu quả cao hơn
và ngược lại.
1.2.2 Chế độ tỷ giá hối đoái
1.2.2.1

Chế độ tỷ giá cố định


Tỷ giá cố định là tỷ giá được cố hoặc chỉ được cho phép dao động trong một
phạm vi rất hẹp. Nếu tỷ giá bắt đầu dao động quá nhiều thì các chính phủ có thể can
thiệp để duy trì tỷ giá hối đoái trong vòng giới hạn của phạm vi này. Chế độ tỷ giá hối
đoái cố định là một chế độ tỷ giá hối đoái được nhà nước công bố sẽ duy trì không
thay đổi tỷ giá giữa đồng nội tệ với một đồng ngoại tệ nào đó.
Đặc điểm của chế độ tỷ giá cố định về cơ bản, những lực cung - cầu vẫn tồn tại
trong thị trường ngoại tệ và chi phối số lượng cung - cầu ngoại tệ trên thị trường
nhưng Nhà nước cam kết sẽ duy trì tỷ giá hối đoái ở mức độ cố định. Nếu cung trên
thị trường lớn hơn cầu ở mức tỷ gía cố định thì nhà nước đảm bảo mua hết số dư cung
ngoại tệ. Nếu cung trên thị trường nhỏ hơn c ầu ở mức tỷ giá cố định đó thì Nhà nước
10


sẽ đảm bảo cung cấp một lượng ngoại tệ bằng đúng lượng dư cầu. Nhà nước sẽ thực
hiện hoạt động mua bán lượng dư cung hay cầu đó với tư cách là người mua bán cuối
cùng, người điều phối. Những dự báo thay đổi tỷ giá trên thị trường gần bằng không
trừ trường hợp nhà nước thay đổi mức tỷ giá cố định. Ví dụ, Pháp đã áp dụng tỷ giá cố
định lên các nước thuộc địa của mình khi cho cho ra đời đồng Franc tại thuộc địa
nhằm kiểm soát chặt chẽ các nước thuộc địa.
1.2.2.2

Chế độ tỷ giá thả nổi

Tỷ giá thả nổi là hối đoái được xác định và thay đổi hoàn toàn tùy thuộc vào
tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Nhà nước hoàn toàn không có bất cứ một
tuyên bố, một cam kết nào về điều hành và chỉ đạo tỷ giá. Nhà nước không có bất kỳ
sự can thiệp trực tiếp nào vào thị trường ngoại tệ.
1.2.2.3

Chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước


Chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước về cơ bản tỷ giá do thị
trường quyết định nhưng có sự can thiệp của nhà nước vào những lúc cần thiết nhằm
tránh những cơn sốc về tỷ giá, hạn chế sự biến động. Tỷ giá được xác định và thay đổi
hoàn toàn phụ thuộc tình hình quan hệ cung cầu trên thị trường. Tuy nhiên, Ngân hàng
Nhà nước sẽ tuyên bố một mức biến động cho phép đối với tỷ giá và chỉ can thiệp vào
thị trường với tư cách là người mua bán cuối cùng khi tỷ giá có sự biến động mạnh
vượt mức cho phép. Nếu tình hình kinh tế có những thay đổi lớn thì mức tỷ giá hối
đoái, biên độ dao động cho phép được nhà nước xác định và công bố lại.
1.3 THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
1.3.1 Tổng quan về thị trường ngoại hối
1.3.1.1

Khái niệm

Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại tệ
thông qua quan hệ cung cầu. Việc trao đổi bao gồm việc mua một đồng tiền này và
đồng thời bán một đồng tiền khác. Như vậy, các đồng tiền được trao đổi từng cặp với
nhau (ví dụ: USD/DEM). Ở các nước phát triển các quan hệ cung cầu ngoại hối đều
tập trung ở thị trường ngoại hối. Trung tâm của thị trường ngoại hối là thị trường liên
ngân hàng, thông qua thị trường liên hàng mọi giao dịch mua bán ngoại hối có thể tiến
hành trực tiếp với nhau.
11


