Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN trờn địa bàn tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.18 KB, 62 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Sự cần thiết của đề tài.
Trong hệ thống tài chính của mỗi quốc gia thì NSNN có vị trí
quan trọng đặc biệt, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có
ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, thực hiện CNH,
HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa thì đòi hỏi có khối lượng vốn vô cùng lớn và phát triển
bền vững. Muốn vậy phải có chính sách tài chính quốc gia tiên tiến phù
hợp, trong đó NSNN là một tong những công cụ quan trọng nhất. Thông
qua công cụ NSNN thực hiện phân phối lần đầu và phân phối lại thu
nhập quốc dân, nhờ đó tập trung một phần quan trọng thu nhập quốc dân
vào NSNN, đảm bảo nguồn vốn cho tái sản xuất mở rộng của nền kinh
tế.
NSNN là công cụ để thực hiện tích luỹ và tập trung vốn, phân phối
và sử dụng vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, từng bước làm thay đổi cơ cấu nền
kinh tế theo hướng đi lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
NSNN giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. NSNN còn cung cấp
kinh phí cho hoạt động của các lĩnh vực không sản xuất vật chất, duy trì
hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ ổn định tình hình kinh tế - xã hội,
phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát triển theo hướng CNH, HĐH.
Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trò của
NSNN, trên cơ sở đó tiến hành đổi mới các hoạt động của NSNN cho
phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, nhằm đảm bảo


nguồn vốn đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.


2

Hà Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, có nhiều
tiềm năng thế mạnh. Tuy nhiên cho đến nay vẫn là một tỉnh nghèo nhất
của nước ta. Điều đó được thể hiện rõ nhất trên các mặt kinh tế, xã hội,
về các cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, về lực lượng
sản xuất và NSLĐ... đang yếu kém và lạc hậu. Với tình trạng đó thì chưa
thể đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnhvà đồng thời cũng
gặp khó khăn trong việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân các dân
tộc trong tỉnh. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là
Hà Giang còn quá thiếu nguồn vốn vật chất. Vì vậy, để giải quyết mâu
thuẫn trên đây cần phải tiến hành đồng bộ nhiều vấn đề. Một trong những
vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề ngân sách.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số vấn đề về nâng cao công tác quản
lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang" để viết luận văn tốt
nghiệp cử nhân chính trị.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phương pháp và phạm vi của đề tài.
- Mục đích của đề tài: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về lý luận,
quan điểm của Đảng, thực tiễn của địa phương để trình bày bản luận văn
tốt nghiệp cử nhân chính trị của mình; đồng thời thông qua sự nghiên
cứu này có thể có đóng góp nhỏ về suy nghĩ của bản thân tôi trong lĩnh
vực quản lý NSNN ở tỉnh Hà Giang.
- Nhiệm vụ của đề tài: Từ mục đích nói trên, đề tài luận văn có các
nhiệm vụ sau:
+ Khái quát một vài nét chung nhất về lý luận của NSNN và vai
trò của NSNN trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội

của nước ta trong TKQĐ lên CNXH.
+ Phân tích, đánh giá những nét lớn về thực trạng kinh tế - xã hội
cũng như thực trạng quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang hiện nay.
+ Từ hai nhiệm vụ trên, đề tài có nhiệm vụ phải nêu lên được
phương hướng và những giải pháp chủ yếu để quản lý và sử dụng NSNN
của tỉnh Hà Giang tốt hơn trong thời gian tới.
- Phương pháp của đề tài:


3

Đề tài này thuộc thể loại nghị luận kinh tế - xã hội. Do đó, trong
quá trình nghiên cứu và thể hiện, luận văn coi trọng phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời bám sát vào quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước trong lĩnh vực của đề tài nêu ra.
Để thể hiện đề tài, luận văn còn sử dụng tổng hợp phương pháp
phân tích, thống kê, tổng hợp từ tình hình và các số liệu của thực tiễn, để
từ đó rút ra những nhận xét có căn cứ. Luận văn còn coi trọng tính kế
thừa có chọn lọc thành quả của những công trình, những tác giả đã
nghiên cứu vấn đề này.
- Phạm vi của đề tài:
Vấn đề quản lý và sử dụng NSNN là một vấn đề rộng lớn, khó
khăn và phức tạp, đặc biệt là đối với những địa phương như Hà Giang
nền kinh tế còn ở trình độ thấp và phát triển chậm. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ có mức độ của luận văn cử nhân chính trị, đề tài chỉ giới hạn
ở phạm vi nghiên cứu công tác quản lý và sử dụng NSNN ở một địa
phương - đó là tỉnh Hà Giang. Trong đó tập trung làm rõ thực trạng của
quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh và qua đó nêu lên một số giải pháp
để thực hiện quản lý tốt hơn NSNN của tỉnh. Đề tài không đủ điều kiện

để nghiên cứu và thể hiện hết mọi khía cạnh của đề tài nói trên.
3. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần đặt vấn đề, kiến nghị và kết luận, nội dung của luận
văn gồm cả 3 phần chính sau đây:
Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà
nước (NSNN).
Phần thứ hai: Tình hình cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội và
thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang.
Phần thứ ba: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng
cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang.
ĐẶT VẤN ĐỀ

NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ


4

Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

I.
II.

Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá.
Bản chất, chức năng và vai trò của NSNN nói chung, của Hà
Giang nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội .
III. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách động
viên tài chính nói chung và thuế nói riêng cho ngân sách
Nhà nước.
Phần thứ hai

TÌNH HÌNH VỀ TỰ NHIÊN- KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ THƯC TRẠNG
CÔNG TÁC QUẢN LÝ SỬ DỤNG NSNN TỈNH HÀ GIANG

I.
II.

Điệu kiện tự nhiên- kinh tế-xã hội của tỉnh Hà Giang.
Thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN tỉnh Hà Giang
1997- 1999.
III. Đánh giá tình hình công tác quản lý thu thuế trong mấy
năm qua.
Phần thứ ba
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ NÂNG CAO
CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG NSNN CỦA TỈNH HÀ GIANG

I.
II.

I.
II.

Phương hướng, mục tiêu chung.
Những giải pháp chung chủ yếu để nâng cao công tác quản
lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang
Kiến nghị và kết luận.
Kiến nghị
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo



5

MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ

NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

I.
II.

Khỏi niệm về NSNN và chớnh sỏch tài khoỏ.
Bản chất, chức năng và vai trũ của NSNN núi chung, của Hà
Giang núi riờng trong sự nghiệp phỏt triển kinh tế -xó hội .
III. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách động
viên tài chính nói chung và thuế nói riêng cho ngân sách
Nhà nước.
Phần thứ hai
TèNH HèNH VỀ TỰ NHIấN- KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ THƯC TRẠNG
CÔNG TÁC QUẢN Lí SỬ DỤNG NSNN TỈNH HÀ GIANG

I.
II.

Điệu kiện tự nhiên- kinh tế-xó hội của tỉnh Hà Giang.
Thực trạng cụng tỏc quản lý và sử dụng NSNN tỉnh Hà Giang
1997- 1999.
III. Đánh giá tỡnh hỡnh cụng tỏc quản lý thu thuế trong mấy

năm qua.
Phần thứ ba
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ NÂNG CAO
CÔNG TÁC QUẢN Lí VÀ SỬ DỤNG NSNN CỦA TỈNH HÀ GIANG

I.
II.

I.
II.

Phương hướng, mục tiêu chung.
Những giải pháp chung chủ yếu để nâng cao cụng tỏc quản
lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang
Kiến nghị và kết luận.
Kiến nghị
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo

ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Sự cần thiết của đề tài.


