Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM 1986 ĐẾN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.42 KB, 18 trang )

MỤC LỤC


2

LỜI MỞ ĐẦU

Chính sách đối ngoại được coi là kim chỉ nam cho mục tiêu hội nhập quốc tế
mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ngày
nay với hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tình hình quốc tế có
nhiều biến động Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của Hồ
Chí Minh về đối ngoại, đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác
và phát triển; rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế, từ đó đã phá vỡ thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch; xây
dựng mối quan hệ hợp tác nhiều mặt, trên những nguyên tắc quan hệ và hợp tác
quốc tế mang tính phổ biến, được cộng đồng quốc tế thừa nhận, góp phần quan
trọng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, phát triển đất nước.
Trên cơ sở tư tưởng, ngoại giao Hồ Chí Minh, từ những bài học kinh nghiệm
trong lịch sử ngoại giao Việt Nam và thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đề ra các
chính sách phù hợp với từng giai đoạn khác nhau và đạt được nhiều thành tựu to
lớn, bên cạnh đó vẫn gặp không ít khó khăn và hạn chế nhất định, song để lại bài
học kinh nghiệm cho Đảng ta trong việc đề ra chính sách đối ngoại trong giai đoạn
tiếp theo góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.


3

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
1.1. Khái niệm chính sách đối ngoại

Chính sách đối ngoại, theo Marijke Breuni ng là “tổng thể các chính sách và


tương tác với môi trường bên ngoài biên giới quốc gia”, chính sách đối ngoại
bao quát nhiều vấn đề, từ an ninh, kinh tế tới những vấn đề môi trường, năng
lượng, viện trợ nước ngoài,…
Theo George Modelski: “Chính sách đối ngoại là hệ thống những hoạt động
do các cộng đồng thực hiện nhằm thay đổi hành vi của các quốc gia khác và điều
chỉnh hành động của bản thân nhà nước mình với môi trường quốc tế”, giảm tác
động bất lợi và tăng cường hợp tác.
James Rosenau quan niệm chính sách đối ngoại là "sự cố gắng của một xã
hội quốc gia nhằm kiểm soát môi trường bên ngoài bằng cách duy trì bối cảnh
thuận lợi và thay đổi những bối cảnh bất lợi".
Theo cuốn giáo trình Quan hệ chính trị quốc tế của Học viện Báo chí và
Tuyên truyền: “Chính sách đối ngoại là tổng thể những chiến lược, sách lược,
chủ trương, quyết định và những biện pháp do nhà nước hoạch định và thực thi
rong quá trình tham gia tích cực có hiệu quả vào đời sống quốc tế trong từng
thời kì lịch sử, vì lợi ích quốc gia, phù hợp với xu thế phát triển của tình hình thế
giới và luật pháp quốc tế. Chính sách đối ngoại là sự tiếp tục của chính sách đối
nội, xuất phát từ chế độ kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia phục vụ chính
sách đối nội”.
Như vậy, từ các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất,
chính sách đối ngoại là chủ trương, đường lối, chiến lược, sách lược, biện pháp,
một bộ phận của chính sách quốc gia. Tổng hợp những mục tiêu, biện pháp, điều
chỉnh của một quốc gia được thực hiện trên trường quốc tế nhằm phục vụ cho sự
tồn tại và phát triển của quốc gia đó.
1.2. Đặc điểm chính sách đối ngoại
1.1.1. Chính sách đối ngoại thường được thể hiện dưới dạng các văn kiện

khác nhau của quốc gia.
Thứ nhất, chính sách đối ngoại thể hiện dưới dạng một văn kiện của nhà
nước hoặc của đảng cầm quyền, nhất là ở các nước xã hội chủ nghĩa.Ví dụ như



