Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

tiểu luận tài chính công nghiên cứu ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.96 KB, 50 trang )

MỤC LỤC
DANH SÁCH HÌNH ẢNH.........................................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................................4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................................................................................5
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH.............................................................6
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................................................................................19
1. Phương pháp Số dư nợ so với Tổng thu nhập quốc nội..................................................19
2. Phương pháp Số dư nợ so với Kim ngạch xuất khẩu......................................................20
3. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài hàng năm so với kim ngạch xuất khẩu.............................20
4. Phương pháp Lãi đến hạn trả so với kim ngach xuất khẩu............................................21
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ THẢO LUẬN VÀ NGHIÊN CỨU..............................................22
1. Kết quả nghiên cứu...............................................................................................................22
1.2 Tiến hành tính toán và phân tích kết quả thu được....................................................... 22
1.2 Nhận xét và thảo luận kết quả.........................................................................................30
2. Nguyên nhân của mức nợ công VN....................................................................................36
CHƯƠNG 3. KẾT LUẬN KÈM THEO GỢI Ý CHÍNH SÁCH VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI
PHÁP (CONCLUSION AND POLICY IMPLICATION)...................................................41
1. Báo cáo kết quả nghiên cứu:................................................................................................41
2. Xu hướng và thách thức.......................................................................................................42
2.1 Xu hướng..........................................................................................................................42
2.2 Cơ hội................................................................................................................................44
2.3 Thách thức........................................................................................................................44
3. Gợi ý chính sách và kiến nghị giải pháp............................................................................46
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................................50


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
DANH SÁCH HÌNH ẢNH
Hình 1: Một số chỉ số Kinh tế Việt Nam chọn lọc (Source: Vietnamese authorities and IMF staff
estimates)..........................................................................................................................................8


Hình 2: Nợ công một số Quốc gia phát triển năm 2011...................................................................8
Hình 3 Tỷ lệ Nợ công ở Anh giai đoạn 1880 – 2011..................................................................... 10
Hình 4 Ngưỡng nợ và Tăng trưởng................................................................................................14
Hình 5 Đường cong Laffer.............................................................................................................18
Hình 6 bảng đánh giá mức đô nợ theo tiêu chuẩn của World Bank...............................................21
Hình 7: Nợ Chính phủ (2011 – 2015)............................................................................................ 22
Hình 8: Biểu số 5.02 (Source: Bộ Tài chính Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam..........23
Hình9: Nợ được Chính phủ bảo lãnh (2011- 2015)....................................................................... 23
Hình 10 Biểu số 5.03 (Source: Bộ Tài chính Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.........24
Hình 11: Nợ Chính quyền địa phương (2011 - 2015).................................................................... 24
Hình 12: Nợ Công Việt Nam (2011 - 2015)...................................................................................25
Hình13: Tổng số lãi đến hạn trả trong kỳ (2011 - 2015)................................................................29

3|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Nợ công là một phần quan trọng và không thể thiếu trong tài chính mỗi quốc gia. Từ những nước
nghèo nhất ở châu Phi đến những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, Campuchia hay những
cường quốc giàu có với trình độ phát triển cao như Mỹ, Nhật, EU thì đều phải đi vay để phục vụ cho
các nhu cầu chi tiêu và sử dụng của chính phủ nhằm các mục đích khác nhau. Nợ công cần phải được
sử dụng hợp lý, hiệu quả và quản lý tốt, nếu không thì khủng hoảng nợ công có thể xảy ra với bất cứ
quốc gia nào tại bất cứ thời điểm nào và để lại những hậu quả nghiêm trọng. Trong khi đó, nợ công
của Việt Nam hiện nay đang ở mức 54,3% GDP với tốc độ tăng trưởng nợ hàng năm trên 15%. Với
tốc độ này, nợ công của Việt Nam sẽ vượt 100% GDP, một con số đáng báo động đối với một nền
kinh tế nhỏ đang phát triển và phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công
nghiệp nhẹ. Do đó, nhóm chúng em sẽ sẽ tập trung phân tích rõ hơn tình hình ngưỡng nợ công và
quản lý nợ công ở Việt Nam để từ đó đưa ra dự báo về tình hình nợ công của Việt Nam cũng như một
số đề xuất về chính sách nhằm quản lý có hiệu quả nợ công ở Việt Nam.


Nội dung và kết cấu của bài tiểu luận gồm 3 phần chính:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ THẢO LUẬN VÀ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN KÈM THEO GỢI Ý CHÍNH SÁCH VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

Trong quá trình khảo sát, nghiên cứu và tìm hiểu, nhóm chắc chắn sẽ có nhiều thiết sót. Vì vậy,
nhóm rất mong được sự góp ý từ cô để có thể hoàn thiện hơn ở những bài tập tiếp theo.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

4|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC VÀ NƯỚC NGOÀI
1. Môt số công trình nghiên cứu nợ công trong quá khứ
Sự khủng hoảng toàn cầu và phản ứng chính sách tài khóa mở rông trong nhiều quốc gia
đã làm gia tăng nợ công môt cách nhanh chóng. Khủng hoảng nợ công ở môt số nước làm cho
nền kinh tế toàn cầu trở nên ảm đạm, có thể gây ra cơn bão kinh tế mới. Nợ công đang bắt đầu
chạm mức mà ở đó có thể có tác động tiêu cực đến nền tăng trưởng kinh tế. Gần đây, rất nhiều
công trình thực nghiêm nghiên cứu về ngưỡng nợ công và tác động của nó đến tăng trưởng kinh
tế ở môt số quốc gia trên thế giới. Trong nững năm đầu của thập niên 90, nợ công ở Viêt Nam ở
ngưỡng rất cao, bình quân 240%/GDP, đươc xem là mất khả năng thanh toán. Sau đó, nhờ tăng
trưởng kinh tế cao và Liên Xô cũ xóa nợ vào những năm cụối của thập niên 90, Chính phủ đã
kiểm soát đươc nợ công. Tuy nhiện cụôc khủng hoảng toàn cầu vào năm 2008 đã làm nợ công
Viêt Nam tăng nhanh chóng. Trong sự phát triển theo hướng công nghiêp hóa, hiện đại hóa, do
yêu cầu tái cấu trúc nền kinh tế, nợ công đươc dư báo nâng cao lên so với mức hiện tai để đáp

