Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

tiểu luận kinh tế học quốc tế II những tác động của khu vực mậu dịch tự do ASEAN tới nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.32 KB, 26 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việc hội nhập về kinh tế với khu vực và thế giới là một điều kiện tất yếu cho bất kì
một quốc gia nào muốn phát triển đầy đủ và giàu có, Việt Nam cũng không nằm ngoài
quy luật đó. Một quốc gia sẽ giảm được nhiều rủi ro khi hội nhập nếu quốc gia đó nhận
thức đúng đắn về khả năng và vị thế của mình trong tương quan so sánh với các quốc gia
khác.
Là một quốc gia đang phát triển và có nền kinh tế được định hướng dịch chuyển sang
nền kinh tế thị trường với sự điều tiết của Nhà nước, Việt Nam có rất nhiều lợi thế khi
đang có những điều kiện thuận lợi mà các nước đang phát triển khác không có, hơn nữa,
nhận thức rõ được xu thế phát triển của thế giới là đưa khoa học, tiến bộ kỹ thuật công
nghệ vào đời sống và sản xuất, đem đến một nền văn minh hậu công nghiệp, thúc đẩy sự
phát triển mọi mặt của nền kinh tế - xã hội con người. Có thể nói Việt Nam đang dần
trưởng thành và khẳng định vị thế của mình trong mắt bạn bè quốc tế. Việc tham gia vào
khu vực ASEAN năng động, có tốc độ phát triển đáng kinh ngạc khoảng từ 5 – 6% – theo
đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu thì đó sẽ vừa là thách thức, vừa là cơ hội cho Việt
Nam. Tiếp theo đó một năm kể từ khi tham gia khối ASEAN, ngày 1/1/1996, Việt Nam
tiếp tục gia nhập vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Tham gia AFTA như là
một bước khởi đầu, nhưng lại mang ý nghĩa quyết định đối với quá trình hội nhập kinh tế
của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Trong qua trình thực
hiện CEPT, mỗi nước thành viên đều phải tiến hành những điều chỉnh và chuẩn bị cần
thiết trên nhiều phương diện khác nhau để đối phó với mức độ cạnh tranh cao hơn từ các
nước thành viên trong khu vực.
Như đã biết, những ảnh hưởng của AFTA đối với các nước thành viên sẽ tùy thuộc
vào trình độ phát triển của mỗi nước. Việt Nam đang trong tiến trình xây dựng đất nước
theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đồng thời là việc thực hiện cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0, vì vậy sẽ phải đương đầu với nhiều vấn đề thách thức – cơ hội trong việc
tận dụng những nguồn đầu tư từ bên ngoài, cần thiết đổi mới và khắc phục những hạn chế
từ các doanh nghiệp cũng như các cơ chế của nhà nước ta.
Trên cơ sở đó, chúng em đã chọn đề tài “Những tác động của khu vực mậu dịch tự
do ASEAN tới nền kinh tế Việt Nam” để làm bài tiểu luận cho môn học Kinh tế học
Quốc tế I. Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này do thời gian và nguồn tài liệu cũng


như kiến thức còn chưa đủ vững nên chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế. Chúng
em rất mong nhận được những góp ý của cô để bài tiểu luận hoàn thiện hơn!

1


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Khái niệm và cơ sở hình thành của AFTA
1.1. Khái niệm về AFTA
AFTA là tên viết tắt của ASEAN Free Trade Area – Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN, là một hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương giữa các nước trong khối
ASEAN. Bên cạnh đó, AFTA được hình thành trên cơ sở chính là Hiệp định về Chương
trình ưu đãi Thuế quan có hiệu lực chung(Common Effective Preferential Tariff - CEPT).
Như vậy, nghĩa vụ chính của các nước thành viên khi tham gia Hiệp định này là thực hiện
việc cắt giảm và tiến tới xóa bỏ thuế quan theo một lộ trình chung có tính đến sự khác biệt
về trình độ phát triển và thời hạn tham gia của các nước thành viên.
Theo cam kết, các nước thành viên phải giảm thuế nhập khẩu đối với các nước còn lại
trong khu vực xuống 0-5% trong vòng 10 năm. Theo đó, 6 nước thành viên cũ của
ASEAN, gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippine, Singapore và Thái Lan hoàn thành
việc cắt giảm thuế quan xuống 0-5% vào 2003 và đối với Việt Nam là 2006.
1.2. Cở sở hình thành AFTA
Giữa thập niên 60, để giải quyết những thách thức về kinh tế chính trị trong khu vực
đồng thời giải tỏa những khó khăn và sức ép chính trị từ bên ngoài, ngày 08/08/1967 tại
Thái Lan 5 nước khu vực Đông Nam Á gồm Thái Lan, Indonesia, Philippines, Malaysia,
Singapore đã cùng nhau kí kết tại Bankok – Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)
chính thức được thành lập. Sau gần 50 năm hoạt động, đến nay số thành viên hiệp hội
tăng lên 10 thành viên với gần 630 triệu dân, GDP đạt khoảng 2400 tỷ USD (năm 2013),
ASEAN đã trở thành nền kinh tế lớn thứ tám thế giới.
Trong những năm đầu, hoạt động giữa các nước ASEAN chỉ giới hạn trong lĩnh vực
chính trị quốc tế và an ninh nội bộ. Hợp tác kinh tế trong hiệp hội chỉ bắt đầu vào năm

1987, và đặc biệt đến đầu những năm 90 mới bắt đầu tiến hành các nỗ lực để thức đẩy sự
liên kết kinh tế với tư cách như một cộng đồng thế giới. Tuy vậy, mặc dù đã có nhiều nỗ
lực để thúc đẩy hợp tác kinh tế, nhưng kết quả của những nỗ lực đó không đạt được như
mục tiêu mong đợi. Chỉ đến năm 1992, khi hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN mới
thực sự được đưa lên một tầm cao mới.
Trước khi AFTA ra đời, hợp tác kinh tế ASEAN đã trải qua nhiều kế hoạch hợp tác
kinh tế khác nhau, đó là:
-

Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA).
Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP).
Kế hoạch kết hợp công nghiệp ASEAN và kết hợp từng lĩnh vực.
Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV).
2


Các kế hoạch kinh tế tên tuy đã thể hiện nỗ lực để thúc đẩy sự liên kết kinh tế nhưng
tác động của nó chỉ ảnh hưởng đến một phần nhỏ trong thương mại nội bộ khối và không
đủ khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong khối. Có nhiều lý do khác nhau dẫn đến sự
không thành công này. Đó là sự yếu kém trong hoạch định kế hoạch, quản lí thiếu hiệu
quả và trong nhiều trường hợp, hoạt động của chính tổ chức phụ thuộc vào ý chí của các
chính phủ chứ không phải vào nhu cầu khách quan cả thị trường.
Tuy nhiên, các hoạt động hợp tác kinh tế của ASEAN đã có khuynh hướng tiến đến
hiệu quả hơn từ AIP đến AIJV. Khu vực tư nhân đã chú trọng hơn, quy luật thị trường dàn
được tuân thủ, các thủ tục liên quan đã được đơn giản hóa và một số trường hợp các thủ
tục rườm rà đã được loại bỏ, mức ưu đãi được tăng cường. Do đó, tuy không đạt được kết
quả mong đợi nhưng các kế hoạch hợp tác kinh tế này thật sự là những bài học quý báu
cho việc hợp tác kinh tế giữa các nước đang phát triển. AFTA đã ra đời trên cơ sở rút kinh
nghiệm từ những kế hoạch hợp tác kinh tế trước AFTA.
2. Những mục tiêu chính của AFTA

