CHƢƠNG I. TỔNG QUAN VỀ RCEP VÀ NGÀNH NÔNG – LÂM – THỦY
SẢN TẠI VIỆT NAM.
1. Tổng quan về Rcep.
RCEP là một hiệp định thương mại tự do bao gồm 10 nước thành viên
ASEAN và 6 quốc gia mà ASEAN đã ký hiệp định thương mại tự do (Trung Quốc,
Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand) (FTA ASEAN + 6). RCEP
chính thức được khởi động đàm phán tại Phnôm Pênh, Campuchia bên lề Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN 21, dựa trên nguyên tắc cơ bản là mở rộng và đẩy mạnh hơn
nữa cam kết của khối 10 nước ASEAN với các đối tác thương mại tự do khu vực.
Mục tiêu của RCEP là tích hợp các FTA khác nhau mà 10 nước ASEAN đã ký với
Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Ấn Độ và Trung Quốc (FTA ASEAN
+ 1) thành một Hiệp định toàn diện để tối đa hóa các lợi ích kinh tế. Với sự tham gia
của 16 nước Đông Á, RCEP sẽ tạo ra một trong những khu vực thương mại tự do
lớn nhất thế giới, bên cạnh Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), gồm hơn 3 tỷ
người (47% tổng dân số thế giới), chiếm khoảng 30% tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) và khoảng 40% tổng kim ngạch thương mại của thế giới.(*)RCEP sẽ khẳng
định vai trò trung tâm của ASEAN trong khu vực, góp phần tích cực tạo dựng và
thúc đẩy một cấu trúc khu vực vì hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở Châu Á, thúc
đẩy hội nhập kinh tế khu vực mạnh mẽ hơn, dần dần loại bỏ thuế quan và các rào
cản phi thuế quan, và đảm bảo tính nhất quán với các quy tắc của WTO.
Các cuộc đàm phán của RCEP được bắt đầu vào đầu năm 2013 và kết thúc
vào cuối năm 2015. Đến nay RCEP đang tiến hành đàm phán phiên thứ 9. Tuyên bố
của các nhà lãnh đạo các nước tham gia RCEP đã nêu rõ, RCEP sẽ là một Hiệp định
hiện đại, toàn diện, chất lượng cao và cùng có lợi, bao gồm các lĩnh vực: thương
mại hàng hóa; dịch vụ; đầu tư; hợp tác kinh tế và kỹ thuật; sở hữu trí tuệ; cạnh
tranh; giải quyết tranh chấp và các vấn đề khác. Các quốc gia trong khối RCEP sẽ
cam kết tự do hóa gần hết 100% thương mại, thông qua hàng loạt các hiệp định
thương mại tự do, ngoại trừ một số bảo vệ nhất định với những mặt hàng nhạy cảm,
chẳng hạn như gạo. RCEP là một FTA do ASEAN lãnh đạo, liên kết các nền kinh tế
của 16 quốc gia khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế, RCEP ra đời sẽ giảm bớt
sự phụ thuộc của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương vào thị trường Phương Tây
đang gặp khó khăn. Nguyên Tổng thư ký ASEAN, ông Surin Pitsuwan nhận định
một RCEP thành công sẽ tiếp tục củng cố sự dịch chuyển quyền lực kinh tế toàn cầu
từ Phương Tây sang Châu Á. Giới phân tích cho rằng RCEP sẽ trở thành một đối
trọng đối với Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP)
hiện đang trong quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và 11 quốc gia khác.
2. Tổng quan về ngành Nông – lâm – thủy sản ở Việt Nam.
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là các ngành kinh tế quan trọng của
Việt Nam với sản lượng từ năm 2005 đến năm 2015 đều chiếm trên 1/6 tổng sản
phẩm quốc gia, do đó, xuất khẩu các mặt hàng này cũng là thế mạnh của Việt Nam,
chiếm hơn 15% tỷ trọng, nhưng lại có xu hướng giảm trong những năm gần đây.
Năm 2014, tổng giá trị xuất khẩu các mặt hàng trên là 24.990,9 triệu USD, chiếm
16,64% tỷ trọng, trong khi năm 2015 là 23.568,8 triệu USD, chiếm 14,55 % tỷ
trọng, giảm 1.422,1 triệu USD. Đây là năm đầu tiên, giá trị tổng sản lượng xuất
khẩu quay đầu giảm sau thời kỳ tăng liên tiếp từ năm 1995 đến năm 2014. Tổng sản
lượng ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản luôn chiếm từ 17% trở lên
trong tổng sản phẩm quốc gia với giá trị sản lượng không ngừng tăng lên, song xét
về cơ cấu thì có xu hướng giảm liên tiếp trong các năm gần đây.
Bảng số liệu trên cho thấy, giá trị sản phẩm năm 2015 là 712.460 tỷ VNĐ,
gấp 1,8 lần so với năm 2010. Tuy nhiên, mức tăng các ngành này không bắt kịp đà
tăng trưởng chung của cả nước khi có sự sụt giảm cơ cấu liên tiếp trong những năm
gần đây, từ mức 19,57% tổng sản phẩm quốc gia năm 2011 xuống còn 17% năm
2015.
Tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam ở các nhóm ngành này cũng không
ngừng tăng lên. Nếu không xét tới xuất khẩu vàng (chiếm dưới 0,1%) thì cơ cấu
xuất khẩu của các nhóm ngành thay đổi đáng kể.
Bảng dữ liệu trên cho thấy, hàng nông sản, lâm sản và thủy sản sụt giảm
đáng kể cơ cấu, từ mức 22,79% năm 2010 xuống còn 14,55% năm 2015, xu thế sụt
giảm cơ cấu kéo dài liên tiếp và chưa có dấu hiệu phục hồi.
Tìm hiểu chi tiết sự sụt giảm xuất khẩu qua số liệu thống kê các mặt hàng
trong nhóm hàng trên được thể hiện qua.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong hàng nông, lâm, thủy sản là: Các cây
công nghiệp như cà phê, cao su, hạt điều; gạo và thủy sản (tôm, cá và mực chiếm
chủ yếu). Xét về cơ cấu, trừ mặt hàng hạt điều nhân có xu hướng tăng trong 3 năm
gần đây thì các mặt hàng khác đều sụt giảm. Xét về giá trị xuất khẩu, hạt điều nhân
có chuyển biến tích cực khi tăng liên tiếp trong 6 năm qua, hầu hết các mặt hàng
khác có giá trị xuất khẩu năm 2015 thấp hơn năm 2014 và năm 2013. Đặc biệt, mặt
hàng gạo suy giảm liên tiếp từ mức 3.673,7 triệu USD vào năm 2012 và chỉ còn
2.798,9 triệu USD vào năm 2015, giảm gần 24% giá trị.
CHƢƠNG II. TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH RCEP ĐẾN NGÀNH
NÔNG – LÂM - THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM
1.
Nông-Lâm-Thủy sản
Ở một mức độ nào đó, hội nhập kinh tế quốc tế ảnh hưởng tích cực đến sự
tăng trưởng của ngành nông-lâm-ngư nghiệp. Việt Nam trở thành một trong các
nước xuất khẩu hàng đầu nhiều nông sản như cà phê, gạo, tiêu, điều,… Việc thực
thi các cam kết thương mại làm thay đổi cấu trúc bảo hộ các phân ngành trong nước
đối với cả đầu vào và đầu ra. Điều này được minh chứng bằng tỷ lệ bảo hộ thực tế
(ERP), trong đó ERP nhỏ hơn cho thấy phân ngành đó nhìn chung ít được bảo hộ
hơn.
Mức độ bảo hộ ngành nông – lâm – thủy sản không đáng kể, phản ảnh qua
ERP và NRP (tỷ lệ bảo hộ danh nghĩa) trung bình của ngành rất thấp (Biểu đồ 1).
ERP luôn nhỏ hơn NRP. Đáng kinh ngạc là trước khi gia nhập WTO, cả ERP và
NRP của ngành nông – lâm – thủy sản có xu hướng tăng, nhưng ERP tăng nhanh
hơn NRP, vì vậy nên ERP tiến gần hơn tới NRP. Tuy nhiên, từ năm 2008, ERP
giảm nhanh hơn NRP. Sau khi gia nhập WTO, sản phẩm NLTS nhìn chung ít
được bảo hộ. Nhiều phân ngành nông – lâm – thủy sản có ERP rất thấp, thậm chí
âm như chăn nuôi lợn (-17.9%), sản phẩm nông nghiệp khác (-8.5%), gia cầm (6.6%), mía đường (-2.2%) và chăn nuôi gia súc (-1.6%).
Biểu đồ 1: ERP và NRP của ngành nông – lâm – ngƣ nghiệp (%)
3
2.5
2
2.22
2.39
1.5
0
2.23
2.19
0.67
0.57
2.26
2.2
1.57
1.08
1
0.5
2.59
0.64
2005
2006
2007
2008
ERP
2009
NRP
Nguồn: CIEM (2013).
0.74
2010
0.59
2011
Tính toán độ phân tán và số nhân nhập khẩu của một số sản phẩm phụ của
ngành NLTS (Bùi Trinh, 2012) cho thấy sự phát triển của các phân ngành như
chăn nuôi gia súc, lợn, gia cầm và các phân ngành chăn nuôi khác, nông sản khác
và nuôi trồng thủy sản (có độ phân tán lớn hơn 1) thúc đẩy sự phát triển của “các
ngành hạ nguồn” (ngành có mức độ hoàn thành của sản phẩm cao hơn), do đó
ảnh hưởng tích cực đến toàn bộ nền kinh tế mà không làm tăng đầu vào nhập
khẩu (vì số nhân nhập khẩu nhỏ hơn 1) . Tuy nhiên, những phân ngành này chưa
nhận được sự hỗ trợ đầy đủ, phản ảnh ở mức độ đầu tư khiêm tốn vào ngành
nông-lâm-thủy sản nói chung và các phân ngành trong đó nói riêng, điều này sẽ
được thảo luận chi tiết hơn trong phần dưới.
