Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Vai trò chủ quan hồ chí minh đối với việc hình thành tư tưởng của người- tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.4 KB, 32 trang )

Lời mở đầu
Lịch sử cách mạng nước ta hơn 75 năm qua gắn liền với tên tuổi, sự
nghiệp, tư tưởng và đạo đức của Nguyễn ái Quốc-Hồ Chí Minh.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước các dân tộc thường có những vĩ
nhân mà cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và hành động gắn liền với cả một giai
đoạn lịch sử sôi động, đầy biến cố của dân tộc và thời đại mình, phản ánh ý
chí, nguyện vọng của các dân tộc và bằng hoạt động của mình đóng góp vào
sự nghiệp phát triển của thời đại. Nhưng không ai có được sự nghiệp lừng lẫy
như Hồ Chí Minh, không ai có được tầm vóc thời đại, được loài người tiến bộ
ca ngợi và thừa nhận như Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Người đã được xác lập và
củng cố vững chắc nhờ công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại mà Người đã cống
hiến cho Cách mạng Việt Nam như tìm ra đường lối cứu nước, giải phóng dân
tộc theo con đường Cách mạng Vô sản, Người đã có công đầu trong việc
truyền bá và vận dụng sáng tạo Chủ Nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, đã xây
dựng những tiền đề tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của một chính
Đảng của một giai cấp công nhân ở Việt nam đã thống nhất các tổ chức cộng
sản đầu tiên ở trong nước để sáng lập nên Đảng cộng sản Việt nam. Người là
nhà chiến lược thiên tài, khai phá con đường đi lên chủ nghĩa Xã hội và là nhà
giáo dục vĩ đại.
Công lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại của Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đưa
Người lên địa vị người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà lý luận sáng
tạo của Cách mạng Việt Nam. Nhân dịp kỷ niệm ngày sinh lần thứ 100 của
Người, diễn ra vào lúc Chủ Nghĩa Xã Hội thế giới đang lâm vào khủng hoảng
và đổ vỡ, nhiều giá trị được thẩm định lại, nhiều tên tuổi lớn được đánh giá
lại, nhưng các chính khách và học giả tiến bộ trên thế giới lại tìm thấy trong
tư tưởng, lý luận và phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh những giá trị
có tầm thời đại, gợi ra những phương hướng, biện pháp giúp loài người đi tới
một tương lai tốt đẹp.
1



Chính vì những lý do trên nên em đã chọn đề tài:
“Vai trò chủ quan Hồ Chí Minh đối với việc hình thành tư tưởng của
Người”
làm đề tài nghiên cứu cho tiểu luận của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiờn cứu.
Từ trước đến nay đó cú rất nhiều tỏc giả đề cập đến vấn đề này, tuy
nhiên, trong các tác phẩm như: Hồ Chí Minh với Phật giáo, Hồ Chí Minh với
Nho giáo, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Bản sắc văn hoá Việt Nam,… hay một số
tạp chí khác, vẫn chưa nêu lên một cách hệ thống, cụ thể và trọn vẹn về vấn
đề này. Vỡ thế, việc nghiờn cứu đề tài mong muốn được góp phần hệ thống
hoá và làm rừ hơn sự tiếp thu, phát huy tinh hoa văn hoá phương Đông của
Hồ Chí Minh và những dấu ấn để lại của nó trong cuộc đời, sự nghiệp của
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Mục đích vấn đề nghiờn cứu.
Đề tài đi vào nghiên cứu các giá trị văn hoá phương Đông, những ảnh
hưởng của nó với người Việt Nam. Từ đó, tỡm hiểu sõu sự tiếp thu phỏt huy
của Hồ Chớ Minh trong từng giai đoạn lịch sử với quá trỡnh hỡnh thành và
phỏt triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Cuối cùng, hi vọng đề tài sẽ là tài liệu
nghiên cứu bổ ích cho việc học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như cho
các độc giả yêu thích tỡm hiểu người con vĩ đại của dân tộc.
4. Giới hạn thời gian nghiờn cứu:
Từ ngày 5-1-2007 đến ngày 25-1-2007.
5. Bố cục đề tài.
Đề tài có 3 phần: Phần mở đầu, nội dung và kết luận. Phần nội dung
gồm 2 chương lớn, trong đó:
Chương 1: Giá trị văn hoá phương Đông và những ảnh hưởng của nó
đối với Việt Nam.
Chương 2: Hồ Chí Minh tiếp thu và phát huy tinh hoa văn hoá phương
Đông.
6. Phương pháp nghiên cứu:

Để hoàn thanh đề tài này, tôi đó sử dụng nhiều phương pháp: phương
pháp tổng hợp, phân tích, lô gíc, lịch sử, so sánh, thống kê …

Để hoàn thành đề tài này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các
thầy, cô giáo trong khoa tư tưởng Hồ Chí Minh cùng các bạn đó động viên,
giúp đỡ tôi trong quá trỡnh thực hiện.

2


Tư tưởng Hồ Chí Minh là một chuyên ngành mới, tuy nhiên có rất
nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề này, nhất là từ khi môn Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã được đưa vào giảng dạy ở các trường Đại học, Cao đẳng. Vì vậy bài
tiểu luận sẽ tập trung làm rõ về vai trò chủ quan của Hồ Chí Minh đối với việc
hình thành Tư tưởng của Người.
Trong quá trình nghiên cứu làm tiểu luận có thể còn một số thiếu sót,
kính mong quý thầy cô và các bạn đóng góp và bổ sung để bài tiểu luận của
em có thể hoàn thiện hơn.

3


Phần Nội dung
Chương I:
Lý luận chung
1.1. Khái niệm
1.1.1. Chủ quan
Trong triết học chủ quan là cái do ý thức và ý muốn con người tạo ra, đối
với nó là khách quan ( sự vật và hiện tượng thế giới xung quanh) khách quan
mục tiêu hoạt động của chủ quan. Các nhà triết học duy tâm không thừa nhận thế

giới vật chất tồn tại độc lập đối với ý thức do đó không thừa nhận nhận thức là
sự phản ánh hiện thực khách quan. Đối với nhiều nhà duy tâm chủ quan, tất cả
mọi cái đang tồn tại đều là phức hợp những cảm giác của con người. Do đó nhận
thức chẳng qua là sự nhận thức các cảm giác, biểu tượng của con người.
1.1.2. Vai trò chủ quan.
Chủ quan duy vật thừa nhận con người có khả năng nhận thức phản ánh
hiện thực khách quan vào bộ óc con người.Nhờ có nhận thức, con người mới có
ý thức về thế giới. Nhưng nhận thức không phải là một hành động tức thời, giản
đơn, máy móc và thụ động mà là một quá trình biện chứng, tích cực, sáng tạo.
Quá trình nhận thức diễn ra theo con đường từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và đến thực tiễn. Vì vậy “trong lý luận nhận thức cũng như trong tất
cả các lĩnh vực khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là
đừng giả định rằng nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch và có sẵn, mà phải
phân tích xem sự hiểu biết nảy sinh ra từ sự không hiểu biết như thế nào?”
1.2. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà triết học, nhưng trong tư
tưởng của Người lại luôn nhất quán một thế giới quan, một nhân sinh quan,
một hệ thống tư duy triết học. Trong cuộc đời hoạt động và đấu tranh Cách
mạng của mình để cứu dân cứu nước, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa
4