Việc thành lập AFTA năm 1992 là dấu mốc quan trọng quan trọng trong lịch sử tự do
hóa thương mại nội bộ ASEAN, đánh dấu sự phát triển mới trong việc hợp tác thương mại
khu vực. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4 tháng 1/1992 họp tại Singapore quyết định
thành lập AFTA với 3 mục tiêu cơ bản sau:
- Tự do hóa thương mại ASEAN bằng cách loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi
thuế quan trọng nội bộ khu vực các nước ASEAN.
Đây là mục tiêu quan trọng nhất của AFTA vì các nước thành viên ASEAN đều có
nền kinh tế hướng ngoại ( tỉ trọng mậu dịch nội bộ khối chỉ chiếm 2.7%, trong khi đó tỉ
trọng mậu dịch với các nước khác: Mĩ chiếm 13.8%, EU chiếm 12%, theo số liệu tổng
cục thống kê 2017 ).
Hơn nữa cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của các nước ASEAN tương đối giống nhau
vì các nền kinh tế ASEAN chủ yếu đều là các nền kinh tế đang phát triển có các điều kiện
và nhu cầu xuất nhập khẩu tương đối giống nhau nên kim ngạch thương mại chịu ảnh
hưởng trực tiếp của AFTA là không lớn.
Tuy không thể so được với các thỏa thuận thương mại khu vực khác nhưng mục tiêu
này của AFTA thúc đẩy sự hợp tác kinh tế trong nội bộ khu vực ASEAN, từng bước tiến
tới xóa bỏ thuế nhập khẩu giữa các nước trong khu vực nhưng vẫn giữ nguyên đối với các
nước khác, sẽ tăng sức cạnh tranh của hàng hóa ASEAN trên thương trường quốc tế.
- Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng cách đưa ra mội khối thị
trường thống nhất.
3


Mục tiêu của AFTA là biến các nước ASEAN thành khu vực hợp tác kinh tế thông
qua việc thực hiện các chương trình kinh tế mà quan trọng nhất là chương trình ưu đãi
thuế quan (CEPT). Mục tiêu trung tâm này góp phần làm tăng cường năng lực kinh tế của
các nước thành viên ASEAN nhằm tạo ra sức mạnh để tự bảo vệ mình và vươn lên trong
sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn của nền kinh tế thế giới, tăng sức hấp dẫn của môi
trường đầu tư nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
AFTA sẽ tạo ra một thị trường thống nhất, cho phép việc khai thác lợi thế kinh tế về

qui mô và tạo nhiều điều kiện thuận lợi khác cho việc hấp dẫn đầu tư nước ngoài. Khi đầu
tư nước ngoài vào ASEAN tăng lên, do việc mở rộng khai thác các lợi thế của AFTA,
chắc chắn sẽ dẫn đến việc gia tăng trao đổi buôn bán giữa các nước ASEAN về các sản
phẩm đầu vào của quá trình sản xuất.
Mục tiêu của AFTA là xây dựng một khu vực đầu tư ASEAN thông thoáng, rõ ràng và
hấp dẫn nhất nhằm đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN từ cả các nguồn trong và ngoài Hiệp
hội. Tinh thần của AFTA là muốn các nước thành viên “mở cửa ngay lập tức” các ngành
nghề và “dành ngay lập tức” chế độ đối xử quốc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào ASEAN sẽ tăng nhờ sự lớn mạnh của chính thị trường khu vực ASEAN và theo đó, sẽ
ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nhằm cung cấp sản phẩm cho các thị trường
này.
- Hướng ASEAN thích nghi với các điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt
là trong sự phát triển của xu thế tự do hóa thương mại.
Chương trình CEPT là sẽ đưa ASEAN AFTA trở thành một khu vực mở và là sự phản
ứng đáp lại với các mô hình bảo hộ mậu dịch ở cả trong và ngoài khu vực. Hay nói cách
khác mục tiêu này liên quan đến sự đáp ứng của ASEAN đối với xu hướng đang gia tăng
của chủ nghĩa khu vực trên thế giới. Trước những biến động của bối cảnh quốc tế, AFTA
buộc phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện và tương lai có thể không chỉ dừng lại ở một khu
vực mậu dịch hay liên minh quan thuế mà sẽ tiếp tục được phát triển thành một liên minh
tiền tệ, một liên minh kinh tế. Nhờ tăng buôn bán trong và ngoài khu vực, AFTA sẽ trợ
giúp cho các quốc gia thành viên ASEAN thích ứng được với chế độ thương mại đa biên
đang tăng lên ngày càng nhanh chóng, hoà nhập với xu thế thương mại chung của thế
giới.
AFTA mới chỉ là nấc thang đầu tiên trong tiến trình khu vực hóa. Với sức ép của các
hợp tác kinh tế khu vực và các tổ chức thương mại quốc tế khác, AFTA buộc phải đẩy
nhanh tốc độ thực hiện và không chỉ dừng lại ở một liên minh thuế quan hay một khu vực
mậu dịch tự do mà trong tương lai sẽ tiếp tục tiến đến những tầm cao mới như thị trường
chung, liên minh kinh tế.
4



3. Những quy định cơ bản của AFTA/CEPT
a)Hiệp định CEPT và các quy định chung của CEPT
Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN, các nước ASEAN – cũng
trong năm 1992, đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common
Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT. CEPT là một thỏa thuận chung giữa các
nước thành viên ASEAN về giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%
đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi thuế quan trong
vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003 (đây là thời hạn đã có sự
đẩy nhanh so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu: từ 15 năm xuống còn 10 năm). Để xây
dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc thực hiện Hiệp định chung về thuế
quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu, không tách rời dưới đây:
-Thứ nhất: Vấn đề giảm thuế quan: Mục tiêu cuối cùng của AFTA là giảm thuế quan
xuống 0-5 % theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các nước mới, nhưng thời hạn tối
da là trong vòng 10 năm.
-Thứ hai: Vấn đề loại bỏ hàng rào phi thuế quan(NTB): hạn ngạch, cấp giấy phép,
kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật (kiểm dịch,vệ sinh dịch tễ).
-Thứ ba: Hài hòa các thủ tục hải quan.
b) Các nội dung và quy định cụ thể
- Vấn đề về thuế quan
Nghĩa vụ chính là của các nước thành viên là khi tham gia Hiệp định này là thực hiện
việc cắt giảm và xóa bỏ thuế quan theo một lộ trình chung có tính đến sự khác biệt về
trình độ phát triển và thời hạn tham gia của các nước thành viên. Theo cam kết trong Hiệp
định các nước thành viên phải giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0-5% trong vòng 10 năm.
Theo đó, các nước ASEAN-6 (gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philipines, Singapore và
Thái Lan) sẽ hoàn thành việc cắt giảm thuế quan xuống 0-5% vào các năm 2003 và đối
với Việt Nam là 2006. Tuy nhiên, để bắt kịp theo xu thế hội nhập khu vực và toàn cầu
hóa, các nước ASEAN đã cam kết xóa bỏ hoàn toàn thuế quan vào năm 2010 đối với các
nước ASEAN-6 và 2015 có linh hoạt đến 2018 đối với 4 nước thành viên mới (Lào,
Campucia, Myanmar, Việt Nam). Các nước ASEAN cũng đa cam kết đẩy nhanh tiến trình

hội nhập ASEAN đối với 12 lĩnh vực ưu tiên gồm: gỗ, ô tô, cao su, dệt may, nông nghiệp,
thủy sản, điện tử, công nghệ thông tin, y tế, vận tải hàng không, du lịch và dịch vụ
logistics, theo đó thuế quan sẽ được xóa bỏ sớm hơn 3 năm, đó là vào năm 2007 đối với
ASEAN-6 và 2012 đối với các nước Lào, Campuchia, Myanmar và Việt Nam.
Để thực hiện chương trinhg giảm thuế này, toàn bộ các mặt hàng trong doanh mục
biểu thuế quan của mỗi nước được chia vào 4 danh mục sau:
5