Bảng 4: Độ phân tán và số nhân nhập khẩu của một số phân ngành
nông – lâm – thủy sản
Ngành
Độ phân tán
Gia súc
1.149
Lợn
1.794
Gia cầm
1.616
Phân ngành chăn nuôi khác
1.591
Dịch vụ nông nghiệp và các nông
sản không đƣợc phân loại
1.484
Nuôi trồng thủy sản
1.694
Nguồn: CIEM (2013)
Số nhân nhập khẩu
0.724
0.752
0.748
0.747
0.796
0.771
2. Tổng sản lƣợng và thƣơng mại
2.1. Tổng sản lượng ngành nông – lâm – thủy sản
GDP nông – lâm – thủy sản cao nhất trong vài năm gần đây
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT),
các chỉ tiêu chủ yếu tổng hợp của ngành nông nghiệp năm 2018 đều vượt kế
hoạch cả năm và cao hơn năm trước. Cụ thể, GDP nông – lâm – thủy sản tăng
3,76%, đạt mức cao nhất trong bảy năm gần đây, giá trị sản xuất tăng 3,86%. Tỷ
lệ che phủ rừng đạt 41,65%; kim ngạch xuất khẩu (XK) 40,02 tỷ USD. Thặng dư
thương mại đạt 8,72 tỷ USD. Tiếp tục duy trì 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch
XK hơn một tỷ USD. Trong đó, có năm mặt hàng có kim ngạch hơn ba tỷ USD
gồm: gỗ và sản phẩm gỗ 8,86 tỷ USD; tôm 3,59 tỷ USD; rau quả 3,81 tỷ USD; cà
– phê 3,46 tỷ USD; hạt điều 3,43 tỷ USD).
Cơ cấu sản xuất tiếp tục được điều chỉnh phù hợp, hiệu quả hơn và gắn với
nhu cầu thị trường. Nhiều mô hình sản xuất rau, hoa, quả ứng dụng công nghệ
cao, hữu cơ đã đem lại thu nhập cao gấp trên năm lần so với sản xuất lúa. Giá trị
sản xuất trồng trọt tăng 2,52%, cao hơn mục tiêu đề ra (2,5%).
Trong lĩnh vực chăn nuôi, một số sản phẩm chăn nuôi bước đầu đã XK,
như thịt lợn đông lạnh chính ngạch sang Myanmar, thịt gà sang Nhật Bản. Giá trị
sản xuất chăn nuôi tăng 3,98%, cao hơn mục tiêu đề ra (2,1%).
Ngành thủy sản năm 2018, tiếp tục thành công, tổng sản lượng thủy sản
đạt 7,74 triệu tấn, tăng 6,1%. Tỷ trọng các sản phẩm có giá trị cao tăng mạnh
(tôm các loại đạt khoảng 800 nghìn tấn, tăng 7,1%, cá tra đạt khoảng 1,426 triệu
tấn, tăng 11,1%).
Ngành lâm nghiệp đã khai thông thị trường quốc tế cho XK sản phẩm gỗ
và lâm sản, Việt Nam và EU đã chính thức ký kết VPA/FLEGT. Giá trị sản xuất
lâm nghiệp tăng 6,10%.
Công nghiệp chế biến nông – lâm – thủy sản tiếp tục được nâng cao năng
lực, chế biến sâu. Năm 2018, có 16 nhà máy chế biến rau quả, thịt lợn, gia cầm
hiện đại với tổng mức đầu tư khoảng 8,7 nghìn tỷ đồng được khởi công và khánh
thành.
2.2. Thương mại
Về thương mại quốc tế, Việt Nam từ lâu là nước xuất khẩu ròng các sản
phẩm NLTS.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kim ngạch xuất khẩu (XK)
nông lâm thủy sản tháng 12 năm 2016 ước đạt 2,97 tỷ USD đưa tổng giá trị XK
năm 2016 đạt 32,1 tỷ USD, tăng 5,4% so với năm 2015.
Trong đó, giá trị XK các mặt hàng nông sản chính ước đạt 15,1 tỷ USD,
tăng 7,9% so với năm 2015; Giá trị XK các mặt hàng thủy sản ước đạt 6,99 tỷ
USD, tăng 6,4% so với năm 2015; Giá trị XK các mặt hàng lâm sản chính ước
đạt 7,23 tỷ USD, tăng 0,3% so với năm 2015.