Quá trình hình thành thị trường ngoại hối đã hình thành hai hệ thống tổ chức
khác nhau gồm hai hệ thống bao gồm hệ thống hối đoái Anh - Mỹ và hệ thống hối đoái
Châu Âu:
- Theo hệ thống Anh-Mỹ, thị trường hối đoái có tính chất biểu tượng, chỉ giao
dịch ngoại hối thường xuyên giữa một số ngân hàng và nhà môi giới qua các phương

tiện thông tin hiện đại, tức loại thị trường không qua quầy. Thị trường ngoại hối thực
chất không phải là một địa điểm cụ thể, tức không phải là một văn phòng nơi mọi
người ngồi lại với nhau mà đó là một mạng lưới thông tin liên lạc ngân hàng nối mạng
điện tử với nhau, liên kết với người môi giới ngoại hối.
-Theo hệ thống Châu Âu lục địa (không bao gồm nước Anh), thị trường hối
đoái có địa điểm giao dịch nhất định, hàng ngày những người mua bán ngoại hối tới đó
để giao dịch và ký hợp đồng, nhưng chủ yếu qua điện thoại, fax, telex và hệ thống
Reuters.
Hiện nay các thị trường ngoại hối lớn trên thế giới gồm có nhiều thị trường lớn với
doanh số cao như : London, NewYork, Tokyo, Singapore, HongKong, Frankfurt…
1.3.1.2

Đặc điểm của thị trường ngoại hối

- Thị trường ngoại hối mang tính quốc tế:
- Thị trường hối đoái hoạt động liên tục suốt ngày đêm 24 giờ/ngày trên các
khu vực khác nhau của thế giới.
- Không có địa điểm cụ thể. Các giao dịch mua bán được thực hiện thông qua
các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như: telex, điện thoại, máy vi tính..
- Trong bất cứ giao dịch ngoại hối nào thì ít nhất có một đồng tiền đóng vai trò
làm ngoại tệ.
- Ngôn ngữ sử dụng trên thị trường rất ngắn gọn, mang nhiều quy ước nghiệp
vụ rất khó hiểu với người thường.
- Doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối rất lớn.
- Giá cả hàng hoá của thị trường ngoại hối chính là tỷ giá hối đoái được hình
thành một cách hợp lý, linh hoạt dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
Do đó, thị trường ngoại hối rất nhạy cảm với các chỉ số kinh tế như tổng sản phẩm xã
hội., mức tăng sản xuất, tỷ lệ lạm phát, sự biến động của lãi suất và chịu sự tác động
của các sự kiện chính trị - xã hội như: biểu tình, thiên tai, chiến tranh...
12



1.3.1.3

Hàng hóa của thị trường hối đoái

Hàng hóa được mua bán trên thị trường hối đoái gọi là ngoại hối. Ngoại hối là
một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị dùng để thanh toán giữa các quốc
gia. Tùy theo quan niệm của mỗi nước mà khái niệm ngoại hối sẽ khác nhau.
1.3.2 Các thành phần tham gia
- Các ngân hàng thương mại: NHTM tiến hành giao dịch ngoại hối với hai mục
đích: Thực hiện kinh doanh cho chính mình và cho khách hàng.
Các NHTM là hạt nhân và giữ vai trò quan trọng trên thị trường hối đoái. Các
NHTM lớn có chi nhánh, đại lý ở nước ngoài, họ kinh doanh ngoại hối là chủ yếu, còn
các ngân hàng khác đóng vai trò phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh dưới sự chỉ đạo
của các ngân hàng thương mại lớn. Các ngân hàng này có nhiệm vụ điều chỉnh mức
dự trữ của từng loại ngoại tệ khác nhau. Các NHTM chủ yếu là mua đi bán lại các loại
ngoại tệ hoặc là các giao dịch có tính chất đầu cơ.
- Các ngân hàng trung ương: Với tư cách là người canh giữ hệ thống tiền tệ ngân hàng và là người chủ của dự trữ ngoại hối quốc gia, các NHTW là thành phần cơ
bản trên thị trường hối đoái thông qua hành vi can thiệp trên thị trường.
-Các cá nhân hay các nhà kinh doanh (khách hàng mua bán lẻ): gồm những
công dân trong và ngoài nước có nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để
phục vụ cho hoạt động đầu tư, cho vay, đi công tác hay đi du lịch ở nước ngoài hoặc
khi nhận được các khoản lợi tức đầu tư hay chuyển tiền.
-Các nhà môi giới ngoại hối: Người môi giới thực hiện các lệnh mua bán ngoại
hối theo yêu cầu của khách hàng và hưởng phí.
- Các doanh nghiêp: Chủ yếu là các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh
xuất nhập khẩu, vừa là có nhu cầu về ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng thương mại
quốc tế, vừa cung ngoại tệ khi có các khoản thu về việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ…
và được xem như là chủ thể hình thành nên khối lượng mua và bán ngoại hối lớn nhất