Danh mục các sản phẩm giảm thuế (IL): bao gồm các mặt hàng được đưa vào cắt
giảm thuế ngay với lịch trình:
- Giảm thuế nhanh (FTP): Danh mục này gồm việc giảm thuế đánh vào 15 loại hàng
hóa của khối ASEAN. Việc giảm thuế xuống 0-5% có hiệu lực vào năm 1998 đối với các
mặt hàng hiện có mức thuế dưới 20% và năm 2000 với các mặt hàng có mức thuế trên
20%.
- Giảm thuế bình thường (NTP): Theo danh mục này, các nước ASEAN sẽ giảm
mức thuế quan đánh vào sản phẩm do các nước này làm ra xuống còn 0-5% vào năm
2000 đối với những mặt hàng có mức thuế suất từ 20% trở xuống, và vào năm 2003 đối
với mặt hàng có mức thuế hiện hành 20%.
Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL):
Danh mục gồm những mặt hàng tạm thời chưa giảm thuế vì lí do là để tạo thuạn lợi
cho các nước thành viên có một thời gian ổn định trong một số lĩnh vực cụ thể nhằm iếp
tục các chương trình đầu tư đã được đưa ra trước khi tham gia kế hoạch CEPT cũng như
là có thời gian chuyển hướng đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu. Tuy nhiên,
sau một thời gian là 3 năm các quốc gia ASEAN phải chuyển dần các mặt hàng từ danh
mục tạm thời chưa giảm thuế TEL sang danh mục giảm thuế IL. Cụ thể là trong vòng 5
năm, từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong danh mục này
thì các nước phải đồng thời chỉ ra lịch trình giảm thuế của mặt hàng đó đến khi hoàn
thành CEPT.
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL):

Danh muc này bao gồm những sản phẩm không có nghĩa vụ giảm thuế quan. Các
nước thành viên có quyền đưa ra danh mục các mặt hàng này trên cơ sở nhằm bảo vệ an
ninh quốc gia hay tinh thần, đạo đức xã hội, sức khỏe con người, động vật, thực vật, bảo
tồn các giá trị văn hóa, lịch sử và khảo cổ. Việc cắt giảm thuế cũng như xóa bỏ các biện
pháp phi thuế quan đối với các mặt hàng này sẽ không được xét đến chương trình CEPT.
Đối với các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL):
Theo hiệp định CEPT – 1992, sản phẩm nông sản chưa qua chế biến khoog đưa vào
kế hoạch thực hiện CEPT. Tuy nhiên, theo hiệp định CEPT sửa đổi, các sản phẩm nông
sản chưa chế biến này sẽ được đưa vào 3 loại danh mục khác nhau là: danh mục giảm
thuế, danh mục loại trừ tạm thời và một danh mục đặc biệt là danh mục các sản phẩm
nông sản chưa chế biến nhạy cảm. Hàng nông sản chưa chế biến trong danh mục cắt giảm
thuế ngay được chuyển vào chương trình cắt giảm thuế nhanh hoặc cắt giảm thuế bình
thường vào 1/1/1996 và sẽ được giảm thuế xuống còn 0-5% vào 1/1/2003. Các sản phẩm
trong danh mục tạm thời loại trừ của hàng nông sản chưa chế biến sẽ được chuyển sang
danh mục cắt giảm thuế trong vòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003 với mức độ là 20%
mỗi năm. Các sản phẩm trong danh sách nhạy cảm được xếp vào hi danh mục tùy thuộc
vào mức độ nhạy cảm bao gồm:
- Danh mục mặt hàng chưa chế biến nhạy cảm
- Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm cao.
6


- Huỷ bỏ hạn chế về định lượng hàng rào phi quan thuế
Để thiết lập được khu vực mậu dịch tư do,việc cắt giảm thuế quan cần phải được tiến
hành đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, bao gồm các hạn chế về số
lượng( như hạn ngạch,giấy phép,…) và các hàng rào phi thuế quan khác (như các khoản
phụ thu,các quy định về tiêu chuẩn chất lượng,…). Các hạn chế về số lượng có thể được
xác định một cách dễ dàng và do đó được quy định loại bỏ ngay đối vớt mặt hàng trong
chương trình CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên khác. Tuy nhiên, việc
xác định và loại bỏ phức tạp hơn rất nhiều đối với các rào cản phi thuế quan khác.Hiệp

định CEPT quy định về vấn đề này như sau:
Bước 1: Các nước thành viên cùng thống nhất định nghĩa về các biện pháp phi quan
thuế dựa trên sự phân loại của UNCTAD.
Bước 2: tập trung trước tiên việc giảm các hàng rào phi thuế quan đối với các sản
phẩm có tỷ trọng lớn trong giao dịch thương mại nội bộ ASEAN.
Bước 3: Ban thư ký ASEAN sẽ tập hợp thông tin các hàng rào phi quan thuế của các
nước thành viên từ nhiều nguồn, gồm: báo cáo của các quốc gia thành viên, bản đánh giá
chính sách thương mại của GATT, báo cáo của Phòng thương mại-Công nghiệp ASEAN,
hệ thống thông tin và phân tích dữ liệu thương mại của UNCTAD… để có một chính sách
điều hoà thích hợp. Trừ một số lý do được phép duy trì các hàng rào phi quan thuế như:
sự cần thiết phải bảo hộ một số sản phẩm thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn, sự bảo hộ
đối với một số sản phẩm trong thời gian còn được hưởng chế độ miễn trừ tạm thời…
- Sự phối hợp trong ngành hải quan
Phối hợp hải quan là cơ chế thực hiện của chương trình CEPT khi nó hỗ trợ các nước
thành viên thống nhất biểu thuế quan theo Hệ thống điều hoà (HS) của nó. Hơn nữa, nó
tạo thuận lợi cho việc thực hiện giảm thuế và phi quan thuế khi hệ thống tính giá hải quan
được thống nhất, các luồng xanh ưu đãi cho hàng hoá theo CEPT của ASEAN được hình
thành và đặc biệt thủ tục hải quan được thống nhất. Như vậy, tiến trình AFTA nhanh hay
chậm, được điều chỉnh hay bổ sung đều tuỳ thuộc đáng kể vào các chương trình hợp tác
hải quan.
Tổng cục Hải quan đã tham gia với các nước thành viên ASEAN khác trong mọi lĩnh
vực hợp tác hải quan ASEAN: Điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế quan của các
nước ASEAN; Điều hoà thống nhất các hệ thống xác định trị giá hải quan để tính thuế;
Điều hoà thống nhất quy trình thủ tục hải quan ASEAN; Xuất bản sách Hướng dẫn về các
quy trình thủ tục hải quan của các nước; Triển khai Hệ thống Luồng xanh để nhanh chóng
hoàn thành các thủ tục hải quan cho các sản phẩm của CEPT; Xây dựng tờ khai hải quan
chung; Xây dựng Hiệp định Hải quan của các nước ASEAN.
7



CHƯƠNG II: NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA AFTA TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi tham gia vào AFTA
1.1. Cơ hội
-

Bắt kịp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới:

Khi tham gia AFTA, chúng ta sẽ có điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tốc độ phát triển
kinh tế và thương mại, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
bởi AFTA ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Như vậy,
sẽ kích thích các doanh nghiệp trong nước tập trung lao động, tích cực khai thác tài
nguyên sẵn có để xuất hàng hoá xuất khẩu. Tham gia AFTA sẽ là một dịp để Việt Nam
tiếp cận với thị trường thế giới và nhanh chóng hội nhập với cộng đồng quốc tế, giảm sự
lệ thuộc vào một số thị trường lớn. Đó là xu hướng chung của nền kinh tế bởi mục tiêu
tối hậu của hội nhập kinh tế là vì sự tăng trưởng kinh tế. Nếu xét theo khía cạnh năng
động và ở tầm dài hạn, thì hội nhập kinh tế có thể đóng góp cho sự tăng trưởng kinh tế và
phát triển của đất nước thông qua các kênh: tri thức – đem lại tăng trưởng năng suất; tích
tụ vốn nhân lực và vật lực; và thúc đẩy công cuộc đổi mới. Tham gia AFTA giúp nâng cao
vị thế của Việt Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhất là trong đàm phán đa phương, tạo
cho Việt Nam có điều kiện mở rộng thị trường, tranh thủ những ưu đãi về thương mại, đầu
tư và các lĩnh vực khác được áp dụng trong nội bộ tổ chức.
-

Có điều kiện thâm nhập vào thị trường lớn với số dân đông đúc

Vì mục tiêu thị trường của AFTA thực hiện thông qua việc giảm dần từng bước đi tới
triệt tiêu hàng rào thuế quan giữa các nước thành viên. Việt Nam sẽ thu được nguồn lợi
lớn do mậu dịch tự do đem lại, hơn nữa có điều kiện xuất khẩu hàng của mình vào một thị
trường rộng lớn của các nước thành viên ASEAN với hơn 600 triệu dân mà không đòi hỏi
quá cao về chất lượng sản phẩm, các ưu đãi buôn bán được mở ra.