4

Thông báo chính sách đối ngoại ngày 3-10-1945 của Bộ Ngoại giao Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa; Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị khóa VI (5-1988) về
nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới.
Thứ hai, chính sách đối ngoại được thể hiện trong phát biểu của lãnh đạo
quốc gia, đại diện quốc gia tại hội nghị, diễn đàn quốc tế. Ví dụ: Ngày 26-111953, trả lời phỏng vấn báo Express của Thụy Điển, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khảng định: “nếu Chính phủ Pháp muống đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng
cách thương lượng và muốn giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình, thì
nhân dân Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng sẵn sàng
nói chuyện”
Thứ ba, chính sách đối ngoại còn được thể hiện qua các điều ước quốc tế mà
quốc gia kí kết. Ví dụ: Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 về Đông Dương, Tuyên
bố Tầm nhìn chung quan hệ Việt Nam – Nhật Bản (2015) được kí kết giữa Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nhật Shinzo Abe.
1.1.2. Chính sách đối ngoại là chính sách công, là một bộ phận không tách

rời của đường lối chính trị quốc gia.
Chính sách đối ngoại cùng với chính sách đối nội tạo thành một chiến lược
tổng thế của một quốc gia, do lợi ích giai cấp hay liên minh giai cấp cầm quyền
đóng vai trò quyết định. Tạo điều kiện cho việc bảo vệ và duy trì hệ thống quan
hệ xã hội hiện hành trong quốc gia đó.
Chính sách đối ngoại là sự kéo dài của chính sách đối nội, suy cho cùng là
phục vụ chính sách đối nội. Chính sách đối ngoại và chính sách đối ngoại đều
do nhà nước hoạch định và triển khai, đều phục vụ cho mục tiêu quốc gia.
Nhưng chúng lại khác nhau ở mục tiêu cụ thể, đối tượng tác động và đặc biệt là
phương thức thực thi chính sách. Nếu như chính sách đối nội dùng biện pháp
chế tài và vận động thự hiện thì đối ngoại lại không thể, chúng ta không thể bắt
buộc các quốc gia khác thực hiện theo mình mà phải thông qua trao đổi tiếp

xúc, đàm phán kí kết và thúc đẩy quan hệ.
1.1.3. Chính sách đối ngoại có tính kế thừa

Kế thừa những bài học kinh nghiệm và phát huy chúng từ lịch sử của dân tộc
là điều rất quan trọng. Trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại,


5

Đảng và Nhà nước ta kiên trì bài học độc lập, tự chủ, cách thức mềm mỏng và
linh hoạt, uyển chuyển, coi trọng hòa hiếu với các nước láng giềng qua từng
giai đoạn lịch sử khác nhau.
1.3. Mục tiêu chính sách đối ngoại

Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan cũng nêu nhận định về mục tiêu của chính
sách đối ngoại: “Chính sách đối ngoại của bất kỳ một quốc gia nào dù lớn hay
nhỏ bao giờ cũng nhằm phục vụ ba mục tiêu cơ bản là mục tiêu an ninh (góp
phần bảo đảm độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ);
mục tiêu phát triển (tranh thủ ngoại lực và tạo dựng điều kiện quốc tế thuận lợi
cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước); và mục tiêu ảnh hưởng (góp phần
nâng cao địa vị quốc gia, phát huy tầm ảnh hưởng trên trường quốc tế)”. [65, tr.
3]
Ba mục tiêu an ninh, phát triển và vị thế gắn kết với nhau mật thiết, không
thể tách rời và phản ánh lợi ích quốc gia, dân tộc. Những mục tiêu này là không
thay đổi, nhưng nội hàm cụ thể và các biện pháp sử dụng để đạt được mục tiêu
ấy có thể được điều chỉnh, thay đổi theo thời gian, tuỳ thuộc vào diễn biến thực
tế trong quá trình phát triển.
II. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI
2.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng tưởng Hồ Chí Minh


Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho mọi hành động, là cơ sở lý luận của đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng ta.
Trên nền tảng tư tưởng đó, chính sách đối ngoại là một bộ phận cấu thành
đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, là một nhân tố quyết định sự thắng lợi của cách mạng qua từng
thời kì.
2.2. Tình hình thế giới và khu vực

Vào những năm 80 của thế kỉ XX cục diện của thế giới có những chuyển
biến phức tạp. Cách mạng khoa học và công nghệ có những bước tiến nhảy vọt,
tác động sâu sắc đến tìn hình kinh tế, chính trị, xã hội và quan hệ quốc tế. Quá
trình toàn cầu hóa, khu vực hóa được thúc đẩy.