trên thị trường ngoại hối.
1.3.3 Vai trò của thị trường ngoại hối
1.3.3.1

Cân đối các nhu cầu mua bán ngoại tệ

Thị trường ngoại hối tạo ra cơ chế hữu hiệu đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ
cho các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động kinh tế đối
13


ngoại khác. Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục và mang tính toàn cầu đáp ứng
ngay lập tức nhu cầu về ngoại tệ của bất kỳ người mua, người bán nào. Sự tham dự
của các ngân hàng và các nhà đầu cơ cũng góp phần giải quyết sự mất cân đối cung
cầu ngoại tệ thông qua việc điều chỉnh tỷ giá cân bằng của thị trường hoặc thông qua
đầu cơ ngoại tệ.
1.3.3.2

Phòng chống rủi ro tỷ giá

Ngày nay đa số các nước trên thế giới đều áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi nên tỷ
giá hối đoái luôn luôn biến động, ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các chủ thể. Các
công ty xuất nhập khẩu, công ty đa quốc gia và các cá nhân có nguồn thu, chi ngoại tệ
trong tương lai chịu ảnh hưởng rủi ro rất lớn về sự biến động của tỷ giá hối đoái. Do
vậy, các chủ thể này cần thiết phải áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế, phòng ngừa
rủi ro thông qua các nghiệp vụ mua bán kỳ hạn, quyền chọn… của thị trường ngoại
hối.
1.3.3.3

Tạo ra thu nhập cho người sở hữu ngoại tệ


Các NHTM tham gia vào thị trường ngoại hối chủ yếu là giao dịch cho chính
mình, tiến hành các hoạt động kinh doanh chênh lệch giá giữa các thị trường để thu lời
qua việc mua ở thị trường giá rẻ hơn và bán lại ở thị trường giá cao hơn.
Không chỉ có các ngân hàng mà các doanh nghiệp và cá nhân cũng có thể thu
lời thông qua hoạt động đầu cơ ngoại tệ. Ngoài ra,thị trường ngoại hối còn giúp các
nhà đầu tư chuyển đổi ngoại tệ phục vụ cho việc đầu tư vào thị trường có mức lãi dự
tính cao.

14


CHƯƠNG 2
HỆ THỐNG CÁC NƯỚC THEO HỆ THỐNG ĐỒNG FRANC VÀ
VỊ THẾ CỦA CÁC ĐỒNG FRANC TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
2.1 Cộng hòa Pháp – đồng franc Pháp
2.1.1 Tổng quan
Đồng franc Pháp, còn gọi là franc , biểu tượng là F hoặc Fr, là đơn vị tiền tệ của
Pháp sử dụng từ năm 1936 và bị thay thế bởi đồng Euro vào năm 2002.
Mã tiền tệ ISO 4217 của franc Pháp là FRF, con số 250, số mũ 2.
2.1.2 Đồng franc Pháp qua các thời kỳ
2.1.2.1