xã hội, Hồ Chí Minh đã kết hợp học với hành, lý luận với thực tiễn. Người
vừa làm, vừa học, làm đủ mọi nghề để kiếm sống và cũng là để học. Người đã
khổ công rèn luyện trong học tập, nghiên cứu, không chỉ tích lũy tri thức, học
vấn và văn hóa mà Người còn trau dồi phương pháp tu dưỡng đạo đức, rèn
luyện bản lĩnh để hoạt động sáng tạo và nhất quán, tự hình thành cho mình lý
thuyết khoa học, chủ kiến chính trị và đạo lý nhân văn. Do đó, toàn bộ hệ
thống lý luận và phương pháp Hồ Chí Minh đều lấy thực tiễn làm điểm xuất
phát. Khi nghiên cứu các chủ nghĩa, các học thuyết trên thế giới để cuối cùng

Người lựa chọn Chủ Nghĩa Mác-Lênin, Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học.
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là thế giới quan duy vật và phương
pháp biện chứng Mácxit được cụ thể hóa và chứng thực ở Cách mạng Việt
Nam. Đó không chỉ là quan niệm mà còn là hành động và hơn nữa, chính thực
hành triết học duy vật biện chứng vào đời sống, vào thực tiễn Cách mạng. Tư
tưởng triết học Hồ Chí Minh nổi bật ở hoạt động thực tiễn, ở sự thực hành
phép biện chứng duy vật trong chính trị, trong đời sống chính trị- xã hội, thực
hành triết học chính trị - Xã hội. Nói cách khác triết học Hồ Chí Minh là giải
phóng, là phát triển. Có một triết lý sâu sắc, phong phú, đa dạng ẩn chứa trong
mọi tác phẩm của Người, tức là trong triết học nhân sinh của Người, ở trong
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã tỏ rõ năng lực tư duy biện chứng và tính nhất quán triệt
để và quan điểm chính trị của mình. Người đã thấm nhuần bản chất khoa học và
Cách mạng Chủ Nghĩa Mác-Lênin, thống nhất lý luận và thực tiễn của phong
trào vận động chính trị, kết hợp hài hòa mục đích trực tiếp của đường lối chính
trị. Hồ Chí Minh đã vận dụng quan điểm và phương pháp duy vật biện chứng
của Chủ Nghĩa Mác một cách sáng tạo để xác lập đường lối chính trị ở Việt Nam
ở thế kỷ XX và Người đã thực sự tỏ rõ mình là một người có tư tưởng đổi mới,
có đầu óc cách tân, có năng lực và bản lĩnh sáng tạo lớn trong tư duy và hành
động.

5


Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh không những có sức thuyết phục về lý
luận, phương pháp mà còn có sức truyền cảm về đạo đức và tinh thần, sức
thúc đẩy hướng dần về mặt hoạt động và lối sống đối với con người và cộng
đồng xã hội. Người đã có những cống hiến sâu sắc đối với phong trào Cách
mạng thế giới bởi Người đã vạch ra lý luận chống chủ nghĩa thực dân đồng
thời truyền bá và thực hành lý luận đó ở Việt Nam. Người luôn nêu cao tinh

thần độc lập chủ động trong tư duy và hành động, không có đầu óc đổi mới
thì không thể có được cách tiếp cận mới mẻ, độc đáo của Hồ Chí Minh đối
với Chủ Nghĩa Mác-Lênin, Chủ Nghĩa Xã Hội và xây dựng Chủ Nghĩa Xã
Hội ở Việt Nam. Hồ Chí Minh luôn coi Chủ Nghĩa Mác-Lênin không chỉ là
học thuyết lý luận khoa học mà còn là phương pháp, đạo lý, là văn hóa.
Người đã vận dụng tài tình phép biện chứng và lý thuyết phát triển hài
hòa vào trong thực tiễn. Nó còn thấm nhuần cả tinh thần khoan dung và văn
hóa khoan dung nữa mà tiêu biểu nhất là phương châm giải quyết công việc
và các quan hệ con người. Chú trọng sự thống nhất, khắc phục những khác
biệt, vì nghĩa lớn, vì mục tiêu, vì đạo đạo lý làm người nữa mà phải tránh cái
hẹp hòi, định kiến, làm hỏng việc.
1.3 Những yếu tố góp phần hình thành nên Tư tưởng Hồ Chí Minh
1.3.1. Nhận thức phương pháp tư duy, tìm cái mới
Hồ Chí Minh lớn lên trong một cái nôi phong trào yêu nước, tiếp thu giáo
dục của gia đình, sự ảnh hưởng của quê hương, bằng sự học tập của bản thân, sự
gần gũi của nhân dân lao động và nhờ tác động của phong trào chống Pháp năm
1908, Người bắt đầu hoạt động Cách mạng. Hồ Chí Minh trân trọng mọi công
phu tìm kiếm, khâm phục tâm huyết của các bậc tiền bối, nhưng có sự phê phán,
thấy rõ tất cả các con đường đã được chọn đều không có hiệu quả và từ sự xác
định phương hướng, bằng nhận thức và cả bằng linh cảm của mình, Hồ Chí
Minh đã quyết định ra nước ngoài để xem thế giới, quan sát cuộc sống của dân
tộc, nghiên cứu cách làm của các nước, cốt tìm ra con đường cho dân tộc Việt
Nam tự giải phóng mình. Xuất thân trong gia đình nhà nho đỗ đạt, bản thân đã
6


từng làm thầy giáo, nhưng Anh không ra đi trong vai thi sĩ, mà từ lớp “sĩ”, anh đi
thẳng xuống lớp “công”, hòa mình vào cuộc sống của người lao động, thực hiện
“vô sản hóa”, không chút mặc cảm tự ti. Chính nhờ cách đó mà anh đến được
với phong trào công nhân và sớm tiếp thu được chủ nghĩa Mác- Lênin.