6

Quan hệ quốc tế, các nước lớn và quan hệ giữa chúng là một nhân tố rất quan
trọng tác động đến sự phát triển của thế giới. Quan hệ quốc tế chuyển dần từng
bước từ đối đầu sang đối thoại. Trật tự hai cực bị phá vỡ, hình thành xu thế toàn
cầu hóa, đa cực, đa phương hóa. Chiến tranh lạnh đi dần đến hồi kết. Các nước
lớn, đặc biệt là Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc thay đổi chính sách theo hướng hòa
hoãn.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương và Đông Nam Á có sự phát triển năng
động, song tại đây cũng luôn tìm ẩn những yếu tố gây mất ổn định. Việt Nam
nằm trong những khu vực này cho nên không thể không chịu sự tác động đó.
Cuộc "chiến tranh lạnh" đã kết thúc nhưng nền hòa bình thế giới lại đứng
trước thách thức lớn. Đó là những cuộc chiến tranh cục bộ, những cuộc xung
đột sắc tộc, tôn giáo, các thế lực khủng bố quốc tế gây ra những cuộc khủng bố
đẫm máu. Đó là những âm mưu và hành động của các thế lực phản động can

thiệp thô bạo đối với độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhiều nước trên
thế giới bất chấp các chế định hành xử của luật pháp quốc tế cũng như các
nguyên tắc của Liên hợp quốc.
Đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn còn dễn ra gay gắt như các cuộc đấu tranh
sự thất bại ở Ni-ca-ra-goa, En Xan-va-đo, những đảo lộn ở Mô-dăm-bich, Dimba-bu-ê, Ăng-gô-la, Xéc-bi, Áp-ga-ni-xtan,...Hay các cuộc đấu tranh xoay
quanh về việc bao vây, cấm vận đối với nước Cu-ba, cùng các điểm nóng khác
ở một số nước thuộc Liên Xô (cũ)...
2.3. Yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong nước

Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh
tế xã hội trầm trọng và kéo dài.
Mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược lúc này là chấm dứt tình trạng thù địch, đối
đầu, phá thế bao vây, cấm vận, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây
dựng kinh tế, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Yêu cầu đặt ra là phải bình thường và mở rộng mối quan hệ với
các quốc gia khác, hợp tác đa phương hóa, đa dạng hóa có ý nghĩa quan trọng
đối với giai đoạn đổi mới lúc bấy giờ.
2.4. Truyền thống ngoại giao của dân tộc


7

Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân Việt Nam
luôn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, gian khổ. Trải qua những thăng
trầm ấy, ngoại giao Việt Nam đã từng bước được hình thành và phát triển, vừa
mang đậm bản sắc dân tộc,hòa hiếu, nhân nghĩa, thủy chung, vừa kết tinh những
tinh hoa của nhân loại để tạo nên một bản sắc riêng của nền ngoại giao Việt
Nam. Ngoại giao của dân tộc luôn kiên trì về nguyên tắc, nhưng luôn chủ động,
sáng tạo, linh hoạt trong trong xử lý các tình huống, hòa bình hữu nghị; kết hợp
giữa ngoại giao, kinh tế, chính trị và quân sự; tinh thần độc lập tự chủ;…

III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỐI NGOẠI TRONG SỰ

NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC GIAI ĐOẠN 1986 ĐẾN
NAY
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
3.1.1.Khái niệm tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
Theo Nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đối ngoại hay ngoại giao là “hệ thống những nguyên lý, quan điểm,
quan niệm về các vấn đề thế giới và thời đại, về đường lối quốc tế, sách lược,
chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam thời kì hiện đại”.
3.1.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại

Nội dung tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh rất sâu sắc, phong phú và đa dạng
bao quát rất nhiều vấn đề. Đó là tư tưởng đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia –
dân tộc; độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; độc lập tự chủ, tự cường,
đoàn kết và hợp tác quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; coi
trọng quan hệ với các nước lớn, quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước láng
giềng; ngoại giao là một mặt trận;…
3.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại trong sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ đất nước giai đoạn 1986 đến nay
Qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc cho đến ngày nay, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đối ngoại được vận dụng xuyên suốt. Các tư tưởng ấy được Đảng và
Nhà nước ta kế thừa và phát huy một cách sáng tạo đan xen ứng với từng giai
đoạn khác nhau trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.