ứng nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế.
Nghiên cứu của Reinhart và Rogoff (2010) dưa trên số liệu quan sát của 44 nền kinh tế
phát triển và mới nổi đã đưa ra các ngưỡng nợ cơ bản nhất. Kết quả chỉ ra rằng ngưỡng nợ nguy
hiểm là 90% GDP. Ngoài ra, ở các nền kinh tế mới nổi khi dư nợ nước ngoài chạm mức 60%
GDP, tăng trưởng kinh tế sẽ bắt đầu duy giảm 2%, và nếu mức nợ công vươt quá 90% GDP, mức
tăng trưởng sẽ giảm môt nửa.
Nghiên cứu của Caner, Grennes và Koehler-Geib (2011) đi sâu phân tích thệm về ngưỡng
nợ nguy hiểm. Kết quả cho thấy ngưỡng nợ nguy hiểm trung bình cho tất cả các quốc gia đươc
nghiên cứu là 77% GDP. Bền cạnh đó áp dụng tương tư mô hình cho nhóm các quốc gia đang
phát triển thì con số này là 64% GDP.
Nghiên cứu của Kumar và Woo (2010) phát hiện môt mối quan hệ đối nghich giữa nợ
công và tăng trưởng nếu nợ công vươt quá 90% GDP, và tác động nợ công ở các nền kinh tế mới
nổi lớn hơn so với các nền kinh tế phát triển. Cụ thể, nếu quy mô nợ công tăng thệm 10% GDP,
tăng trưởng kinh tế sẽ suy giảm từ 0.15% - 0.2% tai các nền kinh tế phát triển, trong khi con số
này tai các nền kinh tế mới nổi là từ 0.3% - 0.4 %.
Phương pháp đo lường “khả năng chịu đựng nợ” được Reinhart, Rogoff và Savastano
(2003) đưa ra sử dụng xếp hạng của Institutional Investor (IIR), một sự đánh giá được tổng hợp hai
lần trong một năm bởi tạp chí Institutional Investor dựa trên những khảo sát của các nhà đầu tư tổ
chức, các nhà kinh tế. Họ hồi quy IIR theo một vài chỉ số bao gồm tỷ lệ nợ, lịch sử của lạm phát và
vỡ nợ, để tìm ra tác động biên của việc tăng thệm một đơn vị nợ lên IIR và do đó sẽ tác động lên “khả
năng chịu đựng nợ”. Sử dụng kết quả của phương trình “khả năng chịu đựng nợ” có thể
5|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
tính được tỷ lệ nợ phù hợp với một mức IIR được đưa ra dựa trên lịch sử lạm phát và vỡ nợ của
một quốc gia. Một số nghiên cứu, ví dụ như của Di Bella (2008), Everaert (2008), Topalova và
Nyberg (2009) và Geoffrey J. Bannister, Luis-Diego Barrot (2011) đã sử dụng phương pháp này
để tính toán tỷ lệ nợ mục tiêu cho các nước khác nhau như Cộng hòa Domica, Keyna, Ấn Độ,
Trung Mỹ và Panama.

2. Cách tiếp nhận ban đầu về “khả năng chịu đựng nợ”
Khái niệm “khả năng chịu đựng nợ” (Debt Intolerance) lần đầu tiên được
giới thiệu bởi
Reihart, Rogoff và Savastano (2003) để nắm
bắt thực tế là nhiều nền kinh tế
mới nổi gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn,
thậm chí ở mức nợ nước
ngoài thấp, trong khi các nước khác có mức nợ được đánh giá khá cao vẫn dễ dàng
tiếp cận nguồn tín dụng. Reinhart, Rogoff và
Savastano (2003) đã đã bắt đầu từ
những quan sát thực nghiệm và nhận thấy một số quốc gia dường như là không chịu đựng được
nợ (tức là dễ vi phạm nghĩa vụ trả nợ liên tiếp) thậm chí ở mức nợ nước ngoài trên GDP tương
đối thấp – một hội chứng mà họ gọi là không có “khả năng chịu đựng nợ”.
Các nước
không có “khả năng chịu đựng
nợ”sẽ gặp các vấn
đề về
thanh toán và vỡ nợ nước ngoài ở mức nợ có thể là quản lý dễ dàng ở các nước tiên
tiến, chủ yếu ở chỗ mất lòng tin của thị trường, lãi suất leo thang, và đấu tranh chính
trị để trả nợ nước ngoài. Lịch sử là cơ sở tốt để các nước
xác định “khả năng chịu
đựng nợ”, bởi vì có “đà quán tính”trong xác suất vỡ nợ, ít nhất cụng phản ánh một
phần “đà quán tính”của một thể chế yếu. Do đó theo các
tác giả này mỗi nước có
ngưỡng nợ tùy thuộc vào quá khứ của mình. Ngưỡng nợ an toàn phụ thuộc rất nhiều
vào ghi chép của vỡ nợ và lạm phát của một quốc gia. Và các tác giả này cụng đã đề
nghị rằng mức
độ “khả năng chịu đựng nợ” của một nước có thể được đo lường
(xấp xỉ) bởi tỷ
số của nợ nước ngoàitrung bình dài hạn của nó (một tỷ lệ với GNP

hoặc xuất khẩu) trên chỉ số rủi ro vỡ nợ. Trong phần này chúng tôi sẽ mô tả cách
tiếp cận về “khả năng chịu đựng nợ” của Reihart, Rogoff, Savastano (2003) và mới
đây là của Reinhart và Rogoff (2009).

II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHUNG PHÂN TÍCH.
1. Nợ công
-

Theo quan điểm của IMF và WB:

Nợ công là toàn bô nghĩa vụ trả nợ của khu vực công, bao gồm nghĩa vụ trả nợ của khu vực
chính phủ và của khu vực các tổ chức công.
Khu vực chính phủ bao gồm CQTW, CQ liên bang và CQĐP. Các tổ chức công là các tổ
chức công phi tài chính, các tổ chức tài chính công, NHTW, các tổ chức NN nhân tiền gửi (trừ
NNTW) và các tổ chức tài chính công khác (IMF và WB, 2011).
6|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
-

Theo Luât quản lý nợ công hiện hành (năm 2009), nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ đươc
chính phủ bảo lãnh và nợ của CQĐP.