Năm 1911, lúc 21 tuổi, Hồ Chí Minh rời nước ra đi tìm đến phương trời
mới, với biết bao hoài bão và lòng tin. Trong 10 năm bôn ba nhiều lục địa, Hồ
Chí Minh đã gặp một thế giới đang quằn quại dưới ách thống trị của chủ nghĩa
đế quốc. Người đã có dịp đến tận nơi để tự mình quan sát chủ nghĩa đế quốc và
Xã hội phương tây tại những nước và những thành phố Âu- Mỹ tiêu biểu nhất.
Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài là để tìm đường cứu nước, giải phóng đồng
bào:”Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi điều đó là tất cả những gì
tôi muốn, tất cả những gì tôi hiểu”. Toàn bộ tư duy của người điều vận dụng
trên nhu cầu thực tiễn của Cách mạng Việt Nam. Người đã tìm thấy trong chủ
nghĩa Mác- Lênin, học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại, con đường
giải phóng cho các dân tộc thuộc địa. Nhưng chủ nghĩa Mác- Lênin là một học
thuyết Cách mạng rộng lớn bao quát nhiều vấn đề về giải phóng giai cấp công
nhân, giải phóng Xã hội, giải phóng loài người. Hồ Chí minh đến với chủ nghĩa
Mác- Lênin từ nhu cầu thực tiễn giải phóng dân tộc. Người biết rút ra từ những
vấn đề cần thiết cho giai đoạn trước mắt của cách mạng Việt Nam, phù hợp với
lịch sử, đất nước con người Việt Nam. Người đã vận dụng lập trường quan
điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin phân tích Xã hội Việt Nam, từ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên Cách mạng Xã hội chủ nghĩa.
Khi miền Bắc nước ta từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiền Tư bản
chủ nghĩa, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa Xã hội, Người đặt vấn đề:”
chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để
tiến lên Chủ nghĩa Xã hội?” người cũng nhắc nhở:”…tuy chúng ta đã có những
kinh nghiệm dồi dào của các nước anh, em nhưng chúng ta cũng không thể áp
dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc
điểm riêng của ta”. Sau khi trở thành người Mácxít Người vẫn tìm hiểu chủ
7


nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên và tiếp thu từ học thuyết đó những yếu tố phù
hợp với mục đích trước mắt của cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân Việt Nam.

Những biến cố trên hòa quyện với nhau tạo nên ở Hồ Chí Minh một
phương pháp tư duy sâu sắc triệt để, hiệu quả thiết thực. Một phương pháp tư
duy, luôn tìm cái mới, luôn kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, cách
mạng khoa học, lý trí với tình cảm, dân tộc với thời đại.Tư duy đó đã giúp cho
Hồ Chí Minh chẳng những tiếp thu sâu sắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin và chủ nghĩa Xã hội khoa học vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam mà
còn có điều kiện phát triển, làm phong phú lý luận ấy ở một nước vốn thuộc
địa, nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sau khi giành được độc lập
về chính trị, quá độ lên chủ nghĩa Xã hội, bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa. Con
đường Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác- Lênin là con
đường phát triển, phù hợp với quá trình vận động và phát triển tư tưởng Việt
Nam. Những sáng tạo tìm tòi của Hồ Chí Minh ở chỗ: Đứng vững trên những
chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đồng thời biết xuất phát từ
lịch sử truyền thống tốt đẹp của dân tộc, từ trí tuệ thời đại để vạch ra đường lối
chiến lược, sách lược cho cách mạng Việt Nam, đưa dân tộc ta vượt qua những
khó khăn ban đầu với những sai lầm ít cực đoan nhất, đã tránh được cho dân
tộc những thử thách khốc liệt không đáng có, những hy sinh mất mát không
cần thiết, đưa cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
1.3.2. Thực tiễn trong nước và thế giới.
* Thế giới
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, một mặt Lênin xúc tiến sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ở Nga và đã có những
phát triển sáng tạo trong lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quyết
định của Lênin chuyển từ chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách kinh
tế mới (NEP) là một sáng tạo lớn trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với thực tiễn nước Nga lúc bấy giờ.

8


Lênin lại có những cống hiến lớn trong thúc đẩy phong trào cách mạng

vô sản và phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thế giới; đã đẩy lùi ảnh
hưởng của xu hướng cơ hội trong Quốc tế II về vấn đề cách mạng vô sản; phê
phán quan điểm tư sản về vấn đề dân tộc; đánh giá cao vai trò các dân tộc
phương Đông.
Lênin đã thành lập Quốc tế cộng sản (Quốc tế III), tạo điều kiện thúc
đẩy sự ra đời của nhiều Đảng Cộng sản trên thế giới. Như vậy, Lênin đã vận
dụng và phát triển chủ nghĩa Mác, tiến hành cách mạng vô sản Nga thành
công, đi từ giải phóng giai cấp đến giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại,
với khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức liên hiệp lại”.
Điều cần nói rõ là các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin không bao
giờ tự cho học thuyết của mình là “chân lý tuyệt đối”, là “tuyệt đỉnh”. Các
ông đều nhấn mạnh bản chất “phê phán”, “cách mạng” và tác dụng “kim chỉ
nam” của học thuyết mà các ông đã đề ra.
Lênin đã từng nói: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một
cái gì đã xong xuôi hẳn, luôn bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý
luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ
nghĩa cần phát triển hơn nữa về mọi mặt nếu họ không muốn trở thành lạc hậu
đối với cuộc sống”.
* ở Việt Nam
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, một nước phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu ở phương Đông, bị chủ nghĩa thực dân xâm lược và nô
dịch từ cuối thế kỷ XIX. Việt Nam vốn là một dân tộc có truyền thống yêu
nước, đoàn kết, nhân ái, có nền văn hiến lâu đời. Từ khi Pháp xâm lược,
phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân của các tầng lớp nhân dân
diễn ra liên tục, sôi nổi nhưng con đường cứu nước đang bế tắc chưa có lối ra.
Thời đại Người lớn lên và hoạt động cũng là thời đại chủ nghĩa đế quốc
thực dân bành trướng mạnh mẽ, tranh cướp thuộc địa, thị trường, dẫn đến hai
cuộc chiến tranh thế giới, tàn sát hàng trăm triệu người. Mâu thuẫn giữa giai
9