Ra đời: năm 1360 đến 1641

Đồng franc đầu tiên là một đồng tiền vàng được giới thiệu vào năm 1360 để trả
tiền chuộc của Vua John II của Pháp trong Chiến tranh Trăm năm, đồng xu này bảo
đảm sự tự do của nhà vua. Trong khoảng thời gian từ năm 1360 đến 1641, những
đồng xu có giá trị một tourreis đã được đúc và được gọi là francs (tên đến từ dòng chữ
"Johannes Dei Gratia Francorum Rex", tức "John, bởi ân sủng của Thiên Chúa” Vua

của Pháp). Ở trên mặt đồng tiền là nhà vua cưỡi một con ngựa được trang trí phong
phú, nên người ta đặt cho đồng tiền này tên franc à cheval (có nghĩa là "tự do trên
ngựa" trong tiếng Pháp). Sau cái chết của John II, con trai của John, Charles V, tiếp
tục loại tiền này với chính sách cải cách, bao gồm tiền đúc ổn định. Sắc lệnh ngày 20
tháng 4 năm 1365 đã thiết lập một đồng tiền vàng chính thức được gọi là denier d'or
aux fleurs de lis có hình dáng đứng của nhà vua trên mặt đối diện của nó, được vẽ dưới
tán cây. Giá trị của nó bằng một tourreis, giống như franc à cheval , và đồng tiền này
được biết đến rộng rãi như một đồng franc à pied. Năm 1641 khi Louis XIII của
Pháp thay thế nó

bằng bạc écu và louis

d'or vàng.

15


Hình 2-1: Đồng Franc vàng đầu tiên năm 1360
2.1.2.2

Từ 1795 đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất

Theo Công ước Cách mạng Pháp năm 1795 "Franc" thập phân được trở thành
đơn vị tiền tệ quốc gia (1 franc = 10 décimes = 100 centimes). Đồng xu bạc hiện có
mệnh giá rõ ràng là "5 FRANCS" và bắt buộc phải báo giá bằng đồng franc. Điều này
đã chấm dứt hoạt động của các đồng tiền không có mệnh giá rõ ràng chẳng hạn
như Louis d'or , định kỳ ban hành các sắc lệnh hoàng gia để thao túng giá trị của chúng
về mặt tài khoản, tức là Livre tournois. Đồng franc trở thành tiền tệ chính thức của
Pháp vào năm 1799.
Năm 1803, Franc germinal (được đặt tên theo tháng Germinal trong lịch cách

mạng ) được thành lập, tạo ra một đồng franc vàng chứa 290,034 mg vàng nguyên
chất. Từ thời điểm này, các đơn vị vàng và bạc lưu thông thay thế cho nhau trên cơ sở
tỷ lệ 1: 15,5 giữa các giá trị của hai kim loại (lưỡng kim). Đồng tiền này bao gồm các
đồng tiền vàng hiện đại đầu tiên có mệnh giá bằng đồng franc, lần đầu tiên được mô tả
là "Lãnh sự Bonaparte" và với quốc gia được mô tả là "République Française "
2.1.2.3

Chiến tranh thế giới thứ nhất

Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ khiến Pháp rời khỏi tiêu chuẩn vàng của
Liên minh tiền tệ Latinh. Chiến tranh làm suy yếu nghiêm trọng sức mạnh của đồng
franc: chi tiêu chiến tranh, lạm phát và tái thiết sau chiến tranh, được tài trợ một phần
bằng cách in thêm tiền, giảm 70% sức mua của franc trong khoảng thời gian từ 1915
đến 1920 và giảm thêm 43% trong khoảng thời gian từ 1922 đến 1926. Đồng tiền tiếp
tục trượt, cho đến năm 1959, sức mua có giá trị dưới 2,5% giá trị năm 1934.
2.1.2.4