Trong năm, XK hầu hết các mặt hàng nông sản tăng cả về số lượng và giá
trị. Nông sản Việt Nam có lợi thế so sánh và cạnh tranh cao trên thị trường quốc
tế, bao gồm gạo, cà phê, tiêu, điều, lâm sản và thủy sản. Việt Nam cũng có tiềm
năng lớn về xuất khẩu rau quả mặc dù có nhiều thách thức, như công nghệ thấp,
quy mô nhỏ, chất lượng chưa cao v.v.. Do đó, Việt Nam là một trong những nước
xuất khẩu hàng đầu trong nhiều loại nông sản thô hoặc chủ chốt, chiếm đa số kim
ngạch xuất khẩu NLTS Trong đó, mặt hàng cà phê, hạt điều, hạt tiêu là những
điểm sáng của XK nông sản trong năm 2016.
Cũng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kim ngạch nhập khẩu
toàn ngành ước đạt 24,5 tỷ USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy,
trong cả năm 2016, toàn ngành nông nghiệp xuất siêu 7,6 tỷ USD.
Sự gia tăng xuất khẩu NLTS một phần do các nhà sản xuất nông sản Việt
Nam ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu,
chất lượng và vệ sinh của hàng nông sản xuất khẩu khi nỗ lực mở rộng xuất khẩu
sang các thị trường khắt khe như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU. Họ cũng học hỏi
được nhiều kinh nghiệm trong giải quyết các vụ kiệnSự gia tăng xuất khẩu NLTS
một phần do các nhà sản xuất nông sản Việt Nam ngày càng nhận thức được tầm
quan trọng của việc xây dựng thương hiệu, chất lượng và vệ sinh của hàng nông
sản xuất khẩu khi nỗ lực mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khắt khe như
Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU. Họ cũng học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong giải
quyết các vụ kiện chống bán phá giá. Các vùng chuyên canh được hình thành,
đặc biệt là rau quả xuất khẩu như vải, bưởi Năm Roi, bưởi da xanh, sầu riêng hạt
nhỏ… Mô hình sản xuất quy mô lớn, sử dụng các công nghệ tiên tiến và giống
cây trồng có chất lượng cao và hợp vệ sinh, đã được thử nghiệm và nhân rộng
hơn.
3. Thƣơng mại của một số hàng nông sản của Việt Nam hiện nay
3.1. Cà phê
Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới sau Brazil và là nước
xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Việt Nam sản xuất gần 20% sản
lượng cà phê toàn cầu. Hiệp hội Cà phê và Cacao Việt Nam dự báo sản lượng cà
phê niên vụ 2016/17 sẽ giảm khoảng 20 – 25% do hạn hán. Chính phủ hướng đến
mục tiêu duy trì 600.000ha trồng cà phê đến năm 2020. Việt Nam có khoảng 100
doanh nghiệp xuất khẩu cà phê đang hoạt động, dẫn đầu là Intimex, Simexco và
Tín Nghĩa. Đức, Mỹ và Ý là những thị trường cà phê lớn nhất của nhà xuất khẩu
Việt Nam trong vòng 8 tháng đầu năm 2016.
Niên vụ (tháng 10 – 9)
2016/2017
2015/2016
2014/2015
2013/201
4
Diện tích sản xuất (ha)
650.000
641.200
653.352
– Khảo sát của Reuters (16/7)
26,5
28
27,2
28
– USDA (20/6/2016)
27,27
29,3
27,4
29,83
— Robusta
26,22
28,2
26,35
28,65
— Arabica
1,05
1,1
1,05
1,18
– ICO (14/1/2016)
27,5
26,5
27,5
25,15
26
19,79
Sản lƣợng (triệu bao)
Xuất khẩu (triệu bao)
– USDA (20/6/2016)
27,27
– Chính phủ (29/9/2016)
28,95
21,65
26,71
2,87
2,6
2,22
2,01
3,5
5,65
6,37
2,13
Tiêu dùng nội địa (triệu bao)
– USDA (7/6/2016)
Dự trữ cuối kỳ (triệu bao)
– USDA (20/6/2016)
Lưu ý: Dữ liệu xuất khẩu của USDA là cà phê xanh
3.2. Gạo
USDA dự báo xuất khẩu gạo năm 2016 của Việt Nam giảm 13,8% so với
năm 2015, xuống còn 5,7 triệu tấn. Việt Nam có thể xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo
qua biên giới trong năm 2016, giảm từ 1,9 triệu tấn trong năm 2015, theo một
nhà phân tích Việt Nam. Việt Nam đứng thứ 3 trong các nhà xuất khẩu gạo lớn
nhất thế giới sau Ấn Độ và Thái Lan, theo FAO.
Việt Nam có khoảng hơn 80 nhà xuất khẩu gạo, chiếm khoảng 20%
thương mại gạo toàn cầu. Trong 8 tháng đầu năm 2016, những thị trường xuất
khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc, Ghana và Indonesia.