6

Trong hệ thống tài chớnh của mỗi quốc gia thỡ NSNN cú vị trớ
quan trọng đặc biệt, nó giữ vai trũ chủ đạo trong hệ thống tài chính và có
ý nghĩa quyết định trong quá trỡnh phỏt triển của nền kinh tế quốc dõn.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, thực hiện CNH,

HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xó hội chủ nghĩa thỡ đũi hỏi cú khối lượng vốn vô cùng lớn và phát triển
bền vững. Muốn vậy phải có chính sách tài chính quốc gia tiên tiến phù
hợp, trong đó NSNN là một tong những công cụ quan trọng nhất. Thông
qua công cụ NSNN thực hiện phân phối lần đầu và phân phối lại thu
nhập quốc dân, nhờ đó tập trung một phần quan trọng thu nhập quốc dân
vào NSNN, đảm bảo nguồn vốn cho tái sản xuất mở rộng của nền kinh
tế.
NSNN là cụng cụ để thực hiện tích luỹ và tập trung vốn, phân phối
và sử dụng vốn cho quá trỡnh CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xó hội, từng bước làm thay đổi cơ cấu nền
kinh tế theo hướng đi lên nền sản xuất lớn xó hội chủ nghĩa.
NSNN giữ vai trũ quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu
chiến lược phát triển kinh tế - xó hội, cỏc kế hoạch phỏt triển kinh tế - xó
hội, cỏc cõn đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. NSNN cũn cung cấp
kinh phớ cho hoạt động của các lĩnh vực không sản xuất vật chất, duy trỡ
hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ ổn định tỡnh hỡnh kinh tế - xó hội,
phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát triển theo hướng CNH, HĐH.
Vỡ vậy cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trũ của
NSNN, trờn cơ sở đó tiến hành đổi mới các hoạt động của NSNN cho
phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, nhằm đảm bảo
nguồn vốn đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xó hội của
đất nước.
Hà Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, có nhiều
tiềm năng thế mạnh. Tuy nhiên cho đến nay vẫn là một tỉnh nghèo nhất
của nước ta. Điều đó được thể hiện rừ nhất trờn cỏc mặt kinh tế, xó hội,


7


về cỏc cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, về lực lượng
sản xuất và NSLĐ... đang yếu kém và lạc hậu. Với tỡnh trạng đó thỡ
chưa thể đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnhvà đồng thời
cũng gặp khó khăn trong việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân
các dân tộc trong tỉnh. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tỡnh
trạng đó là Hà Giang cũn quỏ thiếu nguồn vốn vật chất. Vỡ vậy, để giải
quyết mâu thuẫn trên đây cần phải tiến hành đồng bộ nhiều vấn đề. Một
trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề
ngân sách. Chớnh vỡ vậy tụi chọn đề tài "Một số vấn đề về nâng cao
công tác quản lý và sử dụng NSNN trờn địa bàn tỉnh Hà Giang" để
viết luận văn tốt nghiệp cử nhân chính trị.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phương pháp và phạm vi của đề tài.
- Mục đích của đề tài: Trên cơ sở làm rừ một số vấn đề về lý luận,
quan điểm của Đảng, thực tiễn của địa phương để trỡnh bày bản luận
văn tốt nghiệp cử nhân chính trị của mỡnh; đồng thời thông qua sự
nghiên cứu này có thể có đóng góp nhỏ về suy nghĩ của bản thân tôi
trong lĩnh vực quản lý NSNN ở tỉnh Hà Giang.
- Nhiệm vụ của đề tài: Từ mục đích nói trên, đề tài luận văn có các
nhiệm vụ sau:
+ Khỏi quỏt một vài nột chung nhất về lý luận của NSNN và vai
trũ của NSNN trong sự nghiệp xõy dựng và phỏt triển kinh tế - xó hội
của nước ta trong TKQĐ lên CNXH.
+ Phân tích, đánh giá những nét lớn về thực trạng kinh tế - xó hội
cũng như thực trạng quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang hiện nay.
+ Từ hai nhiệm vụ trên, đề tài có nhiệm vụ phải nêu lên được
phương hướng và những giải pháp chủ yếu để quản lý và sử dụng NSNN
của tỉnh Hà Giang tốt hơn trong thời gian tới.
- Phương pháp của đề tài:
Đề tài này thuộc thể loại nghị luận kinh tế - xó hội. Do đó, trong

quá trỡnh nghiờn cứu và thể hiện, luận văn coi trọng phương pháp luận


8

duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời bám sát vào quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước trong lĩnh vực của đề tài nêu ra.
Để thể hiện đề tài, luận văn cũn sử dụng tổng hợp phương pháp
phân tích, thống kê, tổng hợp từ tỡnh hỡnh và cỏc số liệu của thực tiễn,
để từ đó rút ra những nhận xét có căn cứ. Luận văn cũn coi trọng tớnh kế
thừa cú chọn lọc thành quả của những cụng trỡnh, những tỏc giả đó
nghiờn cứu vấn đề này.
- Phạm vi của đề tài:
Vấn đề quản lý và sử dụng NSNN là một vấn đề rộng lớn, khó
khăn và phức tạp, đặc biệt là đối với những địa phương như Hà Giang
nền kinh tế cũn ở trỡnh độ thấp và phát triển chậm. Tuy nhiên, trong
khuôn khổ có mức độ của luận văn cử nhân chính trị, đề tài chỉ giới hạn
ở phạm vi nghiên cứu công tác quản lý và sử dụng NSNN ở một địa
phương - đó là tỉnh Hà Giang. Trong đó tập trung làm rừ thực trạng của
quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh và qua đó nêu lên một số giải pháp
để thực hiện quản lý tốt hơn NSNN của tỉnh. Đề tài không đủ điều kiện
để nghiên cứu và thể hiện hết mọi khía cạnh của đề tài nói trên.
3. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần đặt vấn đề, kiến nghị và kết luận, nội dung của luận
văn gồm cả 3 phần chính sau đây:
Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà
nước (NSNN).
Phần thứ hai: Tỡnh hỡnh cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xó hội và
thực trạng cụng tỏc quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang.