Chiến tranh thế giới thứ hai

Trong thời Đức Quốc xã chiếm đóng Pháp (từ năm 1940- năm 1944), đồng
franc là một loại tiền tệ phụ thuộc vào Reichsmark của Đức với tỷ giá hối đoái là 20
franc cho Reichsmark. Các đồng tiền đã được thay đổi, với các từ Travail, famille,
patrie (Công việc, Gia đình, Tổ quốc) thay thế cho bộ ba Cộng hòa Liberté, égalité,
huynh đệ (Liberty, Equality, Frhood), với biểu tượng của chế độ Vichy được thêm
vào.Sau giải phóng, Hoa Kỳ đã cố gắng áp đặt việc sử dụng đồng “flag ticket” franc
của Hoa Kỳ lên Pháp nhưng đã bị Tướng De Gaulle ngăn chặn.
16


2.1.2.5


Sau chiến tranh thế giới thứ hai đến 1999

Sau Thế chiến thứ II, Pháp đã phá giá tiền tệ của mình trong hệ thống Bretton
Woods trong nhiều lần. Bắt đầu từ năm 1945 với tỷ giá 480 franc so với bảng
Anh (119,1 đô la Mỹ ), đến năm 1949, tỷ giá là 980 đến bảng Anh (350 đến đô la).
Điều này đã giảm hơn nữa vào năm 1957 và 1958, đạt 1382,3 đến bảng Anh (493,7 đô
la, tương đương với 1 franc = 1,8 mg vàng nguyên chất).
Sau hai thế kỷ lạm phát với những rắc rối vẫn tiếp thục từ thời hậu chiến, vào
tháng 1 năm 1960, Tướng de Gaulle quyết định đồng franc Pháp đã được định giá lại,
với 100 franc hiện có bằng một franc nouveau. Chữ viết tắt "NF" (new franc) đã được
sử dụng trên tiền giấy thiết kế năm 1958 cho đến năm 1963. Tiền cũ một và hai franc
tiếp tục lưu hành. Đồng xu một xu không lưu hành rộng rãi. Lạm phát tiếp tục làm
xói mòn giá trị của đồng franc: giữa năm 1950 và 1960, mức giá tăng 72% (trung bình
5,7% mỗi năm); giữa năm 1960 và 1970, nó đã tăng 51%.
Sau khi Pháp kí kết Hiệp định Maastricht tạo ra Liên minh Châu Âu vào
07/02/1992 và Ngân hàng Trung Ương Châu Âu (ECB) đã cho ra đời đồng tiền chung
Châu Âu gọi là Euro. Đồng franc Pháp bị thay thế bởi đồng Euro với tỷ giá hối đoái
được đặt ở mức ngang giá cố định € 1 = 6,55957 F. Tất cả các đồng tiền franc và tiền
giấy đã không còn được đấu thầu hợp pháp vào tháng 1 năm 2002, khi đồng euro
chính thức được thông qua.
2.1.3 Vị thế trên thị trường ngoại hối
Ra đời năm 1360, dù bị ngắt quãng sử dụng trong thời gian khá dài (từ năm
1641 đến 1795), đồng franc vẫn để lại dấu ấn mạnh mẽ hơn nhiều so với đồng livre
trước đó khi gắn liền với lịch sử thực dân của Pháp. Những đồng franc đầu tiên được
phát hành với mục đích chủ yếu là giúp vua John II chuộc lại sự tự do của chính mình
do nền kinh tế Pháp đã hết sức suy yếu. Tuy nhiên, đồng franc đã được duy trì tiếp sau
đó với giá trị tính bằng tiền của nó là một livre tournois cho đến năm 1577. Vào thời
gian này, dòng chảy của vàng và bạc từ Tây Ban Nha và Mỹ đã gây ra lạm phát trên
toàn thế giới, các vị vua của Pháp - những người không nhận được nhiều của cải này -


khiến mọi thứ tồi tệ hơn khi gán giá trị cho đồng franc của họ. Henry III đã định giá
một đồng xu franc bạc có giá trị bằng một livre tournois khiến đồng franc mất giá
17