Nợ chính phủ, là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, đươc kí kết,
phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh CP hoăc các khoản vay khác do BTC ký kết, phát
hành, ủy quyền phát hành. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do NHNN Viêt Nam phát
hành nhằm thực hiện CSTT, nợ của các DNNN tư vay tư trả.
1.1. Cơ cấu nợ công ở Việt Nam
Sau khi Chính phủ thực hiện gói kích cầu năm 2009, ngân sách Nhà nước những năm gần

đây có mức thâm hụt ngày càng tăng.
Về giá trị tuyệt đối, bội chi tăng từ mức 65,8 nghìn tỷ đồng năm 2011 lên mức 263,2
nghìn tỷ đồng năm 2015. So với GDP, bội chi đã tăng từ mức 4,4% GDP năm 2011 lên mức 6,1%
GDP năm 2015, cao hơn giới hạn 5% theo quy định của Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài
của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030.
Do bội chi tăng cao, nợ công cũng tăng nhanh trong giai đoạn 2011-2015, từ mức 50,1%
GDP lên 62,2% GDP, tiệm cận giới hạn 65% theo quy định của Luật Quản lý nợ công. Năm 2015
cũng là năm dư nợ Chính phủ đạt 50,3%, cao hơn giới hạn 50% theo quy định. Nếu tính theo
thông lệ quốc tế, nợ công Việt Nam còn cao hơn nhiều, vì không tính đến nợ của doanh nghiệp
Nhà nước và các tổ chức công khác, báo cáo đưa thệm lưu ý.
Dẫn số liệu từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Việt Nam có mức nợ công/GDP cao hơn hẳn
các nước trong ASEAN, gấp đôi nhiều nước và gấp rưỡi Thái Lan, nước có mức nợ công/GDP
đứng sau Việt Nam. Quan trọng hơn, theo dự báo của IMF, trong nhóm nước này, Việt Nam là
nước duy nhất có nợ công/GDP tiếp tục tăng đến gần 68% GDP năm 2020.
Điều đáng lo ngại, là nghĩa vụ trả nợ công đang tăng lên nhanh chóng. Nghĩa vụ trả nợ
trực tiếp của Chính phủ tăng từ 185,8 nghìn tỷ đồng năm 2013 lên 296,2 nghìn tỷ đồng năm 2015.
Nếu tính cả nợ bảo lãnh Chính phủ, nợ chính quyền địa phương, con số nghĩa vụ nợ còn lớn hơn
rất nhiều.
Lo ngại tiếp theo được nêu ra là do tốc độ tăng nghĩa vụ nợ rất nhanh, tỷ lệ nghĩa vụ nợ
trên thu ngân sách cũng tăng nhanh. Nếu chỉ tính riêng nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ, tỷ lệ
này là 22,4% năm 2013, tăng lên mức 29,9% năm 2015.

7|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
Population: 91.7 million

Per capita GDP 2015 (US$): 2,088


Quota (cụrrent): SDR 1,153.10 millions/100 percent of quota

Poverty rate (as of 2014): 13.5

2012

Public debt (% GDP)

47.9

2013

51.8

2014

2015

2016

Est.

Est.

Proj.

55.1

58.3


62.1

Hình 1: Một số chỉ số Kinh tế Việt Nam chọn lọc (Source: Vietnamese authorities and IMF staff
estimates)

1.2. Nợ công ở môt số quốc phát triển trên thế giới năm 2011
Nợ công ở các nền kinh tế tiên tiến đã leo thang đến mức cao nhất kể từ Thế chiến II. Tại
Nhật Bản, Hoa Kỳ, và một số nước châu Âu, hiện nay nó đã vượt quá 100% GDP (Hình 2).
Trong đó ta có thể thấy hiện nay Nhật Bản đang là quốc gia đẫn đầu thế giới về tỷ lê nợ công.
Tăng trưởng thấp, thâm hụt ngân sách liên tục và cao nợ tương lai và dự phòng bắt nguồn từ áp
lực chi tiêu liên quan đến dân số và yếu các ngành tài chính đã làm tăng đáng lo ngại về tính bền
vững của tài chính công. Những mối quan tâm đã được phản ánh trong xếp hạng hạ cấp và chi
phí vay nợ có chủ quyền cao hơn, đặc biệt đối với một số nước châu Âu. Sửa chữa sự mất cân
bằng tài chính và do đó giảm nợ công trở thành ưu tiên cao.

Hình 2: Nợ công một số Quốc gia phát triển năm 2011

8|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
2. Nợ bền vững và nợ mục tiêu
2.1. Nợ bền vững
Sự phát triển của nợ công và thâm hut ngân sách đã trở thành môt vấn đề chính sách hết
sức quan trong ở hầu hết các quốc gia công nghiêp hóa và các nước đang phát triển. Các cụôc
tranh luân chính tri về tiến trình trong tương lai của chính sách tài khóa, sự cần thiết phải giữ nợ
chính phảu dưới sự kiểm soát và tính bền vững của tài chính công là môt trong những chủ đề thảo
luân rông nhất hiện nay trong các nền kinh tế. Trong những thập kỉ gần đây, nhiều nước đã tích
lũy số lương lớn nợ công, điều này thường xảy ra ở các nước có khu vực công đang phát triển và
chính sách tài khóa thiển cân.

Măc dù tính bền vững của tài chính công đã đươc thảo luân trong hơn môt thế kỉ qua, nó vẫn
là môt khái niêm mơ hồ. Môt cách trưc giác, môt chính sách bền vững là phải làm đươc như vây để
cụối cùng ngăn chăn sự phá sản, tuy nhiện không có sự thống nhất về định nghĩa chính xác cái gì tao
thành tính bền vững của nợ. Nhiều tài iêu đã đưa r nhiều phương pháp để định nghĩa và đánh giá tính
bền vững của nợ, các phương pháp này khác nhau về cả tầm nhìn (ngắn han, trung han, dài han) và
viêc lưa chon các biến.Trong ít nhất hai thập kỉ qua có hai cách tiếp cân chung cho khái niêm tính bền
vững của nợ công như sau:Môt cách cho rằng khi mức lãi suất mà chính phủ đi vay không thể lớn hơn
tỷ lê tăng của nền kinh tế, vì vây tỷ số nợ trên GDP không tăng và khi đó nợ không bền vững không
diễn ra( nghĩa là nợ luôn bền vững). Cách tiếp cân khác cho rằng nếu nếu có môt giới han đối với giá
tri hiện tai của các khoản vay mươn, thì điều này có thể han chế lương vay mượn, do đó đây sẽ là tiêu
chí chính để đat đươc tính bền vững.