Phần thứ ba: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng
cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang.


9

NỘI DUNG LUẬN VĂN

Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC (NSNN )
I. KHÁI NIỆM VỀ NSNN VÀ CHÍNH SÁCH TÀI KHOÁ.

1. Ngân sách Nhà nước .
a. Khỏi niệm NSNN:
Thuật ngữ "NSNN " có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến
trong đời sống kinh tế - xó hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác
nhau. Song quan niệm NSNN được bao quát nhất cả về lý luận và thực
tiễn của nước ta hiện nay là:
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán
đó được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Trong thực tế nhỡn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu
chi tài chính của Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến
hành hầu hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xó hội.
Tuy đa dạng, phong phú như vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung:
Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực
kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở
những luật lệ nhất định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó
chứa đựng nội dung kinh tế - xó hội nhất định và chứa đựng các quan hệ

kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích
quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối
các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách Nhà nước.
Quỏ trỡnh thực hiện cỏc chỉ tiờu thu, chi NSNN nhằm hỡnh thành
quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và là quá trỡnh phõn phối và phối lại


10

giỏ trị tổng sản phẩm xó hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước trên các lĩnh vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất
định.
Như vậy, chúng ta thấy rằng thu, chi của NSNN hoàn toàn không
giống bất kỳ một hỡnh thức thu chi của một loại quỹ nào. Thu của
NSNN phần lớn đều mang tính chất bắt buộc, cũn cỏc khoản chi của
NSNN lại mang tớnh chất khụng hoàn lại. Đây là đặc trưng nổi bật của
NSNN trong bất cứ một Nhà nước nào. Xuất phát từ quyền lực của Nhà
nước và các nhu cầu về tài chính để thực hiện chức năng quản lý và điều
hành của Nhà nước đối với nền kinh tế - xó hội. Do nhu cầu chi tiờu của
mỡnh, Nhà nước đó sử dụng quyền lực thụng qua hệ thống phỏp luật tài
chớnh buộc mọi phỏp nhõn và thể nhõn phải đóng góp một phần thu
nhập của mỡnh cho NSNN, tức là cỏc chủ thể kinh tế thực hiện nghĩa vụ
của mỡnh với Nhà nước. Sự bắt buộc đó là hoàn toàn khách quan, vỡ lợi
ớch của toàn xó hội chứ khụng phải phục vụ cho lợi ớch riờng của Nhà
nước. Các đối tượng nộp thuế cũng hoàn toàn ý thức được nghĩa vụ của
mỡnh trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Họ cũng
hiểu được vai trũ của Nhà nước trong việc sử dụng các nguồn lực tài
chính nhằm thực hiện các chức năng kinh tế, xó hội, do nhõn dõn giao
phú. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước chính là yếu tố quyết định
tính chất hoạt động của NSNN, nói lên bản chất của NSNN. Mọi hoạt

động của NSNN đều nhằm vào việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài
chính, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các
chủ thể trong xó hội, phỏt sinh do Nhà nước tạo lập thông qua NSNN.
Đó là mối quan hệ kinh tế giữa phần nộp vào NSNN và phần để lại cho
cỏc chủ thể kinh tế trong xó hội. Phần nộp vào ngõn sỏch sẽ tiếp tục
được phân phối lại nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước và phục
vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xó hội.
Với quyền lực tối cao của mỡnh, Nhà nước có thể sử dụng các
công cụ sẵn có để bắt buộc mỗi thành viên trong xó hội cung cấp cho
mỡnh cỏc nguồn lực tài chớnh cần thiết. Song cơ sở tạo lập các nguồn
lực tài chính xuất phát từ sản xuất, mà chủ thể của sản xuất chính là các


11

thành viên trong xó hội. Mọi thành viờn đều có lợi ích kinh tế và đấu
tranh bảo vệ lợi ích kinh tế đó, nghĩa là thông qua quyền lực của mỡnh,
Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách giải quyết hài hoà giữa lợi ích
Nhà nước và lợi ích của các thành viên trong xó hội. Do vậy muốn cú
NSNN đúng đắn, lành mạnh thỡ phải tụn trọng và vận dụng cỏc quy luật
kinh tế một cỏch khỏch quan, phải dựa trờn cơ sở đảm bảo hài hoà lợi
ích của Nhà nước và lợi ích cho các thành viên trong xó hội. Một NSNN
lớn mạnh phải đảm bảo sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản
xuất kinh doanh, bao quát hết toàn bộ các nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn
thu để đáp ứng nhu cầu chi ngày càng tăng.
Như vậy bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế
giữa Nhà nước và các thành viên trong xó hội, phỏt sinh trong quỏ trỡnh
Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính, nhằm đảm bảo
thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế, xó hội của Nhà
nước.

Chức năng đầu tiên của NSNN là chức năng phân phối. Bất kỳ
một Nhà nước nào, muốn tồn tại và duy trỡ được các chức năng của
mỡnh, trước hết phải có nguồn lực tài chính. Đó là các khoản chi cho bộ
máy quản lý Nhà nước, cho lực lượng quân đội, cảnh sát, cho nhu cầu
văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xó hội, chi cho đầu tư phát triển v.v...
Nhưng muốn tạo lập được NSNN, trước hết phải tập hợp các khoản thu
theo luật định, cân đối chi tiêu theo tiêu chuẩn định mức đúng với chính
sách hiện hành. Đó chính là sự huy động các nguồn lực tài chính và đảm
bảo nhu cầu chi tiêu theo kế hoạch của Nhà nước, thực hiện việc cân đối
thu chi bằng tiền của Nhà nước.
Chức năng thứ hai của NSNN là giám đốc quá trỡnh huy động các
khoản thu và thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN
kiểm tra, giám sát quá trỡnh động viên các nguồn thu, tránh tỡnh trạng
trốn lậu thuế, chõy ỳ nộp thuế của các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp
NSNN hoặc bị lạm dụng, làm trái pháp luật, coi thường pháp luật và các
chính sách động viên khác. Trong khâu cấp phát nếu buông lỏng việc
kiểm tra, kiểm soát chi thỡ dễ dẫn đến tỡnh trạng làm sai luật định và các