cấp vô sản với giai cấp tư sản càng mở rộng; mâu thuẫn giữa các nước và tập
đoàn đế quốc chủ nghĩa với nhau càng phát triển; mâu thuẫn giữa nhân dân bị
áp bức ở các nước thuộc địa, phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc, thực dân ngày
càng gay gắt. Từ sau Cách mạng tháng Mười Nga, đã xuất hiện mâu thuẫn
mới: mâu thuẫn giữa nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên với hệ thống tư bản chủ
nghĩa. Thế giới bước vào thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội, thời đại của cách mạng vô sản, của phong trào giải
phóng dân tộc và phong trào đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và của thế giới, Hồ Chí Minh đã vận
dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và Nghị quyết Quốc tế Cộng sản,
vạch ra con đường cách mạng đầy sáng tạo của Việt Nam: Giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người, với khẩu hiệu “Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”.
1.3.3. Luận điểm về Đảng.
Hồ Chí Minh là người thấy sâu sắc vai trò quyết định của Đảng cộng sản
đối với sự nghiệp cách mạng và xây dựng một Đảng thành công lớn trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân Hồ Chí Minh đã sáng tạo những luận điểm lý
luận mới về xây dựng Đảng, đặc biệt ở những nước thuộc địa, bổ sung và phát
triển học thuyết Mac- Lênin. Tư duy lý luận của Hồ Chí Minh rất rõ, cách làm
rất chặt chẽ. Ngay từ đầu, Hồ Chí Minh nêu rõ phải có Đảng để lãnh đạo cách
mạng. Trong thực tế lịch sử Việt Nam, khi vừa ra đời Đảng cộng sản đã mau
chóng giữ vai trò lãnh đạo đối với mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam. Theo Hồ
Chí Minh vai trò lãnh đạo ấy dựa trên hai căn cứ: Đảng cộng sản vũ trang bằng
chủ nghĩa Mác - Lênin là chính Đảng của giai cấp công nhân, Người đại diện
cho lực lượng sản xuất tiên tiến và chế độ xã hội mới, lãnh đạo mọi tầng lớp
nhân dân đánh đổi mọi Chủ nghĩa Tư bản và xây dựng xã hội mới. Vai trò lãnh
đạo của Đảng xây dựng trên sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đây là
luận điểm về Đảng cộng sản. Đồng thời đảng cộng sản là người lãnh đạo vì

10


Đảng có đường lối đúng, Đảng gồm những người tiên phong, gương mẫu trong
hoạt động cách mạng và lôi cuốn được quần chúng cùng làm.
Cách làm của Hồ Chí Minh về Đảng là dựa trên cả hai căn cứ, đặc biệt
coi trọng căn cứ thứ hai.Xây dựng vai trò lãnh đạo của Đảng trên sự đúng
đắn, hiệu quả và và tín nhiệm là căn cứ thích hợp nhất với diễn biến của lịch
sử, với trình độ ngày càng cao của con người và nền dân chủ. Tư duy bao
trùm của Hồ Chí Minh để xây dựng Đảng cộng sản việt Nam là một luận
điểm sáng tạo được Hồ Chí Minh trình bày vắn tắt như: Đảng cộng sản là sự
kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước Hồ Chí Minh đã đi từ dân tộc, ngay từ đầu làm cho Đảng bắt rễ sâu
xa trong truyền thống và trong bản sắc dân tộc. Đồng thời, Hồ Chí Minh đã
đem chủ nghĩa Mác-Lênin soi sáng và nâng cao dân tộc, ngay từ đầu làm cho
Đảng từ đường lối, tư tưởng đến tổ chức là một Đảng vũ trang bằng chủ nghĩa
Mác-Lênin. Trong điều kiện hầu như chưa có Chủ nghĩa Tư bản ở Việt Nam,
giai cấp công nhân rất ít ỏi, Hồ Chí Minh đã chủ trương vô sản hóa và cách
mạng đối với lớp đảng viên đầu tiên của Đảng để phát động quần chúng, rèn
luyện Đảng viên, lãnh đạo phong trào yêu nước, xây dựng Đảng cộng sản.
Về quan hệ Đảng với nhân dân, Hồ Chí Minh đề ra luận điểm Đảng và
Đảng viên là người đầy tớ của nhân dân, có làm đầy tớ trung thành thì mới là
người lãnh đạo. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh Đảng và Đảng viên đã đi
vào dân, bám chắc cơ sở, động viên, tổ chức và dẫn dắt quần chúng cả nước
Việt Nam thành trường đấu tranh và trường học cách mạng rộng lớn và
thường trực. Trong trường đấu tranh và trường học cách mạng ấy Hồ Chí
Minh đã coi trọng toàn diện việc giáo dục Đảng viên về Chủ nghĩa Mác-Lênin
về đạo đức và phẩm chất cách mạng theo một nền đạo đức học mới, về trình
độ và năng lực, theo yêu cầu của từng giai đoạn, sự đoàn kết nhất trí của Đảng
được Hồ Chí Minh xây đắp và dặn dò Đảng viên giữ gìn như lòng ngươi của

mắt là một nguồn sức mạnh to lớn của Đảng, là hình ảnh của sự đoàn kết nhất
trí toàn dân, là một nhân tố cực kỳ quan trọng bảo đảm thắng lợi của cách
11


mạng. Hồ Chí Minh đã làm gương mẫu để xây dựng đảng. Tấm gương của
lãnh tụ được sự hưởng ứng tự nguyện và nhiệt tình của toàn Đảng,đã tạo nên
khuôn phép chặt chẽ và thiêng liêng, để lại truyền thống tốt đẹp về Đảng và
sự lãnh đạo của Đảng Hồ Chí Minh đã làm cho lý luận sinh động trong thực
tiễn và làm cho thực tiễn thấm nhuần lý luận. Đối với Hồ Chí Minh lý luận
cực kỳ quan trọng, vì lý luận soi sáng hành động và được đúc kết hành động.
Tuy Hồ Chí Minh hiểu sâu văn hóa Đông, Tây và dùng vốn văn hóa đó nhuần
nhuyễn, đúng nơi đúng lúc, nhưng trước sau Hồ Chí Minh là nhà lý luận và
nhà thực hành chủ nghĩa Mác-Lênin rất trúng, rất trong, rất sáng, không pha
tạp. Hồ Chí Minh có thể được coi là một nhà duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử đã được giải quyết thành công mối quan hệ giữa các mặt tưởng chừng
khó dung hòa của sự nghiệp cách mạng: Dân tộc và giai cấp, quốc gia và quốc
tế, sáng tạo và trung thành, kế thừa và đổi mới. Hồ Chí Minh là sự hài hòa
giữa chủ quan và khách quan, sự ăn khớp giữa chiến lược và sách lược, sự
thống nhất giữa tính nguyên tắc và tính linh hoạt. Lý luận Mác-Lênin là
phương pháp tư duy, phương pháp tìm tòi đề ra chủ trương và biện pháp tổ
chức thực hiện, gắn với thực tế từng nước, từng lúc và từng việc. Được vận
dụng đúng, lý luận Mác-Lênin mang lại hiệu quả trong hành động.
Cống hiến lý luận của Hồ Chí Minh vừa có tính thời sự thiết thực, đáp
ứng những nhu cầu đương thời của cách mạng, vừa có giá trị lâu dài, là những
gợi ý quan trọng và nguồn cảm hứng cho các thế hệ cách mạng về sau. Được
hiểu và vận dụng một cách sáng tạo, hệ thống luận điểm lý luận của Hồ Chí
Minh có khả năng thích hợp với những diễn biến mới.