nghiêm trọng. Đồng xu này và các phân số của nó lưu hành cho đến năm 1641
khi Louis XIII của Pháp thay thế nó bằng bạc écu.
Cũng cùng thời gian này, Pháp bắt đầu xây dựng thuộc địa ở châu Mỹ, biển Cari-bê và Ấn Độ. Việc mở rộng thuộc địa giúp đồng franc Pháp mở rộng ảnh hưởng đến
các khu vực này và giúp mở rộng sự giao thương của Pháp, thúc đẩy sản xuất buôn
bán. Tuy nhiên sau đó các thuộc địa này phần lớn bị mất hoặc bị bán.
Đồng franc trở lại vào năm 1795 và chính thức thành tiền tệ của Pháp vào năm
1799 với kĩ thuật tiền tệ thập. Việc lưu thông tiền tệ kim loại này giảm trong Séc,
những đồng xu vàng và bạc cũ được đưa ra khỏi lưu thông và trao đổi cho in tiền
giấy assignats, ban đầu phát hành như trái phiếu được hỗ trợ bởi giá trị của hàng hóa bị
tịch thu của nhà thờ, nhưng sau đó khai báo là tệ hợp pháp. Những đồng tiền vàng và
bạc rút ra được dùng để tài trợ cho các cuộc chiến tranh và nhập khẩu lương thực, vốn
đang thiếu hụt. Như trong " Bong bóng Mississippi " năm 1715 - 1720, quá nhiều tiền
chuyển nhượng đã được đưa vào lưu hành, vượt quá giá trị của "tài sản quốc gia", và
tiền xu, cũng do quân đội trưng dụng và tích trữ, hiếm khi trả cho các nhà cung cấp
nước ngoài. Với khoản nợ của chính phủ quốc gia vẫn chưa được thanh toán, và sự
thiếu hụt bạc và đồng thau để đúc tiền xu khiến niềm tin vào đồng tiền mới giảm sút,
dẫn đến siêu lạm phát, nhiều bạo loạn lương thực, bất ổn chính trị nghiêm trọng. Sau
một cuộc đảo chính dẫn, Lãnh sự quán dần dần giành được quyền lập pháp duy nhất
với chi phí của các tổ chức tư vấn lập pháp không ổn định và mất uy tín khác.
Đến năm 1850, thực dân Pháp tập trung chủ yếu xây dựng thuộc địa ở Châu
Phi cũng như Đông Dương và Nam Thái Bình Dương. Dưới đế chế thực dân Pháp,
các mối quan hệ ưu tiên giữa những đồng tiền của các lãnh thổ và đồng franc Pháp cho
phép xác định một khu vực tiền tệ đặc trưng. Theo nghĩa rộng, một khu vực tiền tệ
được xác định chủ yếu bởi sự cùng tồn tại của một đồng tiền thống trị và nhiều đồng

tiền vệ tinh, sự thống nhất của toàn khối được bảo đảm nhờ khả năng chuyển đổi của
tất cả các đồng tiền này với nhau trên cơ sở các ngang giá cố định. Việc tổ chức nhiều
nước thành một khu vực tiền tệ thường nằm trong khuôn khổ rộng hơn, với đặc điểm
là có các mối quan hệ chính trị và kinh tế ưu tiên. Vì vậy, vị thế quan trọng của đồng
franc đã được khẳng định trên thị trường tiền tệ, tạo ra sự đảm bảo một tỷ giá hối đoái
18