-

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Tham gia AFTA sẽ tạo ra sức ép và động lực giúp các doanh nghiệp Việt Nam đổi
mới cách thức tổ chức, phương thức sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm
và tăng sức cạnh tranh từ đó có cơ hội để phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thương
mại và dịch vụ tạo nên cơ cấu kinh tế hợp lý.
1.2.

Thách thức
- Thách thức chung:

8


Sức ép ngày càng tăng đối với các doanh nghiệp trong cũng như ngoài khu công
nghiệp, khu chế xuất do hàng hóa của các nước thành viên ASEAN sẽ nhập vào thị
trường nước ta ngày càng nhiều với thuế suất giảm dần đến 0% tại nên sự cạnh tranh
ngày càng quyết liệt trong quá trình quốc tế hóa thương mại; Xuất phát điểm của nền
kinh tế Việt Nam thấp hơn so với các nước thành viên khác; Kĩ thuật còn hạn chế; Khác
biệt về hệ thống thuế áp dụng đối với hàng xuất nhập khẩu và hệ thống mã số của Biểu
thuế Việt Nam so với các nước ASEAN khác; Việc cắt giảm thuế mạnh và đột ngột vào
những năm cuối sẽ khiến cho các doanh nghiệp đang được hưởng mức bảo hộ cao từ thuế
quan sẽ rơi vào tình trạng khó khăn. Ngoài ra,việc cắt giảm thuế quan muộn sẽ gây tâm
lý thiếu chủ động cho các doanh nghiệp để phấn đấu nâng cao khả năng cạnh tranh ở cả
thị trường trong nước và quốc tế; Về mặt đối ngoại, theo tinh thần của CEPT, năm 2001
tất cả các mặt hàng sẽ đưa vào cắt giảm của Việt Nam có thuế suất CEPT cao hơn 20%
đều phải đưa xuống bằng hoặc thấp hơn 20% còn mức thuế thực hiện CEPT những mặt
hàng bắt đầu được chuyển vào thực hiện cắt giảm từ những năm sau đó cũng không được

cao hơn 20%, như vậy Việt Nam cũng sẽ vấp phải không ít khó khăn vướng mắc.
- Thừa nhận tự do hóa Thương mại tự do hoá lưu chuyển hàng hoá trong khu vực:
Đây là những việc làm mà nước ta chưa thực hiện bao giờ, bắt đầu tham gia AFTA
ở trình độ kinh tế thấp, các nước ASEAN đều đạt tốc độ tăng trưởng cao, do đó ta phải cố
gắng nhiều hơn. hiên tại sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn rất yếu, yếu toàn
diện nếu so sánh về mặt giá cả và chất lượng. Hàng nhập ngoại nhập vào sẽ xảy ra tình
trạng rất nhiều ngành công nghiệp địa phương không cạnh tranh được, sản xuất ra không
ai tiêu thụ. Tiêu biểu là các ngành Dệt may, Giầy dép, Điện gia dụng…Trước sức ép của
thị trường do hàng rào thuế quan giảm đòi hỏi chúng ta phải điều chỉnh sản xuất, đổi mới
công nghệ, cải tiến kĩ thuật để hàng hoá Việt Nam có đủ sức cạnh tranh trên thị trường
thế giới.
- Tác động trực tiếp đến giá cả hàng hóa:
Hiện nay hàng hoá Việt Nam còn chịu nhiều loại thuế khác nhau, nhiều chi phí
khác không cần thiết đã góp phần đẩy giá lên. do đó, giá cả của hàng hoá Việt Nam
thường cao hơn rất nhiều so với giá cả hàng hoá của các nước khác là thành viên của
ASEAN. Vấn đề trước mắt là ta phải chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu những
hàng hoá nằm trong danh mục cắt giảm thuế CEPT thì các doanh nghiệp Việt Nam mới
có điều kiện phát triển, có lợi về giá cả khi xuất khẩu sang ASEAN.
- Xây dựng một chính sách quản lý nhà nước:
Nhằm đảm bảo tự do hoá thương mại nhưng không làm mất đi chức năng quản lý
nhà nước về thương mại, xoá bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, quan niêu, không
9


hiệu quả, cần có sự nghiên cứu các hiệp định, chương trình hợp tác trong ASEAN tận
dụng những cơ hội tốt để có những giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình và chủ trương
phát triển kinh tế trong nước …tham gia AFTA, Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu
ngân sách nhưng thực sự không ảnh hưởng lớn, trong danh mục cắt giảm thuế có tới 57%
mặt hàng hiện có mức thuế từ 0-5%, trong đó hơn một nửa là thuế suất 0%. Điều đó có
nghĩa là trên thực tế hầu như chúng ta đã hoàn tất việc cắt giảm rồi, số mặt hàng có miền

thuế đến 20% chỉ chiếm tỷ trọng 17-21%.
1. Những ảnh hưởng của việc tham gia và Khu vực mậu dịch tự do AFTA tới nền
kinh tế Việt Nam
1.1. Tác động đến thương mại
1.1.2. Tác động đến xuất khẩu
Việc tham gia AFTA sẽ khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN
vì:
- Hàng rào thuế quan và phi thuế quan được bãi bỏ giúp tăng khả năng cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam.
- Khu vực ASEAN với dân số khoảng 634 triệu người (năm 2007) là một thị trường
rất lớn, hơn nữa lại không đòi hỏi quá cao về chất lượng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp còn non trẻ của Việt Nam.
Xuất phát từ 2 lý do trên, ngay sau khi trở thành thành viên của ASEAN, Việt Nam đã
không ngừng thiết lập quan hệ thương mại với các thành viên khác.
Giá trị xuất khẩu hàng hóa sang ASEAN của Việt Nam
Năm
Giá
trị
(triệu $)

1995
996,9

1999
2.516,3

2003
2.953,3

2007

8.110,3

2013
18.584,4

2015
18.195,1

2016
17.449,3

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Việt Nam gia nhập ASEAN và AFTA năm 1995, ngay sau đó giá trị xuất khẩu hàng
hóa sang ASEAN tăng vọt thể hiện được tầm quan trọng của AFTA.
Cơ cấu của các mặt hàng xuất khẩu sang ASEAN có sự thay đổi rõ rệt qua các
năm. Trước đây, dầu thô là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam, chiếm tới 35,5%
tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN (năm 2007) nhưng có xu hướng giảm mạnh trong
những năm gần đây (năm 2013 là 8,9% và năm 2016 chỉ còn 2,43%). Điện thoại, vi tính
và linh kiện là những mặt hàng xuất khẩu còn khá mới mẻ nhưng chiếm tỉ trọng ngày
càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN (năm 2016 là 24,5%), đóng góp
phần lớn vào GDP của cả nước.
10


11


10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của VN sang ASEAN năm 2016
Điện thoại và
12.96%

linh kiện
Máy vi tính và
linh kiện
Máy móc thiết bị
11.64%
Sắt thép
các loại
40.51%
Phương tiện vận
tải
Hàng dệt may
Xăng dầu8.18%
các
loại
5.35%
Hải sản
2.68% 2.83%
2.95% 3.19% 4.04% 5.67%
Thủy tinh
Gạo
Còn lại

10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của VN sang ASEAN năm 2007