8
3.2.1. Giai đoạn 1986 – 1991: Định hình những quan điểm cơ bản của


đường lối đối ngoại đổi mới.
Trên cơ sở tình hình thế giới và yêu cầu trong nước, từ tháng 7-1986,
Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị khóa V (tháng 7/1986) chủ trương chuyển từ
đối đầu sang đối thoại, nhằm chủ động tạo thế ổn định để tập trung xây dưng
kinh tế, chủ đọng chuyển sang thời kì cùng tồn tại hòa bình, góp phần xây dựng
Đông Nam Á thành khu khực hòa bình, ổn định và hợp tác.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) Tổng Bí
thư Trường CHInh đọc báo cáo chính trị, đặt ra vấn đề đổi mới, trước hết là đổi
mới tư duy nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ. Đảng cũng đã nhấn
mạnh: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ
hòa bình ở Đông Dương, góp phần giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và trên
thế giới, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ Quốc…”. Hòa bình ở khu vực và thế giới có quan hệ
gắn kết với nhau, thế giới có hòa bình thì các khu vực mới có hòa bình và
ngược lại. Đổi mới toàn diện, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 121986) của Đảng đề ra chính sách đối ngoại phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát
triển đất nước. Đại hội khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện
chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị”. Về quan hệ với các nước khu vực
Đông Nam Á: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực
thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng
tồn tại hoà bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định và
hợp tác”. Đại hội VI nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là “… Tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc”… và “cần hoà bình để phát triển kinh tế”.
Nghị quyết của Đại hội VI và các Nghị quyết của Trung ương đã chuyển
hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất
cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau,
thi hành chính sách hữu nghị, củng cố và giữ vững hòa bình, tạo điều kiện và
môi trường thuận lợi để đất nước phát triển trong thế ổn định: “Lợi ích cao nhất
của Đảng và nhân dân là phải củng cố và giữ vững hòa bình…” – Nghị quyết số



9

13/BCT; phù hợp với lợi ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của thế
giới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và
hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đồng thời là một dấu mốc quan trọng
trong tiến trình từng bước gia nhập ASEAN của Việt Nam.
Cuối năm 1991, chế độ xã hội ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, tình hình
thế giới phức tạp là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Hội nghị Trung ương
lần thứ ba (khóa VII) đã đề ra bốn phương châm xử lý các vấn đề đối ngoại,
quan hệ quốc tế như sau: (1) Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; (2) Giữ vững độc
lập tự chủ, tự cường trong khi đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng hóa trong
quan hệ đối ngoại; (3) Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ
với mọi đối tượng; (4) Tham gia hợp tác khu vực đồng thời mử rộng quan hệ
với các nước lớn.
Trên cơ sở đổi mới tư duy đối ngoại, Đảng và Nhà nước xác định mục
tiêu và những chính sách đối ngoại lớn. Mục tiêu của ngoại giao Việt Nam lúc
này là hòa bình và phát triển. Đảng và Nhà nước ta quyết tâm giải quyết vấn đề
Campuchia, từ đó giải quyết vấn đề bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc,
ASEAN và Hoa Kỳ.
Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI 20/5/1988) là mốc khởi đầu
của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta.
Nghị quyết khẳng định nước ta “lại càng có những cơ hội lớn để có thể giữ hòa
bình và phát triển về kinh tế” và xác định “với một nền kinh tế mạnh, một nền
quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng
ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội hơn”. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị thay chủ trương 10 năm
trước tăng cường liên minh 3 nước Đông Dương làm đối trọng với các nước
ASEAN. Ngược lại, chúng ta khẳng định không đối lập nhóm 3 nước Lào, Việt

Nam, Campuchia, xã hội chủ nghĩa với nhóm ASEAN, tư bản chủ nghĩa.
Thực hiện chủ trương, đường lối trên ta đã có được những dấu hiệu hòa
dịu trong khu vực. Tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 29/07/198, ngoại trưởng
Indonexia sang thăm và ký Thông cáo chung Việt Nam – Indonexia, vừa khai