12

chế độ chi quy định. Đồng thời thông qua kiểm tra, kiểm soát hoạt động
thu chi NSNN giúp ta giám sát việc chấp hành các chế độ, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Thông qua đó đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu
quả xó hội của vốn NSNN, hiệu quả của cỏc chủ trương, chính sách, chế
độ do Đảng và Nhà nước đề ra.
Như vậy, hai chức năng phân phối và giám đốc luôn có mối quan
hệ mật thiết với nhau, có vị trí và tầm quan trọng như nhau, không thể
coi chức năng này hơn chức năng kia, mà phải coi trọng cả hai chức
năng ở mọi lỳc, mọi nới trong tạo lập và sử dụng vốn NSNN.

b. Các khoản thu huy động vào NSNN và chi NSNN.
* Cỏc khoản thu NSNN.
- Cỏc khoản thu từ thuế, phớ, lệ phớ.
Đây là các khoản thu bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của các doanh
nghiệp, các tổ chức và công dân do những yờu cầu tất yếu về kinh tế chớnh trị - xó hội để bảo đảm các hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ
vững quốc phũng, an ninh và bảo đảm các sự nghiệp xó hội.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước.
Đây là các quan hệ thu thực hiện lợi ích kinh tế các loại tài sản và
vốn bằng tiền thuộc sở hữu toàn dân giao cho Nhà nước quản lý và cho
phộp cỏc chủ thể trong nền kinh tế sử dụng. Cỏc quan hệ này cũng là bắt
buộc, nhưng dựa trên các yếu tố kinh tế là đảm bảo cho chủ sở hữu thực
hiện được lợi ích kinh tế, quyền sở hữu các loại tài sản đưa vào quá trỡnh
sản xuất xó hội. Những ai sử dụng nhiều tài sản của Nhà nước vào mục đích
kinh doanh trên các địa bàn và những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao thỡ
phải đóng góp nhiều vào NSNN.
Trỡnh độ xó hội húa càng cao, quy mụ sở hữu càng lớn thỡ nguồn
thu tập trung vào NSNN và những nguồn lực tài chớnh cũng càng nhiều.
Thực hiện thu đúng, thu đủ từ các hỡnh thức này khụng chỉ đảm
bảo nguồn lực tài chính cho Nhà nước, mà cũn là hỡnh thức cụ thể thực


13

hiện quản lý chặt cỏc tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để bảo tồn và phát
triển chế độ sở hữu toàn dân.
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân thuộc đối tượng
phải đóng góp theo luật định.
- Cỏc khoản viện trợ: Hỡnh thức chủ yếu là viện trợ khụng hoàn
lại, của các tổ chức, các tổ chức phi chính phủ của các nước và quốc tế.
Nguồn thu này chủ yếu phụ thuộc vào đường lối đối ngoại của Đảng và

Nhà nước. Đây là nguồn thu nhất thời, không ổn định, không tính toán
trước một cách chính xác.
- Các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân
đối NSNN.
Khoản thu này được thực hiện thông qua quan hệ tín dụng Nhà
nước trong nước và quốc tế để sử dụng vào mục đích đầu tư phát triển
kinh tế. Đây là nguồn thu không thuộc quyền sở hữu Nhà nước, đến kỳ
hạn Nhà nước phải thanh toỏn. Vỡ vậy, việc sử dụng hỡnh thức này đũi
hỏi cỏc tổ chức Nhà nước phải tính toán nhu cầu đầu tư, hiệu quả kinh tế xó hội của cụng trỡnh và khả năng thu hồi vốn để trả nợ.
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
* Cỏc khoản chi lấy từ NSNN.
Chi NSNN là một hệ thống các quan hệ rất đa dạng, phức tạp, bao
gồm:
- Cỏc khoản chi phỏt triển kinh tế - xó hội.
- Các khoản chi bảo đảm quốc phũng, an ninh, bảo đảm hoạt động
của bộ máy Nhà nước.
Đây là những khoản chi bắt buộc trong NSNN của mọi quốc gia
nhằm để giữ vững an ninh tổ quốc, ổn định chính trị - xó hội.
Quy mô khoản chi này tuỳ thuộc vào việc xác định chức năng
nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Nhà nước xuất phát từ tỡnh hỡnh kinh tế chớnh trị - xó hội ở trong nước và quốc tế. Trên cơ sở xác định quy mô
chi tiêu cần thiết cho lĩnh vực này, tiến hành phân bổ các loại thuế trực


14

thu và gián thu, thông qua thực thu các sắc thuế mà bảo đảm nguồn lực
tài chính đầy đủ cho nhu cầu này.
- Các khoản chi trả nợ củ Nhà nước: Tuỳ theo mức độ bội chi của
ngân sách, quy mô và các điều kiện tín dụng Nhà nước về thời hạn trả nợ
và mức lói suất mà khoản chi này cú tỷ lệ cao hay thấp trong tổng chi

NSNN. Ở nước ta hiện nay, do hậu quả của việc quản lý vốn vay chưa
tốt, để thất thoát lớn và việc sử dụng hiệu quả thấp, cho nên nợ nước
ngoài tồn đọng rất lớn, cho nên chi trả nợ nước ngoài đang là vấn đề
căng thẳng. Khả năng trả nợ thấp, tuy nhiên chúng ta vẫn phải đảm bảo
uy tín trong quan hệ quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần
khống chế nhu cầu chi tiêu trong nước để dành tiền trả nợ.
Đối với vay từ nguồn trong nước dưới nhiều hỡnh thức, trong đó
chủ yếu là hỡnh thức tớn phiếu kho bạc Nhà nước ngắn hạn và tín phiếu
dài hạn để huy động vốn trong dân vào nhu cầu đầu tư. Hướng chủ yếu
của tín dụng Nhà nước là các khoản vay dài hạn đầu tư phát triển kinh tế.
Nhưng hỡnh thức này chỉ phỏt triển trong điều kiện sức mua đồng tiền
ổn định và lói suất hợp lý đem lại lợi ích người cho vay, đồng thời đảm
bảo cho Nhà nước thanh toán được nợ.
- Cỏc khoản chi dự trữ Nhà nước (từ 3 - 5% tổng số dư). Đây là
khoản dự phũng cho những nhu cầu đột xuất bất trắc có thể xảy ra trong
khi thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước.
- Các khoản chi viện chợ và các khoản chi khác theo quy định của
pháp luật.
NSNN bao gồm hai cấp: Trung ương và địa phương. Quan hệ giữa
hai cấp này được thực hiện theo nguyên tắc chủ yếu là phân định nguồn
thu và nhiệm vụ chi cụ thể; thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới để bảo đảm sự cân bằng, phát triển cân đối và thực
hiện được nhiệm vụ của các vùng, các địa phương.
NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ
phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày
càng cao vào đầu tư phát triển. Nếu có bội chi thỡ số bội chi đó phải nhỏ


15


hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu - chi ngân sách. Nếu có
vay để bù đắp bội chi NSNN thỡ phải trờn nguyờn tắc tiền vay được
không sử dụng cho tiêu dùng mà chỉ sử dụng vào mục đích phát triển và
có kế hoạch thu hồi vốn vay để đảm bảo cân đối ngân sách, chủ động trả
nợ đến hạn. Ngân sách địa phương được cân đối theo quy tắc: tổng số
chi không được vượt quá tổng số thu...