cố định cho các đồng tiền trong khu vực cùng các nước cùng sử dụng đồng franc và
cũng giúp Pháp kiểm soát chặt chẽ chính trị và kinh tế của các nước thuộc địa.
Kể từ thế kỷ 19, Pháp đã quyết định tổ chức phát hành tiền tệ tại các nước thuộc
địa và ưu tiên cho một số ngân hàng tư nhân đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ về tỷ giá
của chính quyền Pháp như Ngân hàng Angiêri, Ngân hàng Đông Dương, Ngân hàng
Tây Phi, Ngân hàng Ăng-ti,... Những đồng tiền này đã được phát hành để rút dần các
đồng tiền bản địa (tiền mani, ốc tiền) hoặc các đồng tiền nước ngoài đang lưu thông
trên các lãnh thổ thuộc địa. Để bảo đảm chất lượng của việc lưu thông tiền tệ, các
ngân hàng phát hành của địa phương phải chịu sự kiểm soát của chính quyền Pháp
nhất là khi trao đổi giữa Pháp và các nước thuộc địa ngày càng tăng.
Theo hiệp ước ngày 23/12/1865, Pháp, Bỉ, Ý và Thụy Sĩ đã thành lập Liên
minh tiền tệ Latinh qua đó thiết lập tiêu chuẩn trao đổi dựa trên các thông số kỹ thuật
của đồng franc vàng của Pháp, việc gia nhập Liên minh tiên tệ Latinh giúp franc Pháp
tạo vị thế mạnh, được sử dụng rộng rãi và chiếm tỷ trọng lớn trong quỹ dự trữ không
chỉ đối với các nước tham gia mà còn là các nước tham gia không chính thức cùng các
thuộc địa.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, với tư thế là nước thắng cuộc, Pháp có thêm
cơ hội mở rộng hơn nữa các hệ thống thuộc địa của mình nhưng nạn khủng hoảng do
thiếu vàng tồn tại trong chiến tranh khiến tiền giấy cưỡng bách lưu hành mất 80% giá
trị, lạm phát tăng cao. Để thoát khỏi tình trạng bế tắc này, Pháp đã dùng biện pháp
thay vì đổi tiền giấy trực tiếp ra vàng, người ta chỉ cho đổi lấy thứ tiền giấy ngoại quốc
có thể đổi ra vàng. Chính phủ Pháp cũng cắt giảm thuế, và vào cuối những năm 1920,

nền kinh tế Pháp đã phục hồi trở lại.
Nhờ sự thay đổi từ kim bản vị thành kim hoán bản vị, các nước châu Âu đã
thoát khỏi khủng hoảng. Tuy nhiên, chế độ này cũng chỉ được thi hành trong thời gian
ngắn đến năm 1931. Sau khi NHTW Anh đã bãi bỏ tính chuyển đổi của đồng bảng
Anh và giảm giá đồng bảng Anh khoảng 30%, tất cả các nước theo Anh cũng từ bỏ khả
năng chuyển đổi tiền sang vàng khiến tiền tệ sụt giảm. Khi giá vàng trên thế giới giảm
sút sau các đợt giảm giá đồng tiền trên toàn bộ thế giới, một số nước thuộc hệ thống
đồng franc như Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ vẫn giữ nguyên không giảm giá các đồng tiền của
mình khiến cho vàng của Pháp quá cao so với thế giới. Các nhà xuất khẩu Pháp gặp
19


khó khăn, nhâp khẩu tăng thái quá, tình hình thương mại xấu đi. Sự sợ hãi vào tương
lai của đồng
franc bao trùm. Một số vốn tìm các chạy ra nước ngoài. Đồng thời, cùng lúc
đó tại các nước thuộc địa, các quy chế mới đã áp đặt những nghĩa vụ khắt khe hơn đối
với các cơ quan phát hành, tạo ra các cơ chế cho phép trao đổi đồng tiền ngang giá với
những đồng tiền do Ngân hàng nước Pháp phát hành. Do vậy, đồng franc đã thay thế
các đồng xu tại các nước thuộc địa và trở thành đồng tiền duy nhất được lưu thông tại
châu lục đen và trong những vùng lãnh thổ ở Thái Bình Dương. Các “tài khoản
nghiệp vụ” đầu tiên đã được tạo ra để giữ vai trò trung tâm trong việc tổ chức các mối
quan hệ tài chính tại khu vực đồng franc.
Để thiết lập lại tình hình, giá vàng Pháp cũng cần giảm đi. Chính phủ đã thay
đổi chính sách của mình và đi theo con đường của những nước khác, nghĩa là xóa bỏ
khả năng chuyển đổi của đồng bản tệ sang vàng và tiến hành giảm giá đồng tiền từ
năm 1936. Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ II, Pháp đã đầu hàng Đức từ tháng
6/1940, chính vì vậy đã tạo điều kiện cho các nước thuộc địa đấu tranh giải phóng dân
tộc. Tuy không thành công nhưng các nước thuộc địa đã cho ra đời các đồng tiền của
mình tồn tại song song với tiền franc của Pháp và tiền Pháp phát hành tại đây, giảm sự
ảnh hưởng của đồng franc Pháp lên các khu vực này.