Tính bền vững của nợ nhằm trả lời môt câu hỏi tưởng chừng đơn giản: Khi nào nợ của
môt quốc gia trở lên quá lớn đến nỗi không thể trả đươc? Quỹ tiền tê quốc tế IMF định nghĩa môt
khoản nợ là bền vững nếu nó đáp ứng điều kiên khả năng thanh toán mà không có môt sự điều
chỉnh lớn và không tao ra các chi phí tài chính trong tương lai (IMF, 2012). Khả năng thanh toán,
đến lươt nó cần phải đươc định nghĩa. Khả năng thanh toán nợ đat đươc khi mức thăng dư chủ
yếu trong tương lai đủ lớn để trả nợ gốc và lai. Môt cách chính xác hơn, khả năng thanh toán yêu
cầu các khoản nợ hiện tai với giá tri chiết khấu về hiện tai của tất cả các khoản chi tiêu không
đươc vươt quá mức giá tri chiết khấu về hiện tai của tất cả các khoản thu. Khả năng thanh toán
đươc định nghĩa rõ ràng và từ lâu đã đươc chính thức hóa, tuy nhiện nó đăt ra nhiều khó khăn khi
thực hiện. Vấn đề ở đây là cán cân trong tương lai không phải chỉ là ở mức hiện tai. Do đó, định
nghĩa về nợ bền vững của IMF cũng rất mơ hồ.

9|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
Ở môt quốc gia, các khoản nợ lớn có thể đươc trả và các khoản nợ nhỏ có thể là không
bền vững, tất cả đều phu thuôc vào tương lai. Trong thực tế, hầu hết các chính phủ mắc nợ mãi

mãi và nhiều khoản nợ nước ngoài vẫn còn cao sau nhiều thập kỉ. Ví dụ, hình 2 cho thấy tình hình
các khoản nợ công của Anh giai đoan từ năm 1880 đến năm 2011, được tính theo phần trăm so
với GDP. Trong suốt những năm qua, nó không bao giờ giảm xuống dưới mức 21%, đã đạt mức
cao nhất là 120% và trung bình tỷ lệ nợ của Anh ở mức 103%. Nợ công của Anh đã nhiều lần
được coi là không bền vững, tuy nhiện nó vẫn là bền vững theo ý nghĩ rằng chính phủ Anh chưa
bao giờ bị vỡ nợ. Điều này cho thấy, việc xác định một tỷ lệ nợ để đảm bảo tính bền vững là một
điều khó khăn và rất mơ hồ.
Hình 3 Tỷ lệ Nợ công ở Anh giai đoạn 1880 – 2011

2.2. Nợ mục tiêu
a. Nợ mục tiêu trong lý thuyết
Các tài liệu lý thuyết cung cấp rất ít các hướng dẫn thực tế để thiết lập tỷ lệ nợ mục
tiêu. Các mô hình
cân bằng tổng thể (General Equilibrium Models) đã được phát
triển để tìm hiểu sự đánh
đổi giữa chi phí và lợi ích của nợ chính phủ. Ví dụ,
Aiyagari et al. (1998), Floden (2001) và Shin (2006) làm rõ sự đánh đổi
giữa lợi ích
của nợ công làm tăng khả năng thanh khoản của
hộ gia đình bằng cách cụng cấp
một phương tiện bổ sung để cân bằng chi tiêu (smooth consumption) và làm giãn
giới hạn vay mượn của họ và chi phí trong tương lai ngụ ý đến các khoản thuế, nó
sẽ có những tác động xấu đến phân phối của cải và những ưu đãi, và đầu tư công
“chèn lấn” đầu tư tư nhân.
Aiyagari et al. (2002), Aiyagari và McGrattan (1998), thảo luận vai trò của nợ công như
một khả năng trả nợ cá nhân. Họ giả sử rằng trái phiếu chính phủ được phân bổ đều giữa các hộ
gia đình, người nắm giữ trái phiếu có thể sử dụng trái phiếu đó làm tài sản thế chấp. Một mức nợ
10|51



|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
cao hơn do đó có thể làm giãn giới hạn vay mượn của họ. Saint Paul (2005) nêu ra các lợi ích bổ
sung của các thị trường nợ chính phủ cho các thị trường tài chính hiệu quả, bao gồm cả những đổi
mới tài chính (financial innovation) và khả năng sử dụng nợ công như một tài sản thế chấp cho
khu vực tư nhân vay mượn. Aiyagari và McGrattan (1998), hiệu chỉnh mô hình của họ đối với
Mỹ và tính toán tỷ lệ nợ tối ưu ở mức 66% GDP; Weh-Sol (2010) sử dụng cùng một mô hình để
tính toán một tỷ lệ nợ tối ưu cho Hàn Quốc 62% GDP. Rất ít các mô hình này được thực hiện theo
thực nghiệm, hầu hết đều đưa ra mức nợ dựa trên những giả định.
b. Nợ mục tiêu trong thực tiễn
Các dự đoán lý thuyết về ngưỡng nợ công tối ưu đang còn thiếu sự rõ ràng, cho nên một
mức nợ công cao vẫn là mối quan tâm
cho cả các nước đang phát triển và
các
nước phát triển. Hiện nay, mức trần nợ mục tiêu đã được
nhiều quốc gia thông qua
trong bộ luật của mình, đồng thời các hiệp định của các khu vực hội nhập cụng đã
áp dụng trần nợ như là tiêu chuẩn để tham gia. Giảm nợ thường được thúc đẩy bởi
nhận thức cao về nhu cầu chi tiêu trong tương lai, mong muốn cân bằng qua các thế
hệ, giảm sự “chèn lấn”đầu tư tư nhân, và chung
hơn là
cụng cấp một không gian
lớn hơn trong tương lai để chống lại những cú sốc lớn và hấp thụ các khoản nợ
bất
ngờ mà không đe dọa tính bền vững của nợ. Kiểm tra bằng chứng thực nghiệm về
những tác động của các mức nợ khác
nhau lên khả năng đạt được những mục tiêu
này sẽ có thể cụng cấp những chỉ dẫn về mức nợ công thích hợp.
Đảm bảo tính bền vững của chính sách tài khóa: Không có bất kỳ quy tắc đơn giản
nào để xác định nợ công là bền vững hay không. Một phương pháp thường được sử
dụng để xem xét chính sách tài khóa có bền vững hay không là xem sự ổn định của