2. Chớnh sỏch tài khoỏ.
Chính sách tài khoá là chính sách của Nhà nước trong việc huy
động các nguồn thu vào NSNN và sử dụng nó trong hạn nhất định
(thường là 1 năm).
Chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế, đến kiềm
chế lạm phát và tỡnh trạng thất nghiệp; cú tỏc động đến điều chỉnh nền
kinh tế, cơ cấu kinh tế. Mục tiêu của chính sách tài khoá là bảo đảm các
nguồn lực tài chính, tạo môi trường và điều kiện cho phát triển kinh tế xó hội. Để đạt được mục tiêu đó, chính sách tài khoá cần xử lý nhiều
mối quan hệ, trong đó giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn chủ yếu sau
đây là nội dung cốt lừi của chớnh sỏch tài khoỏ:
+ Mõu thuẫn thu - chi NSNN. Đây là mâu thuẫn vốn có của bất kỳ
một quốc gia nào, đặc biệt gay gắt đối với các nước kém phát triển. Xuất
phát của mâu thuẫn này là do chi tiêu của Nhà nước lớn, trong khi nguồn
thu bị hạn chế. Vỡ vậy, cần cú những biện phỏp tớch cực để khống chế
nhu cầu chi của Nhà nước. Đồng thời tích cực thu đúng, thu đủ, tận dụng
các nguồn thu.
Để thực hiện cân đối thu - chi, cần giữ vững 2 đối cân đối chủ yếu:
Một là, thu từ các loại thuế trực thu và gián thu phải bảo đảm nhu
cầu chi thường xuyên của bộ máy Nhà nước, quốc phũng, an ninh...
Hai là, quy mô đầu tư phát triển kinh tế - xó hội phải tương ứng
với tổng số thu từ thực hiện lợi ích kinh tế các tài sản thuộc sở hữu Nhà
nước và các nguồn lực huy động được trong nước và ngoài nước thông
qua tín dụng dài hạn.



16

+ Mâu thuẫn giữa tập trung vào NSNN với tích luỹ trong các cơ sở
kinh doanh. Vỡ vậy chớnh sỏch tài khoỏ cần giải quyết tốt mõu thuẫn
này, đó là yêu cầu khách quan của phát triển kinh tế - xó hội.
Mâu thuẫn này hiện nay ở nước ta đang gay gắt, biểu hiện ở chỗ
tốc độ tăng thu vào NSNN năm sau cao hơn năm trước và lớn hơn nhiều
lần so với tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc dân, trong khi tỡnh trạng thất
thu từ thuế cũn lớn.
+ Mẫu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với việc thực hiện công
bằng xó hội. Nguyên nhân của mâu thuẫn này: từ một mặt NSLĐ xó hội
cũn thấp kộm, muốn tăng trưởng thỡ phải tớch luỹ, do đó tiêu dùng bị
hạn chế, không giải quyết đúng mức những vấn đề xó hội cấp bỏch. Nếu
ngược lại thỡ khụng đảm bảo thực hiện được mục tiêu kinh tế. Mặt khác,
do phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, sẽ dẫn tới phân hoá giàu
nghèo là không tránh khỏi. Vỡ vậy, để giải quyết mâu thuẫn trên, chính
sách tài khoá phải thể hiện nội dung điều tiết thu nhập sao cho hợp lý.
II. BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG VÀ VAI TRề CỦA NSNN NểI CHUNG, CỦA
HÀ GIANG NểI RIấNG TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI.

1. Bản chất và chức năng của NSNN nói chung.
Như trên đó trỡnh bày, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của
Nhà nước, là công cụ vật chất quan trọng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế xó hội. Cho nờn cú thể núi chức năng và nhiệm vụ cơ bản của NSNN là
động viên hợp lý các nguồn thu (đặc biệt là thuế, phí, lệ phí). Đồng thời
tổ chức và quản lý chi tiờu NSNN, thực cõn đối thu - chi. Tóm lại,
NSNN có các chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Một là, chức năng phân phối NSNN.
Bộ máy Nhà nước muốn thực hiện được sự hoạt động của mỡnh

một cỏch bỡnh thường và ổn định để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm
vụ là quản lý mọi mặt của đời sống xó hội của một quốc gia thỡ nhất
thiết phải có nguồn NSNN đảm bảo.
Với quyền lực tối cao của mỡnh, Nhà nước sử dụng các công cụ,
các biện pháp bắt buộc các thành viên trong xó hội cung cấp cho mỡnh


17

cỏc nguồn lực tài chớnh cần thiết. Nhưng cơ sở để hỡnh thành nguồn lực
tài chớnh đó là từ sự phát triển kinh tế, phỏt triển sản xuất kinh doanh.
Vỡ vậy, muốn động viên được nguồn thu NSNN ngày càng tăng và có
hiệu quả thỡ nền kinh tế núi chung, sản xuất kinh doanh núi riờng phải
được phát triển với tốc độ nhanh, bền vững và có hiệu quả cao. Vỡ vậy,
Nhà nước trong quỏ trỡnh quản lý kinh tế - xó hội phải nắm được quy
luật kinh tế và tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Đồng thời phải
bảo đảm hài hoà các quan hệ lợi ích của các chủ thể của nền kinh tế.
Một NSNN vững mạnh là một ngân sách mà cơ chế phân phối của
nó đảm bảo được sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất
kinh doanh nuôi dưỡng nguồn thu, trên cơ sở đó tăng được thu để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên.
Mặt khỏc, một NSNN vững mạnh cũn phải thể hiện việc phõn
phối và quản lý chi đúng đắn, hợp lý và hiệu quả. Nhà nước sử dụng
khối lượng tài chính từ nguồn NSNN để chi tiêu vào mục đích phát triển
kinh tế - xó hội và chi tiờu cho sự hoạt động của bộ máy Nhà nước. Như
vậy, chức năng của NSNN, ngoài việc động viên nguồn thu thỡ cũn phải
thực hiện quản lý và phõn phối chi tiờu sao cho cú hiệu quả. Đó cũng là
một tất yếu khách quan.
Từ sự phân tích trên đây, ta có thể hiểu được bản chất của NSNN đó là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các thành viên
trong xó hội, phỏt sinh trong quỏ trỡnh Nhà nước huy động và sử dụng

các nguồn lực tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện trong các chức
năng quản lý và điều hành nền kinh tế - xó hội của Nhà nước. Hoạt động
của NSNN luôn luôn gắn liền với thực hiện các chức năng của Nhà
nước.
Hai là, chức năng giám đốc quá trỡnh huy động các nguồn thu và
thực hiện các khoản chi tiêu.
Thực hiện chức năng này, Nhà nước thông qua NSNN để biết
được nguồn thu - chi nào là cơ bản của từng thời kỳ, từng giai đoạn và
do đó có những giải pháp để làm tốt thu - chi. Nhà nước định ra cơ cấu