12



Chương II:
Vai trò chủ quan của Hồ Chí Minh trong việc
hình thành Tư tưởng của Người
Tư tưởng Hồ Chí minh được hình thành từ những tinh hoa văn hoa của
dân tộc và nhân loại, trong đó có chủ nghĩa Mác- Lênin. Tuy nhiên với tính
cách là đỉnh cao của tinh hoa, trí tuệ nhân loại, chủ nghĩa Mác- Lênin có vai
trò đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành tư tưởng của Người. Trong quá
trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc, tìm hiểu văn minh
phương Đông và phương Tây.
Nhiều Đảng viên Đảng Xã hội Pháp là người Việt Nam và người thuộc
địa đã đọc “luận cương” của Lênin. Nhưng chỉ có Hồ Chí Minh tìm thấy trong
đó con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước và giải phóng dân tộc thuộc
địa. Trên nền tảng truyền thống dân tộc, quê hương gia đình cộng với sự tham
chiếu giữa nền văn hóa, những yếu tố thuộc phẩm chất cá nhân của người
càng có điều kiện phát huy vai trò tích cực.
2.1. Năng lực tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo
ở tuổi 20 khi ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã được quê
hương và gia đình trang bị cho một vốn học vấn rất chắc chắn, một năng lực
trí tuệ sắc sảo, một đầu óc phê bình tinh tường giúp anh phân tích, tổng kết
các phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX
để tìm ra một hướng đi mới cho Cách mạng Việt Nam. Tinh thần độc lập, tự
chủ trước hết biểu hiện ở nhận thức về con đường cứu nước. Anh từ chối con
đường Đông Du mà một mình sang phương Tây. Ngoài trí tuệ và hai bàn tay
lao động anh không có hành trang nào khác, không được sự bảo trợ của một
tổ chức hay cá nhân nào. Mục đích đi, phương thức đi cũng đổi mới, đi để tìm
đường cứu nước chứ không phải để cầu viện. Tư duy tự chủ đã làm cho suy
nghĩ của Nguyễn ái Quốc rất nhanh chóng có sự khác biệt so với suy nghĩ về
con đường cứu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.

13


Xuất thân trong gia đình nhà Nho đỗ đạt, bản thân đã từng làm thầy
giáo, những anh không ra đi trong vai thân sĩ mà từ lớp “sĩ”, anh đi thẳng
xuống lớp “công”, hòa mình vào cuộc sống của người lao động, thực hiện “vô
sản hóa”, không chút mặc cảm, tự ti. Đầu thế kỷ XX, đó quả là một sự đổi
mới đầy dũng cảm. Chính nhờ cách đi đó mà Anh đến được với phong trào
công nhân và sớm tiếp thu được Chủ Nghĩa Mác-Lênin.
Trong 10 năm đầu, Nguyễn Tất Thành đã bôn ba qua nhiều nước Đế
quốc và thuộc địa khắp Âu, á, Mĩ, Phi, vừa hoạt động vừa nghiên cứu, học tập
ở những trung tâm văn hóa, khoa học và cách mạng của phương Tây, như
NewYork, London, Paris, Mátxcơva…đã gần gũi và kết bạn với nhiều nhà
văn hóa và hoạt động cách mạng nổi tiếng, những đại diện xuất sắc của trí tuệ
thời đại, qua đó Người tự trang bị cho mình một trình độ học vấn có thể gọi là
uyên bác về nhiều mặt, chẳng những bắp kịp nhịp sống của thời đại mà còn
dự kiến được bước phát triển mới của lịch sử trong tương lai. Nói cách khác,
Người đã nhận thức được thời đại của mình đang sống theo một cách sâu rộng
theo phong cách của Lênin. Chính bản lĩnh đó đã tạo cho Người là một người
thông minh sắc sảo, nhạy bén với cái mới, ham học hỏi, có năng lực tư duy
độc lập, tự chủ sáng tạo, một đầu óc phê phán tinh tường sáng suốt trong việc
khảo sát, đánh giá các cuộc Cách mạng tư sản.
Mục tiêu ra nước ngoài của Nguyễn Tất Thành là tìm đường cứu nước, giải
phóng đồng bào “Độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những
gì tôi muốn, tất cả những gì tôi hiểu”.Toàn bộ tư duy của anh đều vận động trên
nhu cầu thực tiễn đó của Cách mạng Việt Nam. Mọi học thuyết, mọi lý luận đến
với anh, dù rắc rối phức tạp đến đâu cũng đều trở nên rõ ràng với cái nhìn tham
chiếu đó. Trong Đảng Xã Hội, người ta tranh luận rất nhiều với nhau về việc ở
lại Quốc tế II, theo Quốc tế II rưỡi, hay Quốc tế thứ ba, riêng đối với Nguyễn ái
Quốc, vấn đề thật đơn giản, “Vậy thì cái Đế quốc nào bênh vực nhân dân các

nước thuộc địa”. Khi được trả lời là Quốc tế thứ III thì Người đã có thể tranh

14


luận với lẽ duy nhất là “Nếu đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân…không
bênh vực các dân tộc thuộc địa, thì đồng chí làm cái cách mạng gì?”.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đã nắm vững
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa MácLênin, mà hạt nhân là phép biện chứng duy vật, kết hợp với những đặc điểm,
những nhân tố biện chứng của tư duy phương Đông và tư duy Việt Nam. Trong
quá trình xem xét, giải quyết những vấn đề phong phú, đa dạng của thực tiễn
Cách mạng Việt Nam và thế giới, Người đã bổ sung, phát triển phương pháp
luận Mác- Lênin, hình thành nên những quan điểm có tính phương pháp luận,
với những nét đặc sắc riêng biệt. Nắm vững phương pháp luận Hồ Chí Minh có
ý nghĩa thực tiễn quan trọng trong xem xét và giải quyết những vấn đề của cách
mạng Việt Nam và trong việc bồi dưỡng lập trường, phương pháp cho mỗi
người Việt Nam, nhất là Đảng viên và cán bộ. Những hoạt động của người rất
rộng lớn, phong phú nhiều mặt, không chỉ chính trị mà còn nhiều mặt như kinh
tế, quân sự, văn hóa giáo dục….,không gian của Người không chỉ ở Việt Nam
mà còn ở nhiều nước thuộc các Châu lục khác nhau.Thời gian hoạt động của
Người cũng trải dài trên nửa thập kỷ vào những thời điểm sôi động nhất của
lịch sử cách mạng Việt Nam và của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc của
thời đại mới. Do đó những sáng tạo và những đóng góp của Người vào kho
tàng lý luận cách mạng Việt Nam và thế giới vô cùng phong phú.
Vì thế đây là cơ sở ban đầu tạo nên phẩm chất, năng lực tư duy độc lập,
tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Từ khả năng tư duy đó Hồ Chí Minh đã
đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin và Chủ nghĩa Xã hội khoa học.
Hồ Chí Minh, từ khát vọng tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc,
đến với Chủ nghĩa Mác Lênin, “tựa như người đi đường đang khát nước mà
có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Người phấn khởi reo lên như tìm

được một phát kiến vĩ đại: “ Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta”, và Người đã kết luận: “Chỉ có Chủ nghĩa xã hội,