tỷ lệ
nợ công trên GPD (ví dụ, xem Blanchard et al (1990)). Một cách tiếp cận khác,
IMF (2003) sử dụng cách tiếp cận nợ bền vững để xác định mức nợ trên GDP phù
hợp với hiệu quả tài khóa trong quá khứ của mỗi quốc gia. Nếu một quốc gia có thể
tạo ra thặng dư cơ bản (primary surplus) cao trong quá khứ thì nó sẽ có thể chịu
được một tỷ lệ nợ trên GDP cao hơn mà không gặp phải những bất ổn và mất tính
bền vững của nợ. Con số này dựa trên hiệu quả tài khóa trong quá khứ, được tóm
lược bởi thặng dư cơ bản trung bình. Theo kịch bản này,
giả định một sự khác biệt
giữa lãi suất thực và tốc độ tăng trưởng thực trong lịch sử, họ xác định mức nợ
bền
vững trung bình cho các nền kinh tế mới nổi là khoảng
25% của GDP. Một phân
tích gần đây cho các nước công nghiệp hóa được đưa ra
bở Ostry et al (2010), tác
giả này xây dựng một hàm phản ứng tài khóa để tóm tắt những hành vi trong quá
khứ. Và họ tìm thấy giới hạn của nợ
là khoảng 170% – 180% của GDP, trên mức
này nợ sẽ mất đi tính bền vững.
Chính sách tài khóa phản chu kỳ: Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng mức độ ảnh hưởng
của chính sách tài khóa đến tổng cầu phụ thuộc vào mức độ ban đầu của nợ, với mức nợ cao hơn
dẫn đến sự giảm theo số nhân hoặc thậm chí một số nhân âm.
11|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
Ở mức nợ thấp, chính
sách tài khóa có tác
động theo Keynes truyền thống, tuy
nhiện các tác động bị

đảo ngược ở mức độ
căng thẳng tài khóa cao, khi các biện
pháp thắt chặt tài khóa
có thể được mở rộng thông qua những tác động của nó đối
với lãi suất, phần bù rủi ro và niềm tin. Chính xác mức nợ mà tại đó những tác động
theo Keynes bị đảo ngược rất khó để xác định từ các tài liệu hiện nay. Trong một dữ
liệu của 19 quốc gia OECD, Perotti (1999) đã
tìm thấy bằng chứng rõ ràng
rằng
căng thẳng tàikhóa, được tính toán như là một hàm số của nợ công và nhu cầu chi
tiêu
của chính phủ trong tương lai, là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của
chính sách tài khóa. Tuy nhiện, mức nợ chính xác mà
tại đó xảy ra sự đảo ngược
không được để cập đến. Tương tư như vậy, IMF (2008)
phát hiện ra rằng tính hiệu
quả của chính sách tài khóa như một công cụ phản chu kỳ là nhỏ hơn ở các quốc gia
có mức nợ công cao – được xác định là trên 75% so
với GDP ở những nước công
nghiệp và 25% so với GDP ở các nền kinh tế
mới nổi. Gần đây
nhất, IMF (2009)
khẳng định lại phát hiện này bằng các tài liệu
chứng
minh rằng sự hiệu quả của
chính sách tài khóa trong việc kích thích tổng cầu trong
giai đoạn suy thoái kinh tế
là tỉ lệ nghịch với mức độ nợ công: tác động
của chi tiêu công lên khả năng hồi
phục kinh tế trở nên tiêu cực khi mức nợ vượt quá 60% so với GDP.

Hạn chế tác động từ cụộc khủng hoảng: khủng hoảng tính thanh khoản và sự vỡ nợ đã xảy
ra ở nhiều
mức nợ công khác nhau. Nhiều nghiên cứu
đã cố gắng kiểm tra
những mức độ nợ nước ngoài nào ảnh hưởng
tiêu cực đến tăng trưởng bằng cách
tăng mức ý nghĩa xác xuất xảy ra khủng hoảng. Trong một mẫu của các nước đang
phát triển, Pattillo (2002) phát hiện ra rằng tại
mức 35-40%
GDP tác động của nợ
nước ngoài lên tăng trưởng trở nên tiêu cực – nguyên nhân
chính là do giảm hiệu
quả
đầu tư. Cohen (1997) tìm thấy điểm nợ cao hơn: với mức nợ khoảng 50% GDP,
khả năng gia hạn nợ tăng lên đáng kể. Ngưỡng nợ được ước tính
tương tư trong
nghiên cứu của Manasse, Roubini và Schimmelpfennig
(2003) – các
tác giả này đã
ước tính một ngưỡng nợ là 50% so với GDP. Những
bài nghiên cứu này đưa ra ý
tưởng về mức nợ trung bình mà tại đó tình trạng dễ bị tổn thương tăng lên.
Tối ưu hóa tố độ tăng trưởng bằng cách giảm nguy cơ “chèn lấn”: Một mức nợ
mục tiêu cụng có thể được thiết lập với góc nhìn nhằm tối ưu hóa tốc độ tăng trưởng
theo giả định rằng cân bằng Ricardian là không tồn tại và tại mức nợ cao đầu tư
công sẽ “chènlấn”đầu tư tư nhân. Mức nợ cao cụng có
thể dẫn đến gánh nặng thuế
kỳ vọng trong tương lai cao hơn, điều này sẽ làm giảm lợi nhuận sau thuế kỳ vọng
của nhà đầu tư, do đó làm giảm đầu tư và tăng trưởng (Krugman 1998 và Agenor và
Montiel 1996). Ngoài ra, mức độ nợ cao có