Dầu thô
Máy vi tính và linh
kiện
0.55%
Cà phê
32.90% 35.50% Sản phẩm nhựa

0.80%
1.12%
Than đá
1.52% 9.05% 12.67%
Còn lại
1.80%
1.85%
2.25%

Gạo
Hải sản
Hàng dệt may
Cao su
Giầy dép các loại

12


Biểu đồ thể hiện 10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu từ ASEAN của Việt Nam trong năm
2007 và 2016 (Nguồn: Tổng cục thống kê )
Tuy nhiên, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại không nằm trong danh
mục cắt giảm thuế quan, do vậy không được hưởng ưu đãi của AFTA.
1.1.3. Tác động đến nhập khẩu
Hiện nay, các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ các nước ASEAN chủ yếu là xăng
dầu, vi tính và linh kiện, máy móc, nguyên vật liệu dùng trong sản xuất công nghiệp, hàng
gia dụng,… - những mặt hàng mà Việt Nam chưa đủ khả năng sản xuất hoặc chưa đáp
ứng đủ nhu cầu trong nước. Phần lớn những mặt hàng này đều thuộc thuế quan ưu đãi có
hiệu lực chung CEPT/AFTA (khoảng 60%), điều này sẽ làm giảm sức cạnh tranh của các
hàng hóa nội địa. Các doanh nghiệp Việt Nam “được” đặt trong môi trường cạnh tranh
quốc tế bình đẳng, hạn chế tình trạng phát triển không lành mạnh, ì ạch do được bảo hộ

quá lâu.
Đồng thời, sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh mạnh mẽ từ bên ngoài sẽ buộc
phải điều chỉnh cơ cấu để phát huy lợi thế, gia tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trong
nước để hạn chế việc cán cân thương mại bị lệch về phía nhập.
Tuy nhiên, dựa vào số liệu dưới đây, ta thấy giá trị nhập khẩu tăng nhanh liên tục ở
các năm và thường lớn hơn so với giá trị xuất khẩu, khiến cán cân thương mại lệch về
phía nhập.
Giá trị nhập khẩu hàng hóa từ ASEAN của Việt Nam
Năm
Giá
trị
(triệu $)

1995
2.270,1

1999
3.290,9

2003
5.949,3

2007
15.908,2

2013
21.287,1

2015
23.785,9


2016
24.063,1

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

13


10 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu t ừ ASEAN của VN năm 2016
Xăng dầu các
loại
14.21%
Máy vi tính, điện
tử và linh kiện
Máy móc, thiết
bị, phụ tùng
40.85%
Hàng
điện gia
12.59%
dụng
Chất dẻo nguyên
liệu
Linh7.86%
kiện, phụ
4.94% tùng ô tô
Hoá chất
4.80%
2.47% 2.76%

2.87% 2.95% 3.69% Ô tô nguyên
chiếc các loại
Sản phẩm hoá
chất

10 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu t ừ ASEAN của VN năm 2007
Xăng dầu các
loại
Máy móc thiết bị
phụ tùng
27.25%
Máy vi tính và
33.22%
linh kiện
Chất dẻo nguyên
liệu
2.33%
Sắt thép các loại
2.44%
Kim loại thường
khác
2.48%
8.27%
Gỗ và nguyên
2.88% 3.55%
5.87%
liệu gỗ
4.70% phụ
7.02%
Hoá chất

Dầu mỡ động
thực vật

14


Biểu đồ thể hiện 10 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ ASEAN của Việt Nam trong năm
2007 và 2016 (Nguồn: Tổng cục thống kê )
1.2.

Tác động tới thu hút đầu tư nước ngoài

Bất kì một chương trình tự do hóa thương mại nào, dù ở cấp quốc gia, lãnh thổ hay
khu vực đều tạo được sức hút nhất định với các nhà đầu tư nước ngoài. Sức hấp dẫn này
không chỉ ở việc xóa bỏ hàng rào thuế quan, giảm giá thành sản phẩm, mà còn ở việc cải
cách cơ cấu kinh tế - xã hội của nước đó sao cho phù hợp với việc mở cửa hội nhập.
Tính đến nay, nhờ việc ký kết rất nhiều các hiệp định về tự do hóa thương mại và thiết
lập buôn bán với nhiều nước, Việt Nam đã trở thành một trong những điểm đến hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong vòng 20 năm qua, chúng ta đã đạt được những
thành tựu đáng kể trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài FDI.

Năm
Số dự
án
Tổng số
vốn

1998
2


2000
15

2003
24

2007
80

2011
82

2013
93

2014
109

2015
118

2016
139

1,9

4,7

28,1


977,9

2.531

3.107,1

1.786,8

774,8

970,7

Tổng số dự án và tổng vốn FDI ở Việt Nam qua 1 số năm
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Các lý do khiến việc tham gia AFTA giúp Việt Nam tăng sức hút với nhà đầu tư nước
ngoài:
- Sau hơn 30 năm đổi mới và áp dụng nề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nổi bật là việc tham gia AFTA/ASEAN, và sau này là WTO (2006), kinh tế Việt
Nam đã có những bước tiến đáng kể. Mặc dù phải chịu ảnh hưởng từ các cuộc suy thoái
kinh tế trên thế giới nhưng nước ta vẫn giữ được mức tăng trưởng GDP bình quân trên
6%/năm, tỷ lệ lạm phát ổn định dưới mức 5%/năm, tỷ giá ngoại hối duy trì ổn định. Chính
sự tăng trưởng nhanh chóng và ổn định này đã thu hút các nhà đầu tư, biến Việt Nam trở
thành nước có tổng vốn FDI cao nhất khu vực ASEAN.
- Gia nhập AFTA/ASEAN, sức ép cạnh tranh lên các doanh nghiệp Việt Nam ngày
càng tăng buộc chúng ta phải đổi mới cơ cấu, cách thức tổ chức, làm việc để không bị thất
thế ngay trên sân nhà. Vai trò của Chính phủ trong việc phát huy các lợi thế của Việt Nam
15


và vượt qua các thách thức là vô cùng quan trọng. Ngoài việc thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế, Chính phủ đã thể hiện quyết tâm trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp được kinh doanh trong một môi trường bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh. Môi
trường kinh doanh được cải thiện giúp Việt Nam thu hút thêm nhiều vốn FDI hơn.
- Việt Nam có rất nhiều ưu đãi dành cho các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài
như các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, miễn
thuế nhập khẩu 1 số ngành hàng, ưu đãi về chính sách tiền tệ, đặc biệt là chính sách ngoại
hối mở rộng,…
Kể từ sau khi gia nhập ASEAN, luồng vốn đầu tư vào nước ta từ các nước Đông
Nam Á tăng mạnh. Nếu trong suốt 7 năm (từ 1988 – 1994), số dự án đầu tư của các nước
ASEAN vào Việt Nam là 160 dự án với tổng vốn đăng ký đạt 2,7 tỷ USD, thì chỉ trong 3
năm sau (1995 – 1997), số dự án là 145 với tổng vốn khoảng 5 tỷ USD. Các nước đầu tư
nhiều vào Việt Nam gồm có Singapore, Malayxia, Thái Lan, trong đó Singapore đứng thứ
3 trong số các nước đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam.
10 nước đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam (Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến
ngày 31/12/2016)
Số dự án

Tổng số vốn
(Triệu $)

TỔNG SỐ

22.594,0

293.700,4

Trong đó

..


..