Gạo
2016
2015
2014
Sản lƣợng lúa (triệu tấn)
44,25
45,21
44,99
– Vụ đông xuân
19,43
20,69
20,85
– Vụ hè thu
14,99
14,53
–Vụ3
9,53
9,61
Tổng diện tích gieo trồng 3 vụ (triệu ha)
7,83
7,81
Tiêu dùng (Triệu tấn)
21,9
22,1
18,75
5,7
6,62
6,5
Xuất khẩu gạo thành phẩm
– USDA (23/9/2016)
– Chính phủ/VFA
4,9
6,58
6,33
Sản lƣợng lúa (triệu tấn)
1,11
0,85
0,63
Lưu ý: Tiêu dùng và dự trữ cuối kỳ theo báo của USDA.
3.3. Cao su
Việt Nam là nước sản xuất cao su lớn thứ 3 thế giới sau Thái Lan và
Indonesia, và là nhà xuất khẩu lớn thứ 4 thế giới sau Thái Lan, Indonesia và
Malaysia. Hơn 500 nhà xuất khẩu chiếm 80% sản lượng, cộng với lượng cao su
mua từ Thái Lan, Campuchia và Indonesia. Trung Quốc, Ấn Độ và Malaysia là
những thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm
2016.
Cao su
2016
2.015
2.014
Diện tích sản xuất (ha)
982.000
981.000
978.900
– Chính phủ/VRA
643.000
1.017.000
966.600
Nhập khẩu (tấn)
390.300
326.500
Xuất khẩu (tấn)
1.000.000
1.137.400
Sản lượng mủ khô (tấn)
1.066.000
Lưu ý: Sản lượng năm 2016 tính đến tháng 9, VRA là Hiệp hội cao su
Việt Nam.
3.4. Hạt tiêu
Việt Nam là nhà sản xuất – xuất khẩu hạt tiêu đen lớn nhất thế giới, chiếm
30% thương mại toàn cầu. Việt Nam cũng thu mua hạt tiêu đen từ Campuchia,
Indonesia và Brazil để tái xuất. Hạt tiêu trắng chiếm khoảng 15% tổng xuất khẩu
hạt tiêu của Việt Nam. Vụ thu hoạch hạt tiêu bắt đầu từ tháng 2 và đạt định vào
tháng 3, kết thúc vào tháng 5. Việt Nam có mục tiêu đạt sản lượng hàng năm
140.000 tấn đến năm 2020, từ 50.000 ha diện tích trồng tiêu. Mỹ, UAE, và Ấn
Độ là những thị trường xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng
đầu năm 2016.
Hạt tiêu đen
*2016
2015
2014
Diện tích sản xuất (ha)
120.000
97.600
85.600
Sản lượng (Tấn)
192.900
126.000
147.000
Xuất khẩu (Tấn)
140.000
131.500
155.000
Lưu ý: Sản lượng năm 2016 tính đến tháng 9 theo Bộ NNPTNT.
3.5. Hạt điều
Việt Nam là nước xuất khẩu hạt điều lớn nhất thế giới, chỉ giữ lại 7% sản
lượng cho tiêu thụ nội địa và chiếm khoảng 50% thương mại hạt điều toàn cầu.
Việt Nam đã nhập khẩu 867.000 tấn điều thô trong năm 2015, chủ yếu từ châu
Phi và Đông Nam Á. Việt Nam có kế hoạch sản xuất 450.000 tấn điều thô trên
diện tích 350.000ha đến năm 2020. Mỹ, Hà Lan và Trung Quốc là các thị trường
xuất khẩu hạt điều chính của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2016.
Hạt điều
2016
2015
2014
Diện tích sản xuất (ha)
289.600
292.000
295.100
Sản lượng (Tấn)
303.500
345.000
345.100
Xuất khẩu (tấn)
330.000-350.000
328.200
302.500
Lưu ý: sản xuất – xuất khẩu năm 2016 theo mục tiêu của Hiệp hội
Điều Việt Nam.
3.6. Chè
Chè đen chiếm gần 80% xuất khẩu chè của Việt Nam. Pakistan, Đài Loan
và Nga là các thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu
năm 2016. Việt Nam là nước sản xuất – xuất khẩu chè lớn thứ 5 thế giới, đang cố
gắng duy trì khoảng 140.000ha chè đến năm 2020.
Chè
2016
2015
2014
Diện tích sản xuất (ha)
133.300
134.700
132.100
Sản lượng điều thô (tấn)
853.000
1000000
981.900
Xuất khẩu
124.600
132.500
Lưu ý: Sản lượng năm 2016 tính đến tháng 9 (GSO)
4. Đầu tƣ vào ngành NLTS
4.1. Đầu tư nhà nước
Đầu tư nhà nước cho ngành NLTS tăng lên theo thời gian, nhưng tỉ trọng
trong tổng đầu tư nhà nước có xu hướng giảm Phần lớn vốn đầu tư nhà nước vào
ngành NLTS đến từ nguồn vốn đầu tư phát triển mặc dù các nguồn khác đã được
huy động. Theo số liệu thống kê, năm 2010 đầu tư Nhà nước vào ngành NLTS là
51.062 tỷ đồng và đến năm 2016 là 67.567 tỷ đồng, chỉ tăng khoảng 16 tỷ đồng.