thể cản trở khả năng nới lỏng các chính
sách khi thích hợp, kết quả là
tăng trưởng thấp. Ví dụ, Smyth (1995) đã ước tính tỉ
lệ nợ làm tối đa hóa tốc độ
tăng trưởng của Mỹ là khoảng 40% GDP. Mati (2005)
ước tính tỷ lệ nợ trên 38%
GDP sẽ làm
giảm tốc độ tăng trưởng của Indonesia.
Reinhart và Rogoff (2010), với một mẫu của
44 quốc gia qua 200 năm, chỉ ra rằng
mối quan hệ giữa tăng trưởng và nợ dường
như là yếu tại mức nợ dưới 90% GDP,
12|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
nhưng khi nợ tăng lên trên 90% GDP tốc độ tăng trưởng trung bình giảm 1%.
Caner
et al. (2010) sử dụng cách tiếp cận kinh tế lượng: hồi quy
tốc độ tăng trưởng bằng
mô hình ước lượng bình phương nhỏ nhất ngưỡng
(threshold least squares
estimate), (Hansen, 2000) xác định một
ngưỡng trong mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ
công trung bình dài hạn trên GDP và tốc độ tăng trưởng trung bình dài
hạn của giai
đoạn (1980-2008). Họ nhận thấy rằng với ngưỡng nợ là
77,1% GDP thì với mỗi
phần trăm tăng
thệm trong tỷ lệ nợ làm tốc độ tăng trưởng giảm 0,0174%. Đối với

các nước
đang phát triển tỷ lệ này là thấp hơn 64% so với GDP. Kumar và Woo
(2010) bằng cách sử dụng phương trình tốc độ tăng trưởng với dữ liệu mảng “động”
điều tra các mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ trên GDP và tăng trưởng, và ước tính ngưỡng
nợ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng là khoảng 90% GDP.
Tạo không gian cho những khoản nợ bất ngờ lớn hơn: Thực nghiệm gần đây đã thừa nhận
rằng các khoản nợ bất ngờ hoặc tiềm ẩn – đặc biệt là những khoản nợ liên quan đến tái cấp vốn
của khu vực tài chính – có thể làm nợ công tăng đáng kể và đe dọa tính bền vững của nó. Chi phí
của chính phủ cho việc đương đầu với các cụộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng trong 3 thập kỷ
vừa qua, trung bình là 16% GDP (xem Laeven, L. and F. Valencia (2008)).
Các nghiên cứu thực nghiệm đã cụng cấp một loạt các ngưỡng nợ công tùy thuộc
vào tình hình của mỗi quốc gia và những mục tiêu chính sách được ưu tiên. Những
ước tính từ tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP thấp như
là 15% đối với những quốc gia
đã từng vỡ nợ (xem Reinhart et al. 2003) cho
đến mức cao hơn khoảng 60 – 70%.
Tuy nhiện, những ước tính này thậm chí vẫn còn nhiều
nghi vấn. Dữ liệu lịch sử về
nợ công (không giống như nợ nước ngoài) bị
hạn chế, chủ yếu là số liệu của các
nước công nghiệp và trong khoảng thời gian tương đối
gần đây. Nghiên cứu về nợ
công trong nước đã bị gạt sang một bền do quan điểm
cho rằng các thị trường mới
nổi thường sử dụng nợ nước ngoài hơn là nợ
trong nước. Chỉ gần đâymới có một
bộ dữ liệu toàn diện
về nợ công được biên
soạn bởi IMF(2003) và Reinhart và
Rogoff (2008), cho phép các nhà nghiên cứu xem xét lại nợ công ảnh hưởng như

thế nào đến khả năng đạt được các mục tiêu của họ.
3. Ngưỡng nợ, khả năng chịu đựng nợ
3.1. Ngưỡng nợ
Nền kinh tế thị trường mới nổi với tỷ lệ nợ nước ngoài trên GNP trên 150% được cho là
có rủi ro vỡ nợ cao. Và trong số các nền kinh tế phát triển, tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP hiện nay
của Italy là 120% (hình 2) cũng đã được coi là cao. Tuy nhiện, vỡ nợ có thể xảy ra hoặc không
xảy ra ở tỷ lệ nợ nước ngoài trên GNP không được xem là “quá mức”đối với nền kinh tế phát
triển, ví dụ, năm 1982 Mexico khủng hoảng nợ đã xảy ra tại tỷ lệ nợ trên GNP là 47%, và năm
2001 Argentina đã rơi vào khủng hoảng nợ tại tỷ lệ nợ 50%.
13|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
Nhóm tác giả của "External Debt and Growth”, IMF Working Paper 02/69 (Washington,
2002) chỉ ra làm thế nào ngưỡng nợ và tăng trưởng có mối liên quan.
Trong nghiên cứu của ho, ho đã cố gắng để tìm hiểu xem loại đường cong này tồn tại, về cơ
bản yêu cầu, liên kết giữa nợ và tăng trưởng là gì? Để làm được điều này, ho sử dụng các chỉ số
chứng khoán nợ khác nhau, bao gồm một bộ dữ liệu Ngân hàng Thế giới gần đây nhằm đo lường giá
trị hiện tại ròng của nợ - một biện pháp có tính đến thực tế là một phần đáng kể nợ nước ngoài được
ký kết với một mức lãi suất dưới đây tỷ lệ thị trường hiện hành. Điều này rất quan trọng bởi vì hầu hết
các nghiên cứu chỉ đơn giản coi tỷ lệ nợ (xuất khẩu và GDP) theo danh nghĩa, trong khi hầu hết các
nước lấy mẫu đã ký hợp đồng nợ với lãi suất ưu đãi - có nghĩa là số tiền thực tế họ sẽ phải hoàn trả
trong tương lai ít hơn mệnh giá của nợ. Để xác định chính xác hiệu quả nợ quá mức thông qua các chỉ
số chứng khoán nợ trên, ho cũng bao gồm tỷ lệ nợ cho xuất khẩu để kiểm soát đối với bất kỳ hiệu ứng
động đảo nào phát sinh từ các nguồn lực đang chi cho dịch vụ nợ thay vì đầu tư hoặc tăng chi tiêu
trong nước. Họ thấy rằng khoản nợ dường như có mối quan hệ ngược với mối quan hệ với tăng
trưởng (biểu đồ 3). Khi các quốc gia mở cửa với vốn nước ngoài và bắt đầu vay mượn, tác động đến
tăng trưởng có thể sẽ là tích cực (chuyển từ mức không nợ sang điểm A trên biểu đồ 3). Khi tỉ số nợ
vượt quá mức A, nợ bổ sung cụối cùng sẽ làm chậm tăng trưởng mặc dù mức nợ chung vẫn tiếp tục
đóng góp tích cực vào tăng trưởng. Như vậy, điểm A có thể được coi là mức tăng trưởng tối đa của

khoản nợ. Tuy nhiện, khi nợ đến điểm B, sự đóng góp tổng thể của nợ chuyển thành tiêu cực: quốc
gia trở nên tồi tệ hơn trong trường hợp không có nợ.