Hàn Quốc

5.773,0

50.553,5

Nhật Bản

3.292,0

42.433,9

Singapore

1.796,0

38.255,4

Đài Loan

2.516,0

31.885,5

Quần đảo Virgin thuộc Anh

687,0


20.482,1

Đặc khu hành chính Hồng Kông

1.168,0

17.003,1

Malaysia

543,0

11.966,5

CHND Trung Hoa

1.562,0

10.527,6

Mỹ

817,0

10.141,7

Thái Lan

445,0


7.799,7
(Nguồn: Tổng cục thống kê)

Cơ cấu vốn FDI ở Việt Nam đang dần trở nên hợp lý, góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Các nhà đầu tư đã quan
tâm đến các ngành công nghiệp hơn, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Như ta đã thấy ở
phần 2.1, trong nhiều năm liền, sản lượng xuất khẩu dầu thô của nước ta luôn đứng đầu
16


trong các mặt hàng xuất khẩu sang ASEAN, nhưng lượng xăng dầu nhập khẩu về cũng lại
đứng đầu. Giá dầu thô rẻ hơn rất nhiều so với giá xăng dầu, khiến giá trị xuất nhập khẩu
bị thâm hụt. Tương tự như thế với các mặt hàng khác, chế biến giúp cho giá trị của các
mặt hàng thô tăng nên rất nhiều. Vậy nên, ngành công nghiệp chế biến là hết sức cần thiết
và quan trọng đối với nước ta. Thêm nữa, giá nhân công ở ngành này rất cạnh tranh và
không yêu cầu cao về trình độ chuyên môn – một lợi thế của Việt Nam. Do vậy các nhà
đầu tư đang ngày càng chú trọng vào ngành công nghiệp chế biến, nâng tỷ trọng đầu tư
của ngành này lên tới 58,8%.
Vốn FDI phân theo ngành kinh tế (Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày
31/12/2016)
Số dự án

Tổng số vốn
(triệu $)

Cơ cấu vốn
(%)

Tổng số


22594

293700.4

100%

Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

522

3573.8

1.22%

Công nghiệp và xây dựng, trong đó:

68.52%

Khai khoáng

104

3497.9

1.19%

Công nghiệp chế biến, chế tạo

11716


172717.6

58.81%

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt,…
Cung cấp nước; hoạt động quản lý và
xử lý rác thải, nước thải

108

12907.6

4.39%

56

1451.1

0.49%

Xây dựng

1384

10658.7

3.63%

Dịch vụ, trong đó:
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô

tô, xe máy,…

30.27%
2248

5433.2

1.85%

Vận tải, kho bãi

607

4280.9

1.46%

Dịch vụ lưu trú và ăn uống

545

11494.7

3.91%

Thông tin và truyền thông
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo
hiểm

1477


4718.7

1.61%

87

1485.3

0.51%

Hoạt động kinh doanh bất động sản
Hoạt động chuyên môn, khoa học và
công nghệ

581

52203.7

17.77%

2193

2643.9

0.90%

Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ

236


495.1

0.17%

Giáo dục và đào tạo

316

741.2

0.25%

Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội

122

1602

0.55%

Nghệ thuật, vui chơi và giải trí

135

3029.7

1.03%

Hoạt động dịch vụ khác


157

765.3

0.26%
(Nguồn: Tổng cục thống kê)

1.3.

Tác động tới nguồn thu ngân sách
17


Đối với đa số các nước đang phát triển, thu nhập từ thuế xuất nhập khẩu chiếm 1 phần
khá lớn trong tổng ngân sách nhà nước: Thái Lan 12%, Indonesia 25%, Việt Nam 18%.
(năm 2015). Do đó có thế thấy AFTA có vai trò rất quan trọng đối với nguồn thu ngân
sách của chính phủ. Việc ký kết vào hiệp định Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
CEPT/AFTA sẽ có những tác động nhất định đến ngân sách nhà nước.
1.3.2. Tác động trực tiếp
Theo CEPT, Việt Nam phải hạ thuế suất các mặt hàng nhập khẩu xuống mức 0 – 5%,
điều này sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách của chính phủ từ thuế nhập khẩu. Tuy nhiên,
ảnh hưởng là không quá lớn, bởi vì:
- Việc giảm thuế suất có 2 tác động trái ngược đến nguồn thu thuế nhập khẩu. Một
mặt, việc này khiến giảm tổng thu nhập từ thuế. Mặt khác, thuế giảm làm giá hàng hóa
giảm, nhu cầu tăng lên khiến nhập khẩu tăng. Giá giảm, lượng tăng nên nguồn thu từ thuế
có thể không bị ảnh hưởng nhiều.
- Khoảng 60% mặt hàng nhập khẩu vào Việt Nam bị cắt giảm thuế còn 0 – 5%,
lượng mặt hàng có thuế 20% chỉ chiếm khoảng 15%. Trong tương lai, khi phải đưa các
mặt hàng thuế suất cao vào danh mục cắt giảm thuế, nguồn thu từ hàng hóa nhập khẩu sẽ

còn rất ít. Thay vào đó, chính phủ chuyển hướng sang đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá
trị gia tăng là chủ yếu. Thuế nhập khẩu sẽ trở thành công cụ để ứng xử trong quan hệ
ngoại thương và bảo hộ sản xuất trong nước.
1 số nguồn thu của ngân sách nhà nước
Năm

2000

2002

2004

2006

2008

2010

2012

2014

2016

4.735

7.276

15.109


25.838

43.953

64.915

82.546

123.802

163.535

5.802

7.764

13.261

22.091

43.527

70.023

92.086

112.196

157.034


13.568

22.083

21.654

26.28

60.474

74.068

71.276

95.603

96.247

5.386

9.488

13.259

16.545

30.983

56.283


36.128

77.402

77.065

7,91
6,95

9,25
7,90

10,21
10,11

11,03
11,90

11,23
12,53

14,11
12,78

14,85
14,26

Tỷ đồng
Thu từ DN có vốn
đầu tư nước ngoài

Thu từ KV công,
thương
nghiệp,
dịch vụ ngoài quốc
doanh
Thuế XNK, thuế
tiêu thụ đặc biệt
hàng NK
Thuế giá trị gia
tăng hàng NK

Cơ cấu (%)
Thu từ DN có vốn
đầu tư nước ngoài
Thu từ KV công,
thương
nghiệp,

5,22
6,39

5,87
6,27

18


dịch vụ ngoài quốc
doanh
Thuế XNK, thuế

tiêu thụ đặc biệt
hàng NK
Thuế giá trị gia
tăng hàng NK

14,95

17,83

11,34

9,40

14,04

12,59

9,70

10,89

5,94

7,66

6,94

5,92

7,20


9,56

4,92

8,82

8,74
7

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

1.3.3. Tác động gián tiếp
Việc tham gia vào AFTA tác động trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp, qua
đó tác động gián tiếp đến nguồn thu ngân sách nhà nước.
Mở cửa thị trường, các doanh nghiệp non trẻ Việt Nam phải đối đầu với sức cạnh
tranh vô cùng gay gắt đến từ các nước bạn. Khoa học kĩ thuật, cơ cấu tổ chức, cách thức
quản lý của chúng ta lạc hậu hơn họ rất nhiều, khiến cho hàng hóa ngoại có chất lượng
tốt, mẫu mã đa dạng, giá thành thấp hơn hàng hóa nội, đặc biệt là ở các ngành hàng như
cơ khí, điện tử, đồ gia dụng, hóa mỹ phẩm, … Khi mất đi hàng rào bảo hộ, nếu không kịp
thời đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị thất bại
ngay trên sân nhà, thậm chí là phá sản, từ đó làm giảm sút ngân sách nhà nước từ thuế thu
nhập doanh nghiệp và thuế VAT.
Tuy nhiên, việc tham gia AFTA cũng mở ra những cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam
phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Giảm thuế nguyên vật liệu
đầu vào nhập khẩu giúp giảm chí phí sản xuất, từ đó giảm giá thành sản phẩm, nâng cao
khả năng cạnh tranh. Hàng hóa xuất khẩu Việt Nam có cơ hội thâm nhập sâu rộng hơn
vào thị trường ASEAN do được hưởng các ưu đãi về thuế quan và thương mại. AFTA
cũng khuyến khích đầu tư nước ngoài FDI, giúp thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh
trong nước. Giá thành sản phẩm giảm giúp dân cư tăng tiết kiệm, tăng đầu tư và mở rộng

sản xuất ở khu vực tư nhân. Nguồn thu ngân sách của chính phủ sẽ được bù đắp từ các
loại thuế nội địa.
Nhìn chung, việc tham gia vào AFTA không có ảnh hưởng quá lớn đến nguồn thu
ngân sách của chính phủ.
Năm
Tổng
thu
(tỷ
đồng)

2007
315.9
1

2008
430.5
5

2009
454.7
8

2010
588.4
2

2011
721.8
0


2012
734.8
8

2013
828.3
4

2014
877.6
9

2015
996.8
7

2016
1.101.3
7

(Nguồn: Tổng cục thống kê)

CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ VIỆT NAM HỘI NHẬP AFTA MỘT
CÁCH HIỆU QUẢ
19


1. Một số biện pháp của Nhà nước
1.1. Định hướng chiến lược trong quá trình phát triển hội nhập
Trong thế giới hiện đại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế chung đối với tất cả

các nước.Tuy nhiên với nền kinh tế xuất phát muộn và nông nghiệ là một bộ phận cấu
thành chủ yếu như nước ta, thì trong giai đoạn đầu tiên của quá trình hội nhập, Việt Nam
cần nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu những hàng hóa truyền thống mà chúng ta có lợi thế.
Đồng thời thu hút vốn, công nghệ và trình độ quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài,
chúng ta cần đón đầu và tiếp cận một số ngành có hàm lượng công nghệ cao, sử dụng
nhiều vốn với lao động lành nghề để làm ra những sản phẩm mang tính cạnh tranh cao
như các sản phẩm thuộc ngành chế biến lương thực, thực phẩm, dệt may, da giày, khai
thác và chế biến dầu khí. Xuất khẩu các sản phẩm lương thực thực phẩm qua chế biến vừa
tạo giá trị tăng cao, vừa tránh được hàng rào bảo hộ của các nước thành viên đối với nông
sản chưa qua chế biến.
Tuy nhiên đẩy mạnh xuất khẩu không được tập chung vào một số ít mặt hàng, không
để một mặt hàng quá phụ thuộc vào thị trường. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước với các hiệp hội và các doanh nghiệp, đẩy mạnh công tác tiếp thị, xâm nhập thị
trường. Có cơ chế khuyến khích cho người Việt Nam ở nước ngoài làm cầu nối cho hàng
Việt Nam đi vào nước sở tại.
1.2.

Xây dựng chính sách bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý và chặt chẽ

Đối với nước ta, việc bảo hộ thị trường trong nước là tối quan trọng vì thời gian trước
mắt, chúng ta chưa thấy dấu hiệu gì về tăng xuất khẩu khi gia nhập AFTA nên những nỗ
lực để bảo vệ, hỗ trợ cho những mặt hàng xuất khẩu sẽ rất cần thiết để hạn chế sức ép
nhập khẩu. Tuy nhiên việc duy trì hay xóa bỏ chính sách bảo hộ sản xuất trong nước bao
giờ cũng có tác động mang tính hai mặt. Nếu bảo hộ quá lâu, quá cao sẽ làm cho các nhà
sản xuất ỷ lại và trì trệ. Xong nếu xóa bỏ bảo hộ quá nhanh sẽ dẫn tới sự phá sản của các
nhà sản xuất trong nước, giao thị trường nội địa cho thị trường ngoại quốc. Khi thực hiện
chính sách bảo hộ, chúng ta cần chú ý những điểm sau:
- Chỉ bảo hộ những mặt hàng mà sản xuất trong nước đáp ứng những nhu cầu tăng
trưởng kinh tế, có tiềm năng phát triển về sau, tạo được nguồn thu ngân sách và giải quyết
lao động.

- Bảo hộ phải được thống nhất thực hiện cho mọi thành phần kinh tế, kể cả các xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Chính sách bảo hộ phải được quy định cho từng trường hợp, từng thời gian và
không bảo hộ vĩnh viễn cho bất kì hàng hóa nào.
20


- Bảo hộ thị trường trong nước nhưng phải phù hợp với các tiến trình tự do hóa
thương mại và các hiệp định quốc tế mà Việt Nam kí kết.
1.3.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ sở pháp lí về mặt thương mại tự do
- Một số điểm cần lưu ý trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật:

 Tăng cường hệ thống pháp lý thống nhất nhằm tạp ra môi trường pháp lý, môi
trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp. Có chiến lược lâu dài để xây dựng
tầng lớp doanh nhân Việt Nam làm giàu bằng trí tuệ và văn hóa tạo ra nhiều thương hiệu
Việt Nam trên trường quốc tế.
 Xây dựng hệ thống pháp lý, chính sách phát triển trên cơ sở khoa học, thực tiễn
phù hợp với yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh và thông lệ quốc tế nhằm thúc
đẩy tăng trưởng và hạn chế những khiếm khuyết cản trở đến hoạt động của doanh nghiệp.
 Nghiên cứu kĩ lưỡng, chuẩn bị chu đáo, tránh nóng vội, hạn chế những thay đổi
quá nhanh của hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế gây ra bất lợi cho các doanh nghiệp.
Không nên và tuyệt đối không nên áp dụng nguyên tắc “sai thì sửa” mà cần phải chuẩn bị
thật tốt.
- Đối với hoạt động ngoại thương cần chú ý các chính sách về:
 Cải cách chính sách thuế: Cơ cấu lại các loại thuế đánh vào hàng nhập khẩu, biện
pháp này vừa hạn chế nhập khẩu, vừa khuyến khích xuất khẩu và tăng ngân sách. Thực
hiện đơn giản hóa các mức thuế suất: trình độ phát triển của chúng ta thấp, các ngành kinh
tế phát triển không đồng đều cho nên hệ thống thuế rất phức tạp, gây khó khăn trong việc

tính thuế.
 Hoàn thiện hệ thống chính sách xuất nhập khẩu: Cần xây dựng chính sách mặt
hàng xuất khẩu thích ứng đối với từng thị trường và khu vực thị trường theo từng thời kì.
Thực hiện ưu đãi thuế quan thậm chí giảm thuế đối với các mặt hàng phục vụ sản xuất.
 Tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia xuất khẩu.
1.4.

Đào tạo nguồn lực phục cụ cho quá trình tham gia hội nhập

- Đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ. Đây là tiêu chuẩn cơ bản đánh giá
năng lực của nhà quản trị.

21


- Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ ngoại ngữ vì đó là điều kiện bắt buộc để có thể hội
nhập sâu rộng hơn.
- Đào tạo, bồi dưỡng về trình độ tin học vì tin học ngày nay đã trở thành một công
cụ không thể thiếu để tiếp cận với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
- Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về pháp luật, tập quán thương mại trong nước và
quốc tế. Môi trường pháp luật quốc tế thường phức tạp và không rõ ràng, do đó để tránh
những vi phạm pháp luật ngoài chủ định, cần có sự am hiểu nhất định về các công ước,
điều ước quốc tế mà các nước tham gia kí kết.
2. Một số biện pháp của doanh nghiệp
2.1. Đẩy mạnh hoạt động ngoại thương
Trước tiên, các doanh nghiệp sản xuất trong nước cần căn cứ theo hướng phát triển
trong tình hình mới để có những định hướng đầu tư phù hợp. Trong từng ngành, với từng
mặt hàng, các doanh nghiệp phải có dự kiến trước được các khả năng có thể ảnh hưởng
hay tác động tới tình hình sản xuất kinh doanh khi Việt Nam đưa mặt hàng đó vào thực
hiện chương trình CEPT. Qua đó, doanh nghiệp có thể tìm ra các sản phẩm mới hay phát

triển các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu, tìm ra thị trường mới cho sản phẩm của mình;
Các giải pháp để có thể làm chủ được thị trường nội địa và sau đó phải tìm kiếm khả năng
xuất khẩu; Định hướng về sản phẩm chủ lực, thị trường trọng điểm để có phương án sản
xuất kinh doanh đáp ứng các nhu cầu xuất khẩu sang ASEAN hoặc ngoài ASEAN.
- Cần phải có một bức tranh rõ ràng về vị trí hiện tại của doanh nghiệp để định
hướng đầu tư phát triển hay chủ động liên doanh, liên kết để nâng cao năng lực thị trường
của doanh nghiệp.
- Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai
thác thông tin, trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua các
hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt thị trường,
bám sát và tiếp cận được tiến bộ của thế giới trong sản xuất kinh doanh, tự mình lo tìm
bạn hàng, thị trường, ký hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu
của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ
cấp, trợ giá.
2.2. Nâng cao sức mạnh cạnh tranh hàng hóa và dịch vụ
- Tham gia AFTA, các doanh nghiệp phải đối diện với môi trường cạnh tranh lớn
hơn. Thực tế, trước khi tham gia CEPT thì những năm gần đây các doanh nghiệp trong
nước đã phải chịu sức cạnh tranh mạnh từ khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, đã và đang nhường từng phần thị trường cho khu vực này. Do đó, một vấn đề thực
tế hiện nay là cần đánh giá hiện trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về giá thành,
về chất lượng hay mẫu mã – so sánh với các hàng hoá từ ASEAN trên thị trường trong
22