10

thông quan hệ song phương, mở đường cho xu thế đối thoại, hợp tác giải quyết
vấn đề Campuchia. Việt Nam đã từng bước rút quân khỏi Campuchia từ 1984 1989. Như vậy vấn đề Campuchia đi dần vào giải pháp hòa bình. Tháng
12/1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 3 họp tại Manila (Philipin)
Tổng thống Philipin C.V.Akinô tuyên bố không coi Việt Nam là mối đe dọa đối
với Philipin, không chống Việt Nam gia nhập ASEAN. Tháng 8-1988, Thủ
tướng Thái Lan tuyên bố “biến Đông Dương từ chiến trường sang thị trường”. .
Tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á – Thái Bình Dương tổ
chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyễn Văn Linh một lần nữa nhấn mạnh: “Việt Nam sẵn sàng phát triển quan
hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước trong khu vực”. “Việt Nam sẵn
sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á”. Những phát biểu trên một lần
nữa nhấn mạnh quan điểm trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta trong
vấn đề gia nhập ASEAN. Quan hệ Việt Nam – ASEAN đã được đẩy mạnh.
Tháng 11 – 1991 tại Bắc Kinh, Việt Nam và Trung Quốc ký Tuyên bố về
việc bình thường hóa quan hệ Việt – Trung. Đây là bước khởi động quan trọng
để tái lập và phát triển mối quan hệ giữa 2 nước. Cùng với đó mối quan hệ Việt
Nam và Hoa Kỳ cũng bắt đầu khởi động trở lại. Tháng 7 – 1990 Ngoại trưởng
Mỹ tuyên bố thừa nhận Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Tháng 4 – 1991 đề
ra lộ trình bình thường hóa quan hệ 2 nước, tháng 4 – 1992 Hoa kỳ nới lỏng
lệnh cấm vận đối với Việt Nam.
Tháng 11 – 1990, quan hệ giữa Việt Nam với Cộng đồng Châu Âu (EC)
được chính thức thiết lập, cũng có ý nghĩa là bắt đầu tiến trình phục hồi quan hệ

giữa Việt Nam với các nước châu Âu.
Như vậy, với những chủ trương, đường lối vận dụng tư tưởng đối ngoại
của Hồ Chí Minh kết hợp với thời đại, nước ta bước đầu đã giải quyết được vấn
đề Campuchia trên cơ sở giữ vững một số thành quả của cách mạng Campuchia,
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, khai thông quan hệ với các nước
ASEAN tạo dựng tiền để để ta tham gia tổ chức này nhằm xây dựng khu vực
Đông Nam Á hòa bình, ổn định, hợp tác để phát triển, từng bước cải thiện quan


11

hệ với Hoa Kỳ từ đó có điều kiện tăng cường quan hệ với các nước châu Âu, là
tiền đề cho những thành tựu ở các giai đoạn sau.
3.2.2. Giai đoạn 1991 – 1996: Hình thành về cơ bản đường lối đối ngoại

độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ
quốc tế.
Độc lập, tự chủ là một yêu cầu nội tại của mọi quốc gia, dân tộc, nó trở
thành một trong những nguyên tắc căn bản nhất trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước, cả trên bình diện đối nội và đối ngoại. Hội nhập quốc tế thể hiện sự
tham gia của quốc gia, dân tộc vào quá trình toàn cầu hóa với tính cách là một
xu thế lịch sử trong thế giới hiện đại.
Đại hội lần VI và lần VII của Đảng ta đã xác lập đường lối đổi mới trong
quan hệ đối ngoại, mở ra thời kỳ hội nhập quốc tế, tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế.
Đường lối độc lập, tự chủ và chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế là sợi chỉ xuyên suốt tạo nên những thành tựu đối ngoại của
Việt Nam, nó trở thành một trong những nguyên tắc căn bản nhất trong tổ chức
và hoạt động của nhà nước, cả trên bình diện đối nội và đối ngoại.
Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết xác

định nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các
phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng, đa
phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về chính
trị, kinh tế, văn hóa…, trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển
kinh tế, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc…
Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường
lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
Trong giai đoạn này, mối quan hệ giữa Việt Nam - ASEAN bắt đầu có
những chuyển biến tích cực. Được đánh dấu bằng sự kiện Việt Nam (và Lào)
tham gia Hiệp ước Bali vào tháng 7-1992. Điều đó có nghĩa là hai bên ASEAN
và Đông Dương bắt đầu chấp nhận nhau, Việt Nam và Lào được coi như thành
viên không chính thức, hưởng quy chế quan sát viên của tổ chức này.