15


chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin là Chủ nghĩa cách
mạng khoa học nhất”. Tính khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin là ở chỗ đã
phát hiện ra các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. Nắm vững tính
khoa học và tính cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin đồng thời Hồ Chí
Minh cũng thấm nhuần sâu sắc di huấn của các bậc thầy Cách mạng, không
hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm
phạm” mà phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không tạo cho mình một học thuyết riêng đứng
ngoài Chủ nghĩa Mác-Lênin nhưng trong khi vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin
vào cách mạng thuộc địa ở Việt Nam, Nguyễn ái Quốc – Hồ Chí Minh đã
luôn đứng vững trên quan điểm thực tiễn, thể hiện một tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo hiếm có. Ngay từ năm 1924, trong một báo cáo gửi Quốc tế Cộng
sản, Nguyễn ái Quốc đã đưa ra nhận định về sự phát triển không giống nhau
giữa các Xã hội phương Đông và phương Tây.
+ Xét về mặt cấu trúc kinh tế xã hội, xã hội Đông Dương (cả ấn Độ hay
Trung Quốc) không giống các xã hội phương Tây trung cổ. Việt Nam không
trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ. Chế độ phong kiến Việt Nam cũng mang đặc
điểm khác với chế độ phong kiến phương Tây.
+ Xét về mặt giai cấp, tuy đã có phân hóa, nhưng chưa triệt để và sâu
sắc. Sự đối lập giữa địa chủ và nông dân, tư sản và công nhân về tài sản, mức
sống, phương diện sinh hoạt… chưa lớn, do đó sự xung đột về quyền lợi giữa
họ được giảm thiểu.

Từ đó, Nguyễn ái Quốc rút ra kết luận “ Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt
Nam không diễn ra giống như ở phương Tây”. Vì vậy, Người nêu lên sự cần
thiết phải bổ sung cơ sở lịch sử của Chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào
đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”. Đó là một kiến
nghị mới mẻ và táo bạo, nhất là vào lúc phong trào cộng sản quốc tế.
16


2.2. ý chí của một nhà yêu nước
ở tuổi 20, khi ra đi tìm đường cứu nước (6-1911), Nguyễn Tất Thành đã
là một trong những đỉnh cao của trí tuệ yêu nước Việt Nam. Bài học rút ra từ
những thất bại liên tiếp của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ; ảnh hưởng
của lòng yêu nước thương dân và cái nhìn tỉnh táo của cụ Bảng Sắc trước thời
cuộc, đặc biệt là sự chứng kiến của bản thân về những nỗi cực khổ, điêu đứng
của nhân dân Nghệ Tĩnh trong cuộc khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp
ngay tại quê nhà và sau đó là cuộc đàn áp đẫm máu của chúng đối với phong
trào nông dân chống thuế ở miền Trung,v..v. tất cả đã hình thành nên sự khác
biệt trong chí hướng của Nguyễn Tất Thành so với Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh và các bậc tiền bối khác. Đối với anh, cứu nước không phải chỉ là đánh
đuổi quân xâm lược, giành lại độc lập cho dân tộc, mà cứu nước phải đi liền
với cứu dân, giải phóng dân tộc.
ở Nguyễn Tất Thành sớm có một chí hướng. Trần Dân Tiên kể lại: “…ở
tuổi mười lăm, người thiếu niên ấy sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh
thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải
phóng đồng bào. Anh đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh
khâm phục các cụ Phan Bội Châu, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám…
nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào”. Vì vậy anh
muốn tìm đường ra nước ngoài xem xét, học hỏi. Nguyễn tất Thành nói với
một người bạn: “ Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau
khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Với mục tiêu

đó anh đã ra nước ngoài quan sát, tìm hiểu. Mục đích đến nước Pháp của anh là
“để đòi những quyền tự do mà chúng tôi được hưởng”, khi bỏ phiếu tán thành
tham gia Quốc tế thứ ba, Nguyễn ái Quốc nói rõ “Tự do cho đồng bào tôi, độc
lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những gì tôi muốn, đấy là tất cả những gì tôi
hiểu”. Chí hướng, mục tiêu của anh ở đây không chỉ đơn thuần la giải thoát cho
đồng bào ta khỏi thân phận nô lệ, bị áp bức mà còn bao hàm một nội dung rộng
lớn hơn đó là: giải phóng cho họ khỏi cái đói, cái rét, cái dốt. Điều đó trở thành
17


“ham muốn tột bậc” của Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh, như người nói rõ về
sau này, “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó
cũng là ham muốn nghìn đời của nhân dân ta. Một “ham muốn” như thế chỉ có
thể thực hiện được triệt để khi sự nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng Xã hội.Từ đó người kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đương cách mạng vô sản”. “Chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”.
Từ đó Người khẳng định lập trường của mình bằng hành động bỏ phiếu
tán thành Quốc tế cộng sản, sáng lập Đảng cộng sản Pháp, Người trở thành
người cộng sản Việt Nam đầu tiên và con đường mà Người tìm ra cho dân tộc
là con đường cách mạng vô sản.
2.3. Sự khổ công học tập
Khi Nguyễn ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước tức là đi tìm một học
thuyết có khả năng dẫn dắt cuộc đấu tranh của dân tộc đi tới mục tiêu: Tổ
quốc độc lập, đất nước phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, là người có sự khổ
công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú của thời đại. Khi gặp
được “Luận cương của Lênin cũng là giây phút Người bừng sáng lên về lí
luận. Hồ Chí Minh đã vừa hoạt động thực tiễn, vừa nâng cao trình độ lý luận.

Trong những năm ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã có thêm điều kiện rèn
luyện, học tập và phát triển. Từ chỗ học chữ Hán, quen tư duy kiểu phương
Đông chuyển sang học chữ Pháp và tư duy kiểu phương Tây, mà chỉ trong sáu
năm Người đã có thể viết văn, viết báo, tranh luận… bằng tiếng Pháp và
Người đã thu hút được người đọc, lôi cuốn được người nghe.
Hồ Chí Minh được thừa nhận là nhà lý luận tiên phong của phong trào
giải phóng dân tộc trên thế giới bởi Hồ Chí Minh là người đầu tiên tìm ra con
đường thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại Cách mạng Vô
sản, là con đường kết hợp độc lập dân tộc với Chủ nghĩa Xã hội, hơn nữa còn là
18