18

thu- chi hợp lý ; theo dừi cỏc phỏt sinh và những nhõn tố ảnh hưởng đến thuchi...
Tóm lại, NSNN có hai chức năng cơ bản- chức năng phân phối và
chức năng giám đốc. NSNN không thể cân đối được nếu như không thực
hiện đầy đủ hai chức năng đó, bởi vỡ: nếu khụng cú sự giỏm đốc trong
việc động viên khai thác hợp lý cỏc nguồn thu và do đó sẽ dẫn đến tỡnh
trạng thất thu dưới nhiều hỡnh thức. Nếu khụng thực hiện tốt chức năng
phân phối thỡ cũng khụng thể động viên được nguồn thu cho NSNN.
Chức năng phân phối và chức năng giám đốc của NSNN đều có vị
trí và tầm quan trọng của nó. Do đó, cần phải coi trọng cả hai chức năng
đó và tổ chức chỉ đạo để các cơ quan chức năng thực hiện tốt hai chức
năng đó của NSNN.
2. Quan điểm cơ bản về quản lý và sử dụng NSNN.
Để thực hiện tốt công tác quản lý và sử dụng NSNN, tuỳ theo chức
năng, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành, cần phải quán triệt các quan
điểm sau đây:
+ Trong chính sách tạo vốn của NSNN phải quán triệt tư tưởng
không tận thu để bao chi, mà phải động viên nguồn thu ngân sách một

cách hợp lý để đáp ứng nhu cầu chi trên cơ sở vừa bồi dưỡng và phát
triển nguồn thu, vừa kiểm soát và tập trung khai thác một cách hợp lý và
cú hiệu quả cỏc nguồn thu.
+ Thực hiện tốt cụng tỏc phõn phối và sử dụng vốn NSNN theo
nguyờn tắc tiết kiệm, hiệu quả, chấm dứt tỡnh trạng cỏc khoản chi bao
cấp tràn lan của cơ chế cũ trước đây. Thực hiện phương châm "Nhà nước
và nhân dân cùng làm".
+ Thực hiện phương pháp cân đối ngân sách một cách khoa học để
vừa phát huy tốt các nguồn lực bên trong và tranh thủ cao độ, có hiệu
quả nguồn lực tài chính bên ngoài; vừa phù hợp với pháp luật của Nhà
nước ta, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo đảm sự chủ động của
NSNN.


19

+ Đổi mới chế độ phân cấp quản lý NSNN theo hướng giảm bớt
chức năng quản lý kinh tế của chính quyền địa phương, tránh để tỡnh
trạng phõn tỏn và sử dụng kộm hiệu quả nguồn vốn ngõn sỏch.
+ Ban hành đồng bộ hoá và tiếp tục hoàn thiện luật NSNN. Đồng thời
giáo dục, nâng cao trỡnh độ cho toàn dân, cho các chủ thể của nền kinh tế
cũng như trỡnh độ chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chức năng trực tiếp
làm công tác quản lý NSNN. Nghiờm chỉnh chấp hành luật NSNN.
3. Vai trũ của NSNN trong cỏc lĩnh vực kinh tế - chớnh trị - xó
hội.
Chỳng ta biết rằng, trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động kinh tế,
sản xuất kinh doanh chủ yếu của các thành phần kinh tế, các ngành kinh
tế chủ yếu tuân theo sự điều tiết của các quy luật vốn có của thị trường.
Nhận thức được điều đó, Nhà nước ta đó cú những cơ chế, chính sách
hạn chế sự can thiệp và kiểm soát trực tiếp đối với các hoạt động kinh tế,

nhất là các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước ta với chức năng
của mỡnh là thực hiện quản lý hành chớnh kinh tế bằng cỏc cụng cụ
phỏp luật, kế hoạch hoỏ và cỏc chính sách do Nhà nước ban hành tuân
theo pháp luật hiện hành do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội ban
hành. Đó chính là sự đổi mới cơ bản về cơ chế quản lý của Nhà nước ta:
từ chỗ quản lý, điều hành nên kinh tế một cách trực tiếp đến chỗ quản lý
và điều hành mọi hoạt động kinh tế- xó hội thụng qua việc tạo mọi điều
kiện, môi trường, hành lang (trong đó có cả hành lang pháp lý) để cho
nền kinh tế phát triển vừa tuân theo qui lụt kinh tế khách quan, vừa bảo
đảm sự định hướng XHCN, nhằm nhanh chóng đạt được các mục tiêu
mà Đảng ta đó đề ra trong các kỳ đại hội.
Trong tất cả các công cụ để quản lý mọi hoạt động kinh tế- xó hội, Nhà
nước ta hết sức quan tâm đến công cụ NSNN, vỡ nú là yếu tố vật chất vụ
cựng quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Với cơ chế cũ trước đây, Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động
kinh tế vi mô. Trong cơ chế mới- cơ chế thị trường các vấn đề của kinh
tế sẽ được giải quyết theo qui luật của thị trường và các quan hệ cung-