12

Trong thời gian 1992-1995 đã diễn ra nhiều cuộc đi thăm lẫn nhau của
các vị nguyên thủ quốc gia, các nhà ngoại giao, các quan chức cao cấp thuộc
các ngành, các nhà khoa học, nhà báo, doanh nhân và nhiều tổ chức xã hội
khác. Những cuộc tiếp xúc đó làm cho các bên hiểu nhau hơn, xoá bỏ dần nghi
ngại do những năm Chiến tranh lạnh kéo dài để lại. Đặc biệt, trong chuyến thăm
Xingapo tháng 10-1993, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã tuyên bố Chính sách 4 điểm
mới của Việt Nam đối với Đông Nam Á, nhấn mạnh: "Việt Nam chủ trương
tăng cường hợp tác nhiều mặt với từng nước láng giềng cũng như với ASEAN
với tư cách là một tổ chức khu vực, sẵn sàng gia nhập ASEAN vào một thời
điểm thích hợp". Thái độ thiện chí của Việt Nam đã rõ ràng và nhận được sự
hoan nghênh của các nước. Đến tháng 7-1994, Hội nghị các Ngoại trưởng
ASEAN họp ở Bangkok đã quyết định chấp nhận Việt Nam gia nhập ASEAN.
Tại hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 27 tại Băng cốc 1994, các

nước ASEAN đã nhất trí tuyên bố sẵn sàng công nhận Việt Nam là thành viên
chính thức của ASEAN. Ngày 28/07/1995, tại Banda Xeri Beegaoan (Vương
quốc Bruney) lễ kết nạp Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thành thành
viên thứ 7 của ASEAN đã được tổ chức trọng thể. Quốc Hội nước ta cũng gia
nhập Liên minh Quốc hội ASEAN (AIPO). Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội VIII (tháng 6-1996) của Đảng đã
khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa quan hệ
với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Cùng trong những năm đó, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt
Nam với các nước ASEAN tăng nhanh, gấp gần 2 lần, từ 1.662 triệu USD (năm
1990) lên 3.213 triệu USD (năm 1995). Số dự án và vốn đầu tư cũng tăng đáng
kể: năm 1993 có 136 dự án, đến năm 1995 là 232 dự án (tăng 176%) với số vốn
từ 168 triệu USD lên 2.851 triệu USD (tăng 1.750%); dẫn đâu là Kingapo với
kim ngạch buôn bán là 2,12 tỷ USD và vốn đầu tư là 1,47 tỷ USD (năm 1995).
Năm năm tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới không ngừng vận dụng tư
tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh trên mặt trận đối ngoại, Việt Nam đã giữ
vững được môi trường hòa bình, phá được thế bị bao vây cấm vận về kinh tế và


13

cô lập về chính trị, đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, Hoa Kỳ và đã
mở rộng quan hệ với hầu hết các nước trên thế giới từ 1991 – 1995 Việt Nam đã
lập thêm quan hệ ngoại giao với 42 nước , nâng tổng số các nước có quan hệ
ngoại giao với ta lên 160 nước. Điều này cho thấy, vị trí, vai trò và uy tín của
Việt Nam ngày một nâng cao ở khu vực và thế giới.
3.2.3. Giai đoạn 1996 – nay: Hoàn thiện và phát triển đường lối đối ngoại

đổi mới với nội dung chủ động và hội nhập quốc tế.