người đầu tiên vượt lên trước những nhà lý luận cùng thời, đưa ra luận điểm:
Cách mạng giải phóng dân tộc không những không phụ thuộc vào thắng lợi của
Cách mạng Vô sản ở chính quốc mà với sức mạnh và tính chủ động của mình,
cách mạng giải phóng dân tộc có thể giành thắng lợi trước Cách mạng Vô sản.
Bằng thắng lợi đó giúp cho những người anh em ở phương Tây trong nhiệm vụ
giải phóng hoàn toàn.Trên cơ sở vốn văn hóa Đông-Tây sâu sắc, một vốn trị thủy
lịch sử và thực tiễn, Người đã kiên trì học tập từng bước vươn lên.
Chương III:
Tư tưởng Hồ Chí Minh - giá trị thời đại
Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải chỉ có giá trị dân tộc mà còn có ý
nghĩa thời đại. Nhớ lại vào những năm 90 của thế kỷ trước, giữa lúc bao
nhiêu tên tuổi lớn bị hoài nghi và phê phán, vì sao thế giới lại vẫn nhắc tên
Người? Muốn nhận thức được đầy đủ ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí
Minh, cần đặt Hồ Chí Minh vào thời đại hiện nay, xem thời đại đang đòi hỏi
gì và Hồ Chí Minh đã đáp ứng yêu cầu đó như thế nào?
Chúng ta đang chứng kiến sự bùng nổ xung đột về dân tộc và tôn giáo
diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới. Có những quốc gia liên bang đã bị tan
rã, trong các quốc gia dân tộc, xu hướng ly khai, đòi độc lập đang có chiều

hướng phát triển. Hàng trăm quốc gia tuy đã có độc lập về chính trị nhưng lại
đang ngày càng bị phụ thuộc trầm trọng vào các nước tư bản phát triển, do
nắm được trong tay ưu thế về kinh tế - tài chính và khoa học - công nghệ, họ
đang ra sức bóc lột các nước chậm phát triển một cách tinh vi và tàn bạo.
Trong điều kiện đó không thể nói đến tự do, bình đẳng, dân chủ, hạnh phúc
cho mọi con người.
Sau khi Liên Xô tan rã, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, các thế lực
hiếu chiến đã và đang điều chỉnh chiến lược, ráo riết thực hiện ý đồ thiết lập
“thế giới một cực”. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhưng từ năm 1991 đến nay, thế
giới đã diễn ra 4 cuộc chiến tranh nóng: tại Vùng Vịnh (1991), Nam Tư (1999),
ápganixtan (2002) và Irắc (2003). Từ sau sự kiện 11/9/2001 ở Mỹ, hoạt động
19


khủng bố và chống khủng bố trở thành vấn đề quốc tế lớn. Các thế lực hiếu
chiến đang lợi dụng chiêu bài “chống khủng bố” để can thiệp vào công việc nội
bộ các nước, xâm hại chủ quyền quốc gia, bất chấp luật pháp quốc tế.
Trong tình hình đó của thế giới, nhân loại đang nổi lên khát vọng chung:
độc lập dân tộc, dân chủ, hòa bình, nhân đạo, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển.
Thế giới đang kêu gọi một tinh thần khoan dung, nhân ái, chấp nhận đối thoại
về giá trị, giải quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng, xây dựng một thế giới
hiểu biết lẫn nhau, chung sức giải quyết những vấn đề toàn cầu.
Chính trong khát vọng đó, nhân loại đang nhắc đến tư tưởng Hồ Chí
Minh, vì tìm thấy trong đó những giải pháp có tầm thời đại, giúp loài người đi
đến một thế giới tốt đẹp hơn.
Hồ Chí Minh là biểu tượng cao cả của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước
nồng nàn với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; độc lập, tự do cho dân tộc mình
đồng thời độc lập, tự do cho tất cả các dân tộc.
Hồ Chí Minh chủ trương giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã
hội và giải phóng con người - không phân biệt chủng tộc và màu da. Thương

yêu, quý trọng con người, tin vào bản chất tốt đẹp và khả năng vươn lên của
con người, tạo mọi điều kiện thuận lợi để mỗi con người có thể tận lực phát
huy tài năng và phẩm giá của mình, đó là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh sớm nhận thức được tầm quan trọng của sự kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ trương Việt Nam phải mở cửa đi ra
thế giới, thu hút tinh hoa nhân loại, làm giàu có cho trí tuệ của dân tộc mình.
Người đã đi qua ba đại dương, bốn châu lục, đặt chân lên gần 30 nước, có
vinh dự là người Việt Nam đầu tiên đặt cơ sở cho tình hữu nghị với nhiều
nước trên thế giới. Người là sứ giả của hòa bình và hữu nghị giữa các dân
tộc.
Hồ Chí Minh là biểu tượng, là tinh hoa của tinh thần khoan dung, nhân
ái Việt Nam. Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh biểu hiện ở lòng yêu thương
sâu sắc đối với con người, ở cái nhìn rộng lượng với những giá trị khác biệt

20


với mình, ở sự tôn trọng niềm tin của người khác, không áp đặt ý kiến của
mình cho người khác, xa lạ với mọi thái độ kỳ thị, cuồng tín, giáo điều. Đối
với các tôn giáo, Người tôn trọng đức tin của người theo đạo, khéo léo hướng
lý tưởng của các bậc sáng lập tôn giáo vào mục tiêu giải phóng dân tộc và
mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh
đã được coi là biểu tượng của văn hóa hòa bình ở thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh là một tấm gương lớn về đối thoại, hợp tác để cùng phát
triển. Người luôn luôn theo đuổi chính sách ngoại giao hòa bình, chủ trương
giải quyết mọi mâu thuẫn, xung đột bằng đàm phán, thương lượng. Trong đối
thoại, Người thường xuất phát từ những chân lý phổ biến, “những lẽ phải
không chối cãi được”, tức là từ những chân lý khách quan để truy tìm cái
chung, cái đồng nhất mà hai bên đều có thể chấp nhận được. Nhiều nhà báo
phương Tây đã nhận xét: Cụ Hồ Chí Minh sẵn sàng chấp nhận tiệc tùng và

luôn luôn biết giải quyết mọi khó khăn với nụ cười trên môi.
3.1. Hồ Chí Minh tiếp thu giá trị nhân văn - đạo đức
* Giá trị nhân văn:
Hồ Chí Minh rất chú trọng việc tìm hiểu và nghiên cứu truyền thống yêu
nước và lòng nhân ái Việt Nam. Do điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử nhân
dân ta phải liên tục đứng lên đấu tranh chống giặc ngoại xâm và khắc phục
thiên tai. Quá trình đấu tranh là quá trình tôi luyện và hun đúc nên truyền thống
của dân tộc. Đó là ý chí kiên cường và lòng dũng cảm, là tinh hoa đoàn kết
cộng đồng, là lòng nhân ái, khoan dung, đặc biệt là coi trọng tình thương đã
ảnh hưởng rất rõ đối với việc hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nhiều tư tưởng từ nhiều nguồn khác nhau
và đã tiếp thu những nhân tố có giá trị trong tư tưởng nhân văn phương Đông
và phương Tây như: Khi nghiên cứu học thuyết của Khổng Tử, Hồ Chí Minh
rút ra kết luận: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là đề cao tu dưỡng rèn
luyện đạo đức cá nhân”. Không chỉ nghiên cứu và tiếp thu văn hóa phương

21


Đông, Hồ Chí Minh còn tiếp thu những tư tưởng về nhân đạo, nhân quyền,
dân chủ trong các trào lưu triết học và văn học nghệ thuật phương Tây. Về
triết học đó là những tư tưởng của Vônte, Đidơrô v.v… nhằm chống lại chế
độ quân chủ chuyên chế, vạch trần những tệ hại của xã hội phong kiến chà
đạp lên các quyền tự do của con người. Đó là những tác phẩm đề cao lòng
nhân ái, đề cao tinh thần tự do, bình đẳng.
Hồ Chí Minh còn có lòng yêu thương vô hạn đối với con người, trước
hết là những người lao động nghèo khổ. Bởi vì con người sống với nhau, gắn
bó với nhau trước hết bằng tình người. Người phê phán những người sống
thiếu tình nghĩa: “Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình nghĩa thì
làm sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”.

Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp
của con người, sức mạnh của nhân dân. Trong bất kỳ thời điểm nào, thực hiện
bất cứ nhiệm vụ gì Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò to lớn của con người
và tin vào khả năng của con người. Đó là niềm tin vào ý chí và nghị lực của
con người: “Không có việc gì khó; chỉ sợ lòng không bền… làm nên”, Người
luôn tin tưởng và đề cao phẩm chất tốt đẹp của con người như cần, kiệm,
liêm, chính, trung hiếu, tín, nghĩa…
Hồ Chí Minh có nhiều mục tiêu, phương hướng đúng đắn, sáng tạo để
giải phóng con người. Để giải phóng con người phải gắn liền với giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội. “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ”.
* Đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ
cách mạng đã bàn đến vấn đề đạo đức. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp
hài hào truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam được hình thành trong

22


lịch sử dựng nước và giữ nước, với tinh hoa đạo đức của nhân loại, đặc biệt là
chủ nghĩa nhân đạo cao cả của Mác, Ăngghen, Lênin.
Truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhấn mạnh: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì
sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải
có đạo đức, không có đạo đức dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”. Những nội dung về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện sự bao
quát đầy đủ các mối quan hệ xã hội cơ bản của mỗi người. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức cách mạng là phải được thể hiện qua hành động, ý chí, giá
trị xã hội của hành động.

Tư tưởng nhân văn và đạo đức Hồ Chí Minh là kết quả tổng hòa những
tinh hoa nhiều nền văn hóa lớn của nhân loại với truyền thống nhân ái của dân
tộc, trong đó truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam là nền tảng tiên quyết,
chủ nghĩa nhân đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin là hoàn chỉnh, đưa tư tưởng
nhân văn và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh lên trở thành tư tưởng thời đại.
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, lối sống
- Bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Thế giới quan và phương pháp luận luôn thống nhất với nhau. Các quy
luật, nguyên lý, quan điểm trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vừa có ý nghĩa thế giới quan, vừa có ý nghĩa phương pháp luận. Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Đảng ta xác định: “Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư
tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ
Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội”.
Vì vậy, quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phải coi
trọng nhiệm vụ trang bị, giáo dục thế giới quan cách mạng và phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có như vậy, con người mới có
được công cụ để nhận thức và hoạt động thực tiễn, giải thích, cải tạo và làm
23


chủ thế giới. Thực chất đó chính là những nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật giúp cho con người
khi xem xét sự vật, hiện tượng khách quan một cách đúng đắn, tránh cho ta
mắc phải bệnh chủ quan, duy ý chí, tùy tiện trong hoạt động thực tiễn. Yêu
cầu khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nhận thức đó là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Cần vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào công tác hàng

ngày của mỗi tổ chức và cá nhân.
- Nêu cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên
trong lao động, học tập, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là sức mạnh vô địch để chiến thắng lũ cướp nước và bán nước. Con
người Việt Nam mới phải nuôi dưỡng được tinh thần yêu nước. Chủ nghĩa
yêu nước là giá trị truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Trước hết
phải nhận thức sâu sắc chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam với những
nội dung cơ bản: Yên quê hương, xứ sở, xóm làng; gắn bó và cố kết cộng
đồng, hướng về dân, lấy dân làm gốc; tự hào lịch sử và văn hóa ông cha; ý
thức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ giải quốc gia; ý thức sâu sắc về độc lập dân tộc.
Đảng ta nhấn mạnh: “Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước
mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất
bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, dân tộc khác”
Hiện nay, yêu nước với yêu chủ nghĩa xã hội là một; kết hợp độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội; đồng thời biết tiếp thu có chọn lọc những tư
tưởng tiên tiến của thời đại. Trong xây dựng đất nước hiện nay, yêu nước
đồng nghĩa với sự vươn lên khắc phục nghèo nàn, lạc hậu, có ý chí, vươn lên
thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
- Biết giữ gìn đạo đức, nhân phẩm, lương tâm, danh dự
24


Phải luôn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đạo đức Hồ Chí Minh
là gốc; đức gắn với tài; trong đức có tài, trong tài có đức; tài càng cao, đức
càng phải lớn. Chỉ có như vậy mới phục vụ được nhiệm vụ chính trị, mới đưa
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến thắng lợi.
Nâng cao trí tuệ trước hết phải nắm vững và vận dụng đúng đắn chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những thành tựu của thời đại và
thế giới vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi

mới đạt hiệu quả cao.
Giữ gìn đạo đức trong tình hình mới trước hết phải quán triệt tư tưởng
và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Phải thấy được mối quan hệ giữa đạo
đức với kinh tế, trong đó có quan điểm phát triển kinh tế là điều kiện thiết
yếu, là cơ sở để xây dựng một xã hội văn minh, phát triển văn hóa, đạo đức.
Con người có đạo đức, có văn hóa lại là động lực để phát triển kinh tế. Phải
thấy được đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay vừa có hội nhập, hợp tác vừa có đấu tranh. Biết phát huy,
vận dụng mặt tích cực và đề phòng, hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường. Xây dựng đạo đức mới trong tình hình hiện nay là biết khai thác mặt
tích cực, đấu tranh kiên quyết loại bỏ mặt tiêu cực; phải chống khát vọng làm
giàu bằng mọi cách, tâm lý chạy theo đồng tiền, lấy đồng tiền làm giá trị cao
nhất; chạy theo quyền lực với thói ích kỷ, dối trá, lừa lọc, xu nịnh…
3.3. Đổi mới phải dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
Trên thực tế, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng đã được Đảng
ta thực hiện từ khi thành lập Đảng đến nay. Bước vào đổi mới, Nghị quyết
Trung ương 6 (khóa VI) tháng 3/1989 nhấn mạnh thành nguyên tắc: “Chủ
nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta”. Đại hội VII (6/1991) bổ sung thêm, đưa
tư tưởng Hồ Chí Minh vào vị trí nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
25


×