Khi Đại chiến thế giới thứ II kết thúc, Pháp phê chuẩn Hiệp định Bretton
Woods vào tháng 12 năm 1945, đồng franc Pháp bị mất giá để thiết lập một tỷ giá hối
đoái cố định với đồng đô la Mỹ. Tuy nhiên, đồng franc vẫn giữ được vị thế của mình
là một đồng mạnh trên thị trường, trong Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) số franc chiếm
tương đương số cổ phần là 5,05%. Tại các thuộc địa của Pháp, đồng franc vẫn giữ vị
thế quan trọng trong việc giao thương với các lãnh thổ khác.
Sau hai thế kỷ lạm phát với những rắc rối vẫn tiếp thục từ thời hậu chiến, vào
tháng 1 năm 1960, đồng franc Pháp đã được định giá lại, với 100 franc hiện có bằng
một franc nouveau. Tuy nhiên, lạm phát tiếp tục làm xói mòn giá trị của đồng franc:
giữa năm 1950 và 1960, mức giá tăng 72% (trung bình 5,7% mỗi năm); giữa năm
1960 và 1970, nó đã tăng 51%.
Hình 2-2: Giá trị của đồng Franc Pháp mới tính theo Euro ( 1960 – 2002 )
Nguồn :INSEE ( Viện Thống kê và Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia)
20


Sau khi Pháp kí kết Hiệp định Maastricht tạo ra Liên minh Châu Âu vào
07/02/1992 và Ngân hàng Trung Ương Châu Âu (ECB) đã cho ra đời đồng tiền chung
Châu Âu gọi là Euro. Đồng franc Pháp bị thay thế bởi đồng Euro với tỷ giá hối đoái
được đặt ở mức ngang giá cố định € 1 = 6,55957 F. Điều này đánh dấu cho sự kết thúc
của đồng franc Pháp trên thị trường ngoại hối cũng như kết thúc vị trí là một trong
những đồng tiền mạnh và có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới. Tuy nhiên, dù chính
thức bị loại bỏ trong lưu thông nhưng đồng franc Pháp vẫn ảnh hưởng không nhỏ đến
các nước thuộc địa của nó ví dụ như khu vực đồng franc Tây Phi và khu vực đồng
franc Thái Bình Dương.
Trên thực tế, dù đã chính thức chuyển qua sử dụng đồng euro từ năm 2002
nhưng từ thời điểm đó tới nay, người dân vẫn có thể mang giấy bạc franc ra ngân hàng
đổi thành euro, còn tiền xu thì đã "cáo chung" từ năm 2005. "Sự ra đi" của đồng franc
đã tạo ra những phản ứng trái ngược của người dân Pháp. Trong khi một số người cảm
thấy nhẹ nhõm vì thoát khỏi hệ thống tiền tệ song song thì phần lớn cảm thấy nuối tiếc.

Thậm chí, có người còn cho rằng, việc từ bỏ đồng franc là một mất mát lớn của bản
sắc dân tộc. Đến 17/02/2012, thời điểm chia tay đồng franc cũng là lúc người dân
nước này đánh dấu 10 năm chính thức đưa vào lưu hành đồng euro. Tuy nhiên, thay vì
nhớ đến ngày này như là một ngày đáng tự hào cho sự liên kết và sức mạnh của các
21


×