Tại đại hội lần thứ VIII (6-1996), Đảng tiếp tục mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế, nhiều mặt với nhiều nước, các trung tâm kinh tế, chính trị khu vực
và quốc tế. Đồng thời chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở” và “đẩy nhanh quá
trình kinh tế khu vực và thế giới”.
Đại hội xác định rõ hơn quan điểm đối ngoại với các nhóm đối tác, chủ trương
đối ngoại của Đại hội VIII có đặc điểm mới so với đại hội VII như:
+
+

Mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác.
Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ

+

chức phi chính phủ.
Lần đầu tiên, trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại, Đảng đưa ra chủ trương: “Thử
nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước ngoài”.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương, khóa VIII (12-1997),
đề ra chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định
Thương mại Mỹ, Gia nhập APEC và WTO. Có kế hoạch cụ thể để chủ động
thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA. Đại hội lần thứ IX (4-2001), Đảng
nhấn mạnh chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực. Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ: “Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hế là độc lập tự chủ
về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ phài đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở
rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành
nguồn lực tổng hợp phát triển đất nước”.
Đại hội VIII (tháng 6-1996) và Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp tục

hoàn thiện đường lối đối ngoại thông qua việc khẳng định: “Việt Nam sẵn sàng
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa


14

bình, độc lập và phát triển”. Ngoài ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt Nam chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực,
nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Nghị quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6
biện pháp tổ chức thực hiện quá trình hội nhệp kinh tế.Hội nghị Trung ương 8,
khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện thế giới, khu vực từ
1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài học kinh
nghiệm về đối ngoại. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức, định
hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta
trong thời gian tới.
Đại hội lần thứ X (6-2006), Đảng nêu quan điểm: thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại
đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Đồng thời để ra chủ trương
“chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đến Đại hội lần thứ XI, Đảng ta đã nêu quan điểm: chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế…
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương có tính bước
ngoặt về đường lối đối ngoại trong điều kiện mới. Đảng ta đã nhận định: “Nhận
thức đúng về xu thế của thời đại và cục diện thế giới, khu vực, Đảng, Nhà nước
đã có định hướng chỉ đạo và các chính sách đúng đắn, kịp thời trên cơ sở lợi ích
quốc gia - dân tộc”; Đồng thời “…phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước,

nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần
vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”
và phải “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển... Trên cơ sở
vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ


15

vững hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển
đất nước”.
Đường lối đối ngoại của Đảng ta trong kỳ đại hội lần thứ XII của Đảng có sự
khác biệt, tiến bộ và hoàn hiện, rõ ràng hơn so với đại hội XI. Về mục tiêu đối
ngoại được đề cập rõ hơn và ở mức cao nhất : “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc
gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng
và cùng có lợi”. “Chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể
chế đa phương”; “Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa
phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc”.
Thực hiện đúng đắn và có hiệu quả đường lối đối ngoại trên thế và lực của
Việt Nam ngày càng được nâng cao. Và trong tình hình mới, thực hiện Nghị
quyết Đại hội XII, tiến tới Đại hội XIII, là năm Việt Nam đảm đương đồng thời
các trọng trách đa phương là Chủ tịch ASEAN 2020, Chủ tịch AIPA 41 và Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Đảng ta luôn thực
hiện nhất quán vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng
hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc,
kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược bám sát yêu cầu bảo vệ độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, kết hợp với yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để xây dựng và phát triển đất

nước.
IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
4.1. Thành tựu

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại hình thành nên đường lối đối
ngoại trong thời kì đổi mới, hội nhập xây dựng và bảo vệ đất nước được thể hiện
qua các kì đại hội đã đạt được những thành tựu nhất định.
Trước hết là nước ta đổi mới tư duy và nhận thức về thế giới, về quan hệ
quốc tế, có cái nhìn khách quan và phong phú, đa dạng hơn.
Phá được thế bị bao vây, cấm vận; đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ
quốc tế. Củng cố, phát triển và xử lý tốt mối quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống
với các nước láng giềng, các nước khu vực; giải quyết vấn đề Campuchia, bình


16

thường hóa và có những bước phát triển mới trong quan hệ với Trung Quốc, Mỹ,
các nước Đông Nam Á và nhiều nước khác, gia nhập ASEAN.
Cải thiện và tăng cường, mở rộng quan hệ với châu Á - Thái Bình Dương,
tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) với mục tiêu
tăng cường mối quan hệ về kinh tế và chính trị, gia nhập Diễn đàn hợp tác Á - Âu
(ASEM), tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, mở rộng quan hệ với các nước Liên
minh châu Âu (EU).
Thực hiện đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa đã giúp Việt Nam
tranh thủ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức. Tranh thủ được nhiều vốn ODA,
thu hút được nhiều vốn FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, tiếp nhận được nhiều
công nghệ mới và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới.
Hội nhập quốc tế ngày càng chủ động và tích cực. Vai trò, uy tín và vị thế
của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong khu vực và trên thế giới.
4.2. Hạn chế