20

cầu. Nhà nước chỉ dùng các biện pháp về thuế, các khoản chi ngân sách
để can thiệp nhằm ổn định nên kinh tế và phát triển theo mục tiêu đó
định.
Hoạt động của NSNN gắn với hoạt động của nền kinh tế thị
trường, do đó thu NSNN luôn luôn biến đổi và phụ thuộc vào nhịp độ
phát triển kinh tế và hiệu quả kinh tế. Xu hướng chung là khi nền kinh tế
tăng trưởng sẽ làm tăng khả năng tăng khối lượng thu và ngược lại. Tuy
nhiên, điều cần lưu ý ở đây là mức thu NSNN phải gắn với nhịp độ tăng

của nền kinh tế, nếu tận thu quá mức sẽ dẫn tới tỡnh trạng suy thoái do
không kích thích được sản xuất và đầu tư.
Trong bất kỳ tỡnh huống nào, sức ộp chi luụn luụn là gỏnh nặng
cho NSNN. Đặc biệt là trong giai đoạn đầu khi mà nền kinh tế chưa kịp
phát triển, trong khi đó phải nhanh chóng giải quyết nhiều vấn đề bức
xỳc của xó hội. Bờn cạnh đó chi NSNN cũn bị sức ộp của tỡnh trạng cú
lạm phỏt cao xẩy ra. Khi cú lạm phỏt cao thỡ khối lượng ngân sách tăng
chậm hơn nhu cầu chi, vỡ vậy nếu xử lý khụng tốt sẽ dẫn đến rối loạn,
gây thiệt hại về nhiều mặt cho nền kinh tế.
Túm lại, NSNN cú vai trũ vụ cựng quan trọng. Bởi lẽ NSNN cú
chức năng huy động nguồn lực tài chính để hỡnh thành cỏc quỹ tiền tệ
tập trung, đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Đồng thời NSNN
cũn thực hiện cõn đối bằng tiền giữa các khoản thu và các khoản chi tiêu
của Nhà nước. Đây là vai trũ cơ bản của NSNN mà bất kỳ một quốc gia
nào cũng phải thực hiện.
NSNN là một cụng cụ quản lý quan trọng trong điều chỉnh nền
kinh tế vĩ mô của đất nước, đặc biệt thể hiện rất rừ trong nền kinh tế thị
trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Vai trũ đó đó được thể hiện cụ thể ở
các lĩnh vực sau:
- Về kinh tế: Nhà nước tạo các môi trường và điều kiện để xây
dựng cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và
chống độc quyền. NSNN đảm bảo cung cấp kinh phí đầu tư xây dựng và
nâng cấp cơ sở kết cấu hạ tầng, hỡnh thành cỏc doanh nghiệp Nhà nước
thuộc các ngành kinh tế, các lĩnh vực kinh tế then chốt. Trên cơ sở đó


21

từng bước làm cho kinh tế Nhà nước đảm đương được vai trũ chủ đạo
nền kinh tế nhiều thành phần.

Mặt khác, trong những điều kiện cho phép thỡ nguồn kinh phớ từ
NSNN cũng cú thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các
doanh nghiệp thuộc các TPKT khác để các doanh nghiệp đó có cơ sở về
tài chính tốt hơn và do đó có được phương hướng kinh doanh có hiệu quả
hơn.
- Về mặt xó hội: Thụng qua hoạt động thu, chi NSNN cấp phát
kinh phí cho tất cả các lĩnh vực hoạt động vỡ mục đích phúc lợi xó hội.
Thụng qua cụng cụ ngõn sỏch, Nhà nước có thể điều chỉnh các mặt hoạt
động trong đời sống xó hội như: Thông qua chính sách thuế để kích thích
sản xuất đối với những sản phẩm cần thiết cấp bách, đồng thời có thể
hạn chế sản xuất những sản phẩm không cần khuyến khích sản xuất.
Hoặc để hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng hợp lý. Thụng qua nguồn vốn
ngõn sỏch để thực hiện hỡnh thức trợ cấp giỏ đối với các hoạt động thuộc
chính sách dân số, chính sách việc làm, chính sách thu nhập, chính sách bảo
trợ xó hội v.v...
- Về thị trường: Thông qua các khoản thu, chi NSNN sẽ góp phần
bỡnh ổn giỏ cả thị trường. Ta biết rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường,
sự biến động giá cả đến mức gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nền kinh
tế có nguyên nhân từ sự mất cân đối cung - cầu. Bằng công cụ thuế và dự
trữ Nhà nước can thiệp đến quan hệ cung - cầu và bỡnh ổn giỏ cả thị
trường.
Hoạt động thu chi NSNN có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề lạm
phát. Lạm phát là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế. Lạm phát xảy
ra khi mức chung của giá cả và chi phí tăng. Để kiềm chế được lạm phát
tất yếu phải dùng các biện pháp để hạ thấp giá, hạ thấp chi phí. Bằng
biện pháp giải quyết tốt thu chi NSNN có thể kiềm chế, đẩy lùi được lạm
phát, góp phần thúc đẩy kinh tế - xó hội phỏt triển.
4. Vai trũ của NSNN trong việc phỏt triển kinh tế - xó hội của
tỉnh Hà Giang.



22

Hà Giang là một tỉnh miền nỳi biờn giới, trỡnh độ dân trí thấp, điều
kiện địa lý phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, lại có nhiều dân tộc cựng
chung sống. Sau chiến tranh giải phúng dõn tộc, tỉnh Hà Giang cũn chịu
hậu quả nặng nề của 10 năm chiến tranh bảo vệ biên giới. Hầu như các cơ
sở kinh tế đều bị tàn phá nặng nề, đời sống vật chất, tinh thần của đồng
bào các dân tộc hết sức khó khăn. Tháng 10/1991 khi tách tỉnh, kết cấu hạ
tầng hầu như không có gỡ. Trong những năm qua được sự quan tâm giúp
đỡ của Trung ương, nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang đó khắc phục khú
khăn, từng bước ổn định đời sống, phát triển sản xuất. Đạt được những
thành tích đó, ngoài sự lónh chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước từ
Trung ướng đến cơ sở, cũn cú cỏc nhõn tố khỏc, trong đó có vai trũ của
NSNN. Nhờ cú nguồn thu NSNN mới đảm bảo chi thường xuyên cho sự
hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và các cơ quan
hành chính sự nghiệp, kinh tế, văn hoá, xó hội, an ninh quốc phũng. Nhờ
cú NSNN mà phần nào đó đáp ứng được nhu cầu các khoản chi cấp bách,
đặc biệt là chi cho đầu tư phát triển chiếm tỷ lệ khá cao trong chi ngân
sách. Nhờ đó mà hiện nay ở Hà Giang nhiều cơ sở hạ tầng kinh tế, văn
hoá xó hội đó và đang được xây dựng, tu bổ, nâng cấp và đưa vào sử
dụng.
Trong nụng nghiệp, chi NSNN tập trung cho việc ứng dụng khoa
học- kỹ thuật vào sản xuất, đầu tư để tạo điều kiện thực hiện chuyển dịch
cơ cấu cây trồng vật nuôi và cơ cấu mùa vụ v.v... Chẳng hạn đầu tư cho
việc lai tạo giống cây con cho năng suất cao. Tuy lâm nghiệp đó chỳ ý
đầu tư để đẩy mạnh trồng mới rừng, bảo vệ và tỏi sinh rừng, phỏt triển
mụ hỡnh rừng trang trại, vườn rừng, theo phương thức lâm-nông kết
hợp.
Trong lĩnh vực văn hoá- xó hội: NSNN đó dành một tỷ lệ thớch

đáng cho đầu tư xây dựng và phát triển các cơ sở vật chất- kỹ thuật cho
lĩnh vực giáo dục đào tạo, hệ thống trường chuyên, lớp chọn, trường dân
tộc nội trú, trường cao đẳng sư phạm. Mặc dù nguồn thu ngân sách cũn
hạn chế, nhưng tỉnh cũng rất quan tâm đầu tư cho lĩnh vực y tế và dân số
kế hoạch hoá gia đỡnh. Cụ thể là đầu tư nâng cấp cải tạo các cơ sở khám
chữa bệnh, tạo điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được tốt hơn.