Hình 4 Ngưỡng nợ và Tăng trưởng
14|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
Bên cạnh việc xác nhận mối quan hệ nghịch đảo giữa nợ và tăng trưởng, nghiên cứu của
ho cũng định lượng được hai điểm ngoặt quan trọng. Chúng ta có thể xác định được một cách tư
tin hơn là điểm B: mức đóng góp chung của nợ đối với tăng trưởng dường như trở nên âm tính ở
mức 160-170% xuất khẩu và 35 - 40% GDP (theo giá trị hiện tại ròng). Tác động cận biên dường
như trở nên âm tính (điểm A) ở khoảng một nửa mức này, mặc dù kết quả của chúng tôi không
cho phép chúng tôi ước lượng chính xác các mức đó.
Kết quả cũng chỉ ra rằng sự khác biệt về tăng trưởng giữa các nước có nợ thấp (chưa đến
100% xuất khẩu hay 25% GDP) và những nước có nợ cao nhất (hơn 367% xuất khẩu hay 95% GDP)
vượt quá 2 phần trăm mỗi năm. Kết quả của chúng tôi đã được tìm thấy là mạnh mẽ qua nhiều chi tiết
kỹ thuật, phương pháp luận, và chỉ số nợ được sử dụng (xem hộp). Đặc biệt, cần lưu
ý rằng các chỉ số nợ dựa trên mệnh giá hoặc giá trị hiện tại ròng của nợ tạo ra những kết quả
tương tư. Kết quả này phù hợp với thực tế là các quốc gia được hưởng các khoản cho vay ưu đãi
(hoặc từ cơ cấu lại nợ có lãi suất ưu đãi) là những nước đã có nợ quá mức.

3.2. Khả năng chịu đựng nợ
Để đo lường “khả năng chịu đựng nợ”, Reihart, Rogoff và Savastano (2003) tập
trung vào hai chỉ số: Xếp hạng nợ quốc gia được báo
cáo bởi Institutional Investor,
và tỷ lệ nợ nước ngoài trên GNP (hoặc có thể thay thế bằng tỷ lệ nợ nước ngoài trên
xuất khẩu). Xếp hạng của
Institutional Investor (IIR) được biên soạn hai
lần một

năm, dựa trên những thông
tin được cụng cấp bởi các nhà kinh tế và các nhà phân
tích rủi ro quốc gia tại các
ngân hàng và các
công ty chứng khoán toàn cầu hàng
đầu. Điểm xếp hạng của mỗi nước có phạm vi từ 0 đến 100, với đánh giá 100 điểm cho một nước
được coi là có rủi ro thấp nhất của vỡ nợ trên nghĩa vụ nợ của chính
phủ. Do đó các tác giả này đã thực hiện một biến chuyển đổi (100 – IIR) như một
đại diện cho rủi ro vỡ nợ. Thành phần chính thứ hai để đo lường “khả năng chịu
đựng nợ”là tổng nợ nước ngoài, được xem xét như một tỷ lệ với GNP hoặc xuất
khẩu.
 Chuỗi vỡ nợ trong lich sử
a. Cụộc khủng hoảng nợ ở Châu Mỹ Latinh vào những năm 1980
Cụộc khủng hoảng nợ ở Châu Mỹ Latinh vào những năm 80 còn được gọi là "thập niên
mất mát "đã bắt đầu từ những năm 1970. Trong thời kỳ đó, các quốc gia Mỹ Latinh như Brazil,
Argentina và Mexico có một phát triển ấn tượng chủ yếu từ nợ nước ngoài quy mô lớn, nhằm
phát triển các ngành công nghiệp trong nước và cải tiến cơ sở hạ tầng. Hơn nữa, lần này chứng
kiến sự gia tăng mạnh mẽ giá xăng dầu đã mang lại cho các nước xuất khẩu một lượng lớn tiền
đầu tư vào ngân hàng. Theo đó, tổ chức tài chính cho vay các nước đang phát triển, đặc biệt là các
quốc gia Châu Mỹ Latinh, dưới sự dễ dàng điều kiện.
Tuy nhiện, đến những năm 1980, các quốc gia châu Mỹ Latinh đã phải đối mặt khó khăn
trong thanh toán nợ khổng lồ. Kể từ giữa năm 1975-1982, nợ công của các nước Mỹ Latinh cho
15|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
các tổ chức tài chính và Ngân hàng Thế giới tăng với tỷ lệ nợ công / GDP hàng năm của hơn
20%, nâng tổng nợ từ 75 tỷ USD năm 1975 lên hơn 315 tỷ USD vào năm 1983. Đặc biệt, lãi suất
khoản thanh toán gốc tăng dần từ 12 tỷ USD năm 1975 lên 66 tỷ USD năm 1982 (The berge
1999). Trong khi đó vào năm 1979, dưới áp lực lạm phát cao, Mỹ áp dụng chính sách tài khóa