Trong khi tổng đầu tư của năm 2010 chỉ là 830.27 tỷ đồng và năm 2016 lên đến
1.147.14 tỷ đồng.
Cơ cấu đầu tư vào NLTS của Nhà nước
Tổng số
2010
2011
830.278
770.087
51.062
46.821
2012
2013
2014
2015
2016
812.71
872.12
957.63
1.044.42
1.147.14
4
4
0
0
7
42.180
50.897
48.456
59.323
67.567
Nông
nghiệp,
lâm nghiệp
và thủy sản
4.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Thực trạng FDI vào lĩnh vực nông lâm nghiệp thủy sản
Tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho ngành nông nghiệp rất thấp và
xu hướng tăng lên rất chậm trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 2007, tỷ trọng
này chiếm 0,8% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, đến năm 2015, tỷ trọng này cũng
chỉ chiếm khoảng 2% trong tổng số.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông lâm nghiệp thủy sản có xu hướng
không ổn định, năm 2007, tổng số vốn đăng ký là 35,4 triệu USD, tăng mạnh vào
năm 2008 với 252,8 triệu USD. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tổng vốn đăng
ký vào lĩnh vực nông lâm nghiệp thủy sản chỉ chiếm khoảng 100 triệu USD ( năm
2014 là 80,9 triệu USD và năm 2015 là 149 triệu USD).So sánh cơ cấu đầu tư trực
tiếp nước ngoài theo ngành, lĩnh vực, khu vực nông, lâm, ngư nghiệp thu hút được
rất ít dự án. Tính đến hết năm 2015, chỉ có 546 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn
đạt 3,989,3 triệu USD, chiếm 1.44% tổng vốn FDI tại Việt Nam. Quy mô vốn của
các dự án đều nhỏ, chủ yếu được sử dụng vào hoạt động chăn nuôi, sản xuất thức ăn
gia cầm, chế biến sản phẩm gia cầm để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Cơ cấu FDI vào nông lâm thủy sản theo ngành: Trong giai đoạn đầu,
ĐTNN tập trung chủ yếu vào các dự án chế biến gỗ và các loại lâm sản. Những năm
gần đây, ĐTNN có sự chuyển hướng sang đầu tư vào lĩnh vực trồng trọt, chế biến
nông lâm thuỷ sản, sản xuất đường mía, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi gia
súc gia cầm, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy, dịch vụ hậu cần kho lạnh, vận
chuyển… Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn
nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế
biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Lĩnh vực chăn nuôi và
chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm
gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD.
Cơ cấu FDI vào nông lâm thủy sản theo đối tác đầu tƣ: Cho đến nay, đã
có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-lâm-ngư nghiệp
nước ta, trong đó, Các đối tác châu Á (Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông,
Singapore, Trung Quốc, Thái Lan) chiếm gần 55% tổng vốn đăng ký đầu tư. Có thể
thấy, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp trong nội bộ các đối tác châu Á
có sự thay đổi, gần đây đầu tư của Nhật Bản tại Việt Nam chiếm tỷ trọng cao (chiếm
khoảng 33% năm 2015), tiếp theo là Hồng Kông và Thái Lan.
Cơ cấu FDI vào nông lâm thủy sản theo địa phƣơng: Tính chung đến hết
năm 2015, các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở
phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng
sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền
Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng
vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
Tuy nhiên, có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo vùng, vùng Trung du và
miền núi phía Bắc trong năm gần thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài vào
ngành nông nghiệp nhất, trong khi đó năm 2007 đây là vùng thu hút được ít nhất
vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp.
CHƢƠNG III. CƠ HỘI , THÁCH THỨC CỦA NGÀNH NÔNG – LÂM –
THỦY SẢN VIỆT NAM KHI THAM GIA RCEP VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI
PHÁP
1. Cơ hội:
Khi tham gia vào RCEP , Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận thị trường lớn hơn
cho các sản phẩm nông nghiệp, nhờ sự đa dạng các hương vị và thái độ nói chung
của người tiêu dùng đối với các sản phẩm này. RCEP cũng sẽ cần những nỗ lực
nhiều hơn để xúc tiến thương mại, có được đầu vào rẻ và chất lượng hơn, đầu tư
nhiều hơn và cạnh tranh để giải quyết những hạn chế về chất lượng. Lợi ích phi thị
trường bao gồm các cơ hội để cải thiện mức tiêu thụ dinh dưỡng hơn các sản phẩm
không dễ dàng mua được tại Việt Nam.
Một số mặt hàng Việt Nam có sức cạnh tranh cao đã thống trị thị trường khu vực
và toàn cầu : gạo, cà phê, hạt tiêu và hạt điều.... Các sản phẩm NLTS vẫn đóng một
vai trò quan trọng trong mô hình xuất khẩu của đất nước. Vì vậy, hội nhập nói
chung và tham gia hiệp định RCEP nói riêng sẽ giúp mang lại tác động tích cực đến
nền kinh tế Việt Nam.