Trong một số lĩnh vực hoạt động đối ngoại, vào những thời điểm cụ thể, sự
đổi mới tư duy còn chậm, chưa đáp ứng tốt nhất yêu cầu phát triển trong nước và
phù hợp với những chuyển biến của tình hình thế giới.
Quan điểm, nhận thức về những biến động mới trên thế giới, có nơi, có lúc
còn chưa theo kịp với diễn biến tình hình từ đó hạn chế việc đề ra những quyết sách
kịp thời, mạnh dạn, phù hợp, nhất là trong chủ trương, đường lối.
Công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nhìn
chung còn một số bất cập, chưa ngang tầm chiến lược của thời kỳ chủ động và tích
cực hội nhập khu vực và thế giới. Công tác nghiên cứu cơ bản, dự báo chiến lược
trong lĩnh vực đối ngoại và quan hệ quốc tế còn nhiều bất cập,....
Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại còn biểu hiện chưa thật nhạy bén,
hình thức chưa sinh động, hấp dẫn.
4.3. Bài học kinh nghiệm

Luôn kiên định tư tưởng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, chủ động, giữ
vững con đường chủ nghĩa xã hội. Vận dụng, phát huy tư tưởng của Hồ Chí Minh
về đối ngoại một cách sáng tạo và kết hợp chặt chẽ với sức mạnh của thời đại, tình


17

hình thế giới và trong nước. Luôn đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu trong tất cả các
mối quan hệ, phấn đấu cho lợi ích cao nhất của dân tộc.
Luôn nắm vững và kiên định phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh trong
quan hệ quốc tế, quán triệt sâu sắc nhận thức về đối tác và đối tượng trong tình hình
mới. Giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo trong sách lược, kiên định về
nguyên tắc, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, theo phương châm: “Dĩ bất biến ứng
vạn biến".
Xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn theo quan điểm thận trọng, cân

bằng, tạo thế đan xen lợi ích, không phụ thuộc vào bất cứ nước nào, không đi với
nước này để chống nước kia.
Không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt
chẽ đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân để tạo ra sức mạnh
tổng hợp trên mặt trận đối ngoại. Công tác đối ngoại phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt
chẽ của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước.
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, xu thế hòa bình, ổn định, hội nhập và phát
triển đang chiếm ưu thế. Nhưng, tình hình thế giới đã, đang và tiếp tục có những
biến đổi phức tạp và khó lường trên nhiều lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, văn
hoá…do vậy, vấn đề bảo vệ lợi ích dân tộc, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biên giới,
biển đảo đang trở thành vấn hàng đầu. Công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và
đối ngoại nhân dân phải có sự điều chỉnh kịp thời, để vừa đáp ứng nhu cầu phát
triển, phù hợp với thông lệ quốc tế; đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và bảo vệ môi trường, trên nguyên tắc kiên định
về tư tưởng đường lối, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam trong việc đề ra
các chính sách và bình đẳng và cùng có lợi giữa các quốc gia.


18

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. Vũ Duy Ninh (2014), Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam 1940 – 2010,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. GS.TS Vũ Dương Huấn (2018), Về chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt
Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Minh Thùy (2014), “Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam dưới ánh sáng ngoại giao Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị
và Truyền thông, tr.15-18.
4. Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương (2005), Đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi

mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế (2013), Chính sách đối ngoại Việt

Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị hành chính, Hà Nội.
6. Bộ Ngoại giao (2009), Vận dụng tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh thời
kỳ hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ Ngoại giao (2015), 70 năm Ngoại giao Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới

(Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội
10. Võ Hồng Phúc (2006), Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi
mới(1986 - 2005), Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
11. Tạp chí Cộng sản, "Ngành Ngoại giao cần kiên trì đường lối độc lập tự chủ,
đa dạng hóa, đa phương hóa", ngày 27/08/2015, Hà Nội.



×