nước hay cả trên thị trường khu vực. Từ đó có hướng khai thác, phát triển các khả năng
cạnh tranh riêng biệt này.
- Trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), cần quy định rõ việc ưu
tiên cho những ngành công nghiệp kỹ thuật cao (HITECH), công nghiệp chế biến…, dần
dần tạo nên những ngành công nghiệp mạnh, những khu công nghiệp mạnh của nước ta,
đủ sức làm ăn bình đẳng với các nước ASEAN (công nghiệp điện tử, công nghiệp dệt

may, da giày, công nghiệp luyện kim,…) và góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
- Trong việc lựa chọn công nghệ và chuyển giao công nghệ, nhất thiết phải coi trọng
việc chọn công nghệ cao, hiện đại, có sức cạnh tranh không tiếp nhận công nghệ cũ, lạc
hậu, dù với bất kỳ hình thức nào (kể cả bằng nguồn vốn ODA hoặc viện trợ nhân đạo,
viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ). Coi trọng các hàm lượng công nghệ mới, thông
tin, chất xám và trình độ tổ chức cao trong quá trình chuyển giao công nghệ (Technoware,
Inforware, Humanware, Organware) vào Việt Nam.
- Cần hết sức chú ý việc bảo vệ môi trường, tránh hậu quả của việc nhập không tính
toán kỹ các công nghệ nặng nhọc, ô nhiễm và nguy hiểm, cũng như tốn năng lượng, làm
mất khả năng cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam và gây tác hại đến môi trường sau
này.
2.3. Tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất phù hợp với CEPT
- Trong giai đoạn đầu sản xuất công nghiệp,sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam
dựa trên ngành hàng có lợi thế so sánh, trong những năm trước mắt những nguồn lực có
lợi thế so sánh tĩnh tài nguyên,lao động rẻ.. có vai trò quan trọng trong việc hạ thấp chi
phí và giải quyết việc làm cho nhân dân. Cơ cấu hàng xuất khẩu của ta hiện nay giống các
nước ASEAN chủ yếu dựa vào tài nguyên và sản phẩm nông sản nhiệt đới.Theo quy định
của CEPT thì những nông sản chế biến mới được hưởng ưu đãi thuế quan Việt Nam phải
nâng cao kĩ thuật sản xuất,phát triển công nghệ chế biến để đạt giá trị cao đồng thời tham
gia cạnh tranh trong thị trường ASEAN.Trong tổng số 857 mặt hàng Việt Nam đưa vào kế
hoạch giảm thuế,có: 39 thiết bị máy móc và đồ điện gia dụng, 17 là kim loại, 8 là vải vóc
quần áo,6 là dụng cụ quang học âm nhạc còn lại 25 là mặt hàng khác. Hầu hết các mặt
hàng này có thuế suất 0-5 và nằm trong 1705 mặt hàng có thuế quan thấp nhất hiện
nay.Điều đó cho thấy kế hoạch tham gia CEPT của Việt Nam là khả thi. Song, nhìn chung
số mặt hàng có mức thuế từ 6 trở lên còn khá nhiều chiếm 52,2 trong tổng số 3214 mặt
hàng.Mặt khác,số mặt hàng Việt Nam tham gia giảm thuế còn ít,chỉ chiếm 1,9 so với tổng
số mặt hàng giảm thuế của các nước ASEAN.Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu Việt Nam
không nằm trong CEPT,trong lúc đó tuy thuế suất cao nhưng một số mặt hàng vẫn tràn
ngập thị trường như sản phẩm dệt,giày dép,hàng cơ khí,đồ điện dân dụng,.. đặc biệt là

những ngành hàng có chế biến với kỹ thuật cao..Rõ ràng, mức chênh lệch trình độ kinh tế
là một thách thức lớn.Tác động của AFTA thúc đẩy hợp tác sản xuất đặc biệt ở các quốc
gia có chi phí sản xuất thấp. Vì thế,việc phân bố lại cơ cấu sản xuất là yêu cầu cần thiết.
Mặt khác,để hưởng mức thuế ưu đãi,Việt Nam phải chủ động:
23


- Môt: Tích cực chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất sản phẩm xuất khẩu
phù hợp với CEPT
- Hai: Đẩy mạnh công nghiệp chế biến ,tham gia cạnh tranh và giữ thị phần trong
ASEAN
- Ba: Kết hợp nhiều trình độ để khai thác, sản xuất những mặt hàng có lợi thế so
sánh.Chú trọng công nghệ hiện đại để khai thác lợi thế mũi nhọn.Nâng dần những hàng
có lợi thế so sánh tĩnh sang lợi thế so sánh động.
- Bốn: Liên doanh liên kết sản xuất CNTB nhà nước là con đường khả dĩ giúp Việt
Nam vừa chuyern đổi cơ cấu sản xuất vừa rút ngắn mức độ chênh lệch.

24


KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa và khu vực đã trở thành xu thế không thể nào đảo ngược của nền kinh tế
thế giới hiện đại và tự do hóa thương mại là một yếu tố cơ bản của xu thế này. Đối với các
nước đang phát triển, chiến lược phát triển kinh tế dựa vào công nghiệp hóa hướng vào
xuất nhập khẩu chứng tỏ thành công hơn so với chiến kinh tế dựa vào công nghiệp hóa
thay thế nhập khẩu. Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam tham gia CEPT/AFTA và các tổ
chức thương mại quốc tế khác như APEC, GATT/WTO là một quyết định đúng đắn.
Trong quá trình hội nhập này, thực tiễn cuộc sống đòi hỏi chúng ta chấp nhận cơ chế hợp
tác và cạnh tranh, nỗ lực phấn đấu nâng cao năng lực bản thân đạt tới muc tiêu mà chúng
ta đã xác định.

Một bài học nữa rút ra từ thực tiễn hội nhập kinh tế khu vực là phải khẩn trương đề ra
các chính sách và biện pháp hữu hiệu thực hiện một cách chủ động nội dung và tiến trình
CEPT/AFTA. Cơ chế thị trường không chấp nhận những gì cứng nhắc thuộc cơ chế điều
hành nền kinh tế theo chế độ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp trước đây; chính
sách thương mại phải được xây dựng thông thoáng hơn theo hướng tự do hóa, chỉ nên bảo
hộ những gì là cần thiết và phải định rõ ràng thời hạn bảo hộ. Bảo hộ càng nhiều, sức
cạnh tranh càng yếu. Các công cụ phi thuế quan cần phải được nghiên cứu cụ thể hóa theo
thời gian và điều kiện của đất nước, tuy nhiên cần phải chú ý tuân thủ các thông lệ, luật lệ
quốc tế và phản ánh được xu hướng thời đại. Sự chậm trễ sẽ đồng nghĩa với mất cơ hội
hội nhập và tăng trưởng, là kéo dài sự lúng túng và thụ động trong quá trình hội nhập.
Hội nhập kinh tế Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế giới có nghĩa là các thể chế
kinh tế Việt Nam phải phù hợp với tập quán quốc tế. Nhà nước cần chú ý đầu tư thích
đáng để phát triển nguồn nhân lực của đất nước, tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam, tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tiếp cận thông tin hội nhập khu
vực và thế giới, bên cạnh đó, tạo môi trường thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài, và
đó là những yếu tố then chốt làm biến đổi các lợi thế so sánh theo hướng có lợi cho mục
đích phát triển bền vững.
Thách thức còn ở phía trước, những chúng ta hy vọng vào những kết quả có thể đạt
được trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực ASEAN.

25


×