Bằng việc đồng ý mở cửa thị trường đối với một số mặt hàng nông sản phù hợp
với các thỏa thuận tự do thương mại, do đó cho phép nhập khẩu một số sản phẩm
mà Việt Nam có khả năng cạnh tranh thấp. Với tình hình cạnh tranh gay gắt hơn từ
các đối tác thương mại khu vực và quốc tế do cam kết hội nhập, các sản phẩm có lợi
thế của Việt Nam dần dần cải thiện được khả năng cạnh tranh của mình, và giảm bớt
sự phụ thuộc vào trợ cấp và các rào cản thương mại.
2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội đạt được khi kí kết hiệp định RCEP, với một nước
đang phát triển như Việt Nam . Chúng ta không thể tránh khỏi những khó khăn ,
thách thức. Những thách thức liên quan đến các cơ hội bao gồm giải quyết các vấn
đề về chất lượng kém của các sản phẩm, nguồn lực để tận dụng lợi thế của thuận lợi
hóa thương mại (ví dụ như cơ sở hạ tầng tại biên giới), thực hiện việc tái cơ cấu cần
thiết cho phép tiếp cận thị trường lớn hơn và tăng cạnh tranh. Đây sẽ là một khó
khăn lớn đối với Việt Nam do quy mô sản xuất nông nghiệp còn nhỏ. Tuy nhiên,
Việt Nam đã từng đối mặt với những thách thức như vậy trong quá khứ, ví dụ như
trong quá trình cải cách đổi mới.
Một thách thức lớn có thể nhìn thấy là các hàng rào phi thuế quan (ví dụ như
chống bán phá giá) do thuế còn thấp gây ra một cuộc đua xuống đáy của thị trường
thế giới.
Hơn nữa mô hình thương mại chưa được cải thiện đáng kể vì những hàng hóa
tự nhiên, sơ hoặc đã qua chế biến vẫn chiếm phần lớn kim ngạch xuất khẩu, trong
khi nhập khẩu một lượng đáng kể yếu tố đầu vào cho sản xuất. Một số sản phẩmbị
mất lợi thế so sánh theo thời gian nên sẽ đối mặt với nhiều khó khăn trong việc
thâm nhập vào thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó, sức cạnh tranh của hàng hóa nông nghiệp Việt Nam vẫn còn
yếu. Chất lượng và độ an toàn của những hàng hóa này vẫn là mối quan tâm đáng
kể khi nhiều NTBs đã được đối tác thương mại đưa ra.
Quan hệ thương mại của Việt Nam tương đối tập trung vào một số đối tác
thương mại lớn cũng như các sản phẩm nhập khẩu hoặc xuất khẩu chủ đạo nên dễ bị
tổn thương hơn với những thay đổi về cầu hoặc cung từ các thị trường nói trên.
Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang một số nước và vùng lãnh thổ truyền
thống đã bị thu hẹp, trong khi sang những nước khác lại đang mở ra những tiềm
năng
Các sản phẩm có lợi thế của Việt Nam khá tương tự như của các nước láng
giềng. Do đó, cạnh tranh giữa các thành viên FTA dự kiến sẽ gay gắt hơn.
Đầu tư vào nông nghiệp gần đây còn thấp vì môi trường đầu tư không thuận
lợi, lợi nhuận thấp và nhiều rủi ro. Hầu hết các doanh nghiệp nông nghiệp quy mô
nhỏ và không hiệu quả, do đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của sản xuất nông nghiệp
và xuất khẩu.
3. Kiến nghị giải pháp phát triển ngành NLTS Việt Nam :
Với nhu cầu thực tế trong nước đang ngày càng tăng cao về các mặt hàng
phụ trợ cho nông nghiệp, lâm nghiệp như phân bón và thuốc trừ sâu. Chính phủ cần
mở rộng thương mại để nhập khẩu các mặt hàng chất lượng từ các nước trong khu
vực. Bên cạnh đó, nhà nước nên tìm cách vực lại hoạt động của các nhà máy thua lỗ
"nghìn tỷ" như Nhà máy Đạm Ninh Bình, Nhà máy Đạm Hà Bắc, Đạm DAP 1 Lào
Cai, DAP 2 Hải Phòng, tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp với giá rẻ để kêu gọi
đầu tư, trao quyền cho tư nhân làm chủ. Sản xuất các mặt hàng phụ trợ phải được
phát triển song song với sự phát triển sản lượng ngành Nông, Lâm, Ngư nghiệp.
"Môi trường là ưu tiên số 1". Đó là tiêu chí quan trọng trong sản xuất, chăn
nuôi để đảm bảo nguồn tài nguyên đất và nước cho nông nghiệp, lâm nghiệp và phát
triển thủy sản, tránh những biến cố đáng tiếc vừa qua về môi trường biển như ở
Formosa Hà Tĩnh. Định hướng nền nông, lâm, ngư nghiệp sạch, bền vững. Đây
cũng là con đường tạo uy tín về chất lượng cho xuất khẩu các mặt hàng quan trọng
như gạo, hải sản.