23

Ngoài ra NSNN cũn thực hiện một loạt cỏc chương trỡnh khỏc
như: củng cố mở rộng nâng cấp các đường giao thông liên huyện, liên
xó, đầu tư để xây dựng đường dây, trạm biến áp để đưa điện lưới quốc
gia về các huyện vùng cao. Đầu tư xây dựng các cơ sở phát thanh, truyền
hỡnh, bưu điện... để đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá, tinh thần cho các
dân tộc trong tỉnh. Đồng thời cũng nhằm tạo các phương tiện tuyên
truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, để nhân dân các dân
tộc hiểu rừ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trên tất cả các
mặt của đời sống xó hội, để họ có sự tin tưởng và tự giác thực hiện.
Đối với lĩnh vực thu NSNN: thông qua các hỡnh thức hoạt động
thu NSNN mà đó động viên được ngày càng nhiều hơn, tốt hơn nguồn
lực tài chính cho địa phương. Sự động viên đó, một mặt đảm bảo nguồn
thu, tránh thất thu cho NSNN, nhưng đồng thời cũng qua đó thực hiện sự
bỡnh đẳng về quyền và nghĩa vụ đóng góp của nhõn dõn, của cỏc chủ
thể kinh tế, cỏc TPKT trong tỉnh.
Túm lại, NSNN cú vai trũ vụ cựng quan trọng trong sự phỏt triển
kinh tế - xó hội núi chung. Đối với tỉnh Hà Giang thỡ vai trũ NSNN lại
càng đặc biệt quan trọng. Nhờ có nguồn thu NSNN mà đó tạo điều kiện
về nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế xó hội, đảm bảo kinh phí chi tiêu cho các hoạt động của bộ máy chính
quyền và các tổ chức Đảng, đoàn thể, các lực lượng vũ trang an ninh...

Tuy nhiờn, hiện nay NSNN của tỉnh cũn hết sức nhỏ bé, chưa đáp
ứng nhu cầu nói trên. Do đó, chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu để
tỡm ra phương hướng và giải pháp phù hợp, nhằm thực hiện công tác
NSNN tỉnh Hà Giang.

Phần thứ hai
TèNH HèNH CƠ BẢN VỀ TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ THỰC
TRẠNG CễNG TÁC QUẢN Lí, SỬ DỤNG NSNN TỈNH HÀ GIANG
I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH HÀ GIANG.


24

1. Về điều kiện tự nhiên.
* Vị trí địa lý: Hà Giang là tỉnh miền nỳi phớa Bắc của Việt Nam,
nằm ở vị trớ từ 21023' đến 22010' vĩ bắc và 104025' đến 105034' kinh
đông, cách thủ đô Hà Nội trên 320 km.
Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, có đường biên giáp
Trung Quốc dài trên 270 km.
Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Lào Cai và Yên
Bái, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang.
Hà Giang cú 10 huyện, thị: Bắc Giang, Vị Xuyờn, Bắc Mờ, Hoàng
Su Phỡ, Xớ Mần, Quản Bạ, Yờn Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc và thị xó Hà
Giang.
* Địa hỡnh:
- Hà Giang có địa hỡnh nỳi cao chia cắt phức tạp, độ dốc lớn,
nhiều dóy nỳi đá có độ cao trên 2000m, tạo nên nhiều tiểu vùng với các
điều kiện về địa hỡnh, khớ hậu, đất đai, nguồn nước và dân cư khác biệt,
độc đáo, có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế đa dạng theo cơ cấu
nông - lâm - công nghiệp với nhiều sản phẩm phong phú, có nhiều cảnh

quan thiên nhiên đẹp để phát triển du lịch, dó ngoại...
- Tuy nhiờn, bờn cạnh những thuận lợi trờn cũn khụng ớt khú khăn
do địa hỡnh chia cắt mạnh, độ dốc lớn, nhiều dóy nỳi đá nên không ít
khó khăn trong phát triển sản xuất nông nghiệp đặc biệt ở các huyện vùng
cao.
* Đất đai:
Tổng diện tớch tự nhiờn là: 788.437 ha (7884,37 km2).
Trong đó:
- Đất nông nghiệp

: 106.425,113 ha

+ Đất trồng cây hàng năm

: 39.817,77 ha

Đất ruộng lúa, mầu

: 28.372,09 ha

Đất nương rẫy

: 52.192,03 ha


25

Đất cây hàng năm khác

: 9.353,65 ha


+ Đất vườn tạp

: 4.908,20 ha

+ Đất dùng vào chăn nuôi

: 1.140,45 ha

+ Đất cây lâu năm

: 9.874,87 ha

+ Đất có mặt nước nuôi thuỷ sản

: 683,75 ha

- Đất nông nghiệp

: 279.450,7 ha

+ Đất có rừng tự nhiên

: 229.587,96 ha

Đất có rừng sản xuất

: 34.071,03 ha

Đất cú rừng phũng hộ


: 177.439,97 ha

Đất có rừng đặc dụng

: 17.191,36 ha

+ Đất có rừng trồng

: 49.861,09 ha

Đất có rừng sản xuất

: 41.030,68 ha

Đất có rừng phũng hộ

: 8.793,46 ha

+ Đất cây ươm giống

: 1,65 ha

- Đất chuyên dùng

: 4.183,33 ha

- Đất ở

: 5.973,1 ha


- Đất chưa sử dụng

: 392.404,74 ha

Đất bằng chưa sử dụng

: 1.663,77 ha

Đất đồi núi chưa sử dụng

: 313.165,67 ha

Đất có mặt nước chưa SD

: 10,9 ha

Sụng suối

: 5.500,67 ha

Núi đá không cây

: 71.480,88 ha

Đất chưa sử dụng khỏc

: 627,9 ha

Qua số liệu trên thấy được đất đai tự nhiên của Hà Giang rất rộng,

tuy nhiên việc khai thác và sử dụng vào mục đích sản xuất nông, lâm
nghiệp chưa được nhiều, hiện tại vẫn cũn trờn 314.828 ha đất bằng và


×