Tổng cục Thống kê cần thống kê chi tiết hơn trong mục "Thống kê nước
ngoài": Đặc biệt là mức nhập khẩu hàng năm ở các nước về các mặt hàng để dự báo
nhu cầu thế giới, thống kê mức xuất khẩu các mặt hàng của họ để nắm được đối thủ
cạnh tranh hay đơn giản là nguồn cung. Dự báo nhu cầu chính xác các sản phẩm cây
lâu năm: Cây cao su, cây điều, cà phê,… định hướng cho người dân có niềm tin
chuyển hướng hay tìm đầu ra cho sản phẩm các cây lâu năm.
Xây dựng các cặp: Nguyên liệu - Nhà máy. Cụ thể: Xây dựng trang trại rộng
lớn chuyên canh trồng cà phê, hạt điều, ngô, khoai, sắn,… áp dụng công nghệ cao
về máy móc để thay thế sức người, xây dựng nhà máy chế biến thức ăn gia súc hoặc
chế biến các nguyên liệu trên thành các mặt hàng tiêu dùng
Cuối cùng, bên cạnh RCEP, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại thông
qua ký kết các Hiệp định Thương mại. Phổ biến nội dung Hiệp định, đặc biệt là các
Hiệp định Thương mại mới như Hiệp định FTA giữa Việt Nam và Liên minh kinh tế
Á - Âu có hiệu lực từ 5/10/2016. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt động hiệu
quả tại những thị trường trong cam kết của các Hiệp định Thương mại.
KẾT LUẬN
Tóm lại , nhận định được đưa ra từ báo cáo trên là tương tự như các Hiệp
định thương mại tự do (FTA) và các cam kết hội nhập khác, RCEP được kỳ vọng sẽ
mang lại những cơ hội mới cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành nônglâm-thủy sản Việt Nam nói riêng. Sự tăng trưởng đó đã được thể hiện rõ qua số liệu,
kim ngạch xuất khẩu thu thập được từ Tổng cục thống kê .
Hiệp định RCEP giúp cải thiện tiếp cận các thị trường đầu tư và xuất khẩu
của Việt Nam và các đối tác với nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ đa dạng; mở
cửa để nhập hàng hóa rẻ hơn; tham gia vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực; giảm
chi phí giao dịch và tạo dựng môi trường kinh doanh thân thiện hơn nhờ hài hòa hóa
các quy định hiện hành và áp dụng các quy định đó trong khuôn khổ các FTA khác
nhau của ASEAN; tăng cường hợp tác kỹ thuật và vị thế của Việt Nam trong giải
quyết tranh chấp về thương mại và đầu tư.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia kinh tế, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hơn
và đàm phán các FTA vẫn đang diễn ra, bao gồm cả RCEP, Việt Nam cần tận dụng
những cơ hội và khắc phục thách thức nhằm thúc đẩy thương mại đầu tư, tập trung
vào nhập khẩu công nghệ tiên tiến để chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bao gồm
công nghệ sạch, dần trở thành một nền kinh tế tri thức và thân thiện môi trường.Nền
tảng cho những định hướng này là nỗ lực nâng cao khả năng cạnh tranh của NLTS
trong nước, và tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị năng động của khu vực RCEP.
Trong quá trình nhóm thực hiện báo cáo, không thể tránh khỏi sự tương đối
về số liệu, ý đưa ra chưa bao quát được hết hoặc một số lỗi khác. Nhóm rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của giảng viên để báo cáo có thể hoàn thành được tốt
hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Khánh Linh (2018), “Tăng trưởng nông lâm thủy sản đạt mức cao nhất trong 7
năm”,Thời báo tài chính Việt Nam.
[Truy cập lần cuối ngày
15/6/2019]
2. Nguyễn Hạnh(2016), “Năm 2016 xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 32,1 tỉ USD”,
Diễn đàn công thương Việt Nam.
[Truy cập lần cuối ngày 15/6/2019]
3. Geuters Gappingworld (2016), “Thực trạng xuất khẩu nông sản chủ lực của Việt
Nam và dự báo”
[Truy cập lần cuối ngày 15/6/2019]
4.
Ths. Lê Thị Quỳnh Nhung (2017), “Thực trạng ngành Nông, Lâm, Ngư nghiệp
Việt Nam trong các năm gần đây và đề xuất một số giải pháp phát triển trong
thời gian tới”,Tạp chí Công Thương.
[Truy cập lần cuối ngày 18/6/2019]
5. Mai Ca (2016) , “RCEP-cơ hội mới cho xuất khẩu Việt Nam”,Báo Công Thương
Điện tử
[Truy cập lần cuối ngày 18/6/2019]