thắt chặt dẫn đến lãi suất cao tỷ lệ. Ngoài ra, lãi suất ở châu Âu tăng cao khiến cho Mỹ và châu
Âu hấp dẫn hơn đối với đầu tư nước ngoài và tiếng Latin Các khoản nợ của Mỹ tiếp tục gia tăng
khoản thanh toán lãi. Bền cạnh đó, khủng hoảng toàn cầu năm 1979 và 1980 ảnh hưởng đến các
nước đang phát triển OECD. Cụ thể, nó có tác động tiêu cực đến xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng
của người mắc nợ. Họ phải huy động mọi nguồn lực khả thi để trả cho nợ kéo theo hậu quả của
sự suy giảm trong nước năng suất và tiêu dùng (Hirst and Thompson, 2004). Trong addtion, các
khoản vay lớn của chính phủ đã được sử dụng một cách liều lĩnh và tham nhũng (Wade
andVeneroso 1998). Vì vậy, các quốc gia châu Mỹ Latinh không có khả năng duy trì tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và khoản nợ phải trả nước ngoài vượt quá thu nhập.
Nguy cơ tích tụ nợ công đã kéo dài nhiều năm và chỉ bùng nổ khi thị trường tài chính
nhận ra rằng nó là khó khăn để nhận được khoản hoàn trả từ các nước này. Phần lớn tài chính các
tổ chức và Ngân hàng Thế giới từ chối hoặc giảm các khoản vay sang tiếng Latinh Các nước Mỹ.
Trong khi đó, phần lớn các khoản vay ngắn dài hạn và nhiều nước gặp khó khăn trong thanh toán
nếu các định chế từ chối kéo dài thời hạn. Triệu phú nợ đô la sớm đến và rút vốn từ các nước
trong khu vực và các quốc gia không thể mượn thệm được nữa. Cụộc khủng hoảng nợ công ở Mỹ
Latinh bắt đầu vào tháng 8 năm 1982 khi Mexico tuyên bố phá sản, thì một loạt các quốc gia
trong khu vực cũng tuyên bố không có khả năng hoàn trả nợ nước ngoài như như Braxin,
Venezuela, Argentina và Bolivia. Trong cụộc khủng hoảng vào đầu những năm 1980, tốc độ tăng
trưởng GDP của các nước này chỉ ở mức trên 2% giảm khoảng 9% trên đầu người (Palat 2003).
Thu nhập thực tế và mức sống giảm mạnh. Khoảng cách giữa người nghèo và người nghèo giàu
có tăng 50% chỉ từ năm 1976 đến năm 1983. Khủng hoảng nợ công là một những lý do để
collaspe của các chế độ độc tài trong khu vực như Brazil và Argentina.
b. Khủng hoảng nợ ở Mexico 1994
Sau cụộc khủng hoảng vào đầu những năm 1980, Mexico đã trải qua một thập kỷ tăng trưởng
thấp và lạm phát cao, chính phủ đã áp dụng tư do hóa thương mại năm 1985, đã dần dần ổn định nền
kinh tế trong cụối năm 1987 và thực hiện nền kinh tế thị trường. Những đổi mới như vậy phục hồi nền
kinh tế (tốc độ tăng trưởng trung bình của thời kỳ 1989-1994 là 3,1%). Năm 1993, lạm phát giảm
xuống chỉ còn một con số lần đầu tiên trong hai thập kỷ qua. Cùng với tốc độ tăng trưởng, Mexico bắt
đầu thu hút đầu tư nước ngoài với một kiểm soát lỏng lẻo và dòng vốn tăng lên ngày càng nhiều. Từ
năm 1984 đến năm 1994, Mêhicô nhận được 94 tỷ USD từ đầu tư nước ngoài. Theo dõi là việc phá vỡ

tín dụng trong nước nhưng thiếu hiệu quả giám sát. Do năm 1993, nền kinh tế đi xuống (tốc độ tăng
trưởng giảm từ 4,5% năm 1990 xuống còn 0,4% vào năm 1993 do sự đánh giá cao peso so với USD
dẫn đến tài khoản vãng lai thâm hụt) làm cho nhiều khoản vay trở nên gánh nặng. Thuộc kinh tế suy
thoái kinh tế đi kèm với tình hình nợ xấu gia tăng. Đến năm 1994, do sự tăng lên của lãi suất USD,
Mexico phải đối mặt khó khăn trong việc thu hút đầu tư nước
16|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
ngoài và quyết định giảm giá peso (thay vì tighising chính sách để tăng lãi suất) để duy trì sự tư
tin của nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiện, sự mất giá của peso làm cho các nhà đầu tư ít thuận lợi hơn cho các hóa đơn T
trong đồng peso (cái gọi là Cetes) và mua T-bill bằng USD (tên là Tesobonos). Trong khi giá trị
của Cetes đã giảm từ 26,1 tỷ USD năm 1993 xuống còn 7,5 USD 1994, giá trị Tesobonos tăng từ
1,2 tỷ USD lên 17,8 USD tỷ đồng. Tuy nhiện, gánh nặng trách nhiệm trả lại Tesobono tăng trong
khi dự trữ quốc gia giảm dẫn đến sự không tin của các nhà đầu tư. Hơn nữa, sự không tin này đã
được tăng cường bởi một hàng loạt các cú sốc chính trị và kinh tế và đỉnh cao là khi nước ngoài
dự trữ trao đổi đã hết và peso đã được annouced nổi. Hậu quả là việc rút vốn khỏi Mexico mà gây
ra cụộc khủng hoảng kinh tế ở nước này.
c. Cụộc khủng hoảng tài chính ở Động Á vào cụối những năm 1990
Ngay trước cụộc khủng hoảng vào những năm 1980 và đầu những năm 1990, Động Á và
các nước Động Nam Á có những bước phát triển ấn tượng và tăng trưởng với quy mô vốn nước
ngoài cao và tỷ lệ xuất khẩu. Tuy nhiện, giải phóng tài chính năm 1990 đã không thực hiện giám
sát tài chính quốc gia để kiểm soát các khoản vay tư nhân khổng lồ. Một sự tăng trưởng kinh tế
cao cùng với lãi suất cao trong Động Á thu hút các nhà đầu tư quốc tế đến khu vực này. Cá nhân
và các công ty vẫn giữ các khoản nợ cá nhân của họ và phần lớn trong số đó là khoản nợ ngắn
hạn 1(Wade và Veneroso 1998). Động Á các quốc gia cần vay vốn hoặc đầu tư nước ngoài để duy
trì năng suất và tăng trưởng (Hirst and Thompson2004). Năm 1996, Indonesia thu hút khoảng 18
tỷ USD từ khu vực tư nhân dòng tiền, Malaysia là 16 tỷ USD và Thái Lan là 13 tỷ USD trước
cụộc khủng hoảng (Grabel 1999).

Tuy nhiện, sự bùng nổ tín dụng do lỏng lẻo kiểm soát việc sử dụng các khoản đầu tư bền
ngoài chủ yếu đầu tư vào bất động sản và chứng khoán làm cho những nước này dễ bị tổn thương
dòng chảy tín dụng đảo ngược. Ở một số nước (ví dụ như Thái Lan), chẳng hạn rủi ro tăng lên do
tỷ giá hối đoái dựa trên tỷ giá hối đoái cố định chính sách làm cho các định chế tài chính, ngân
hàng và doanh nghiệp thích vay ngắn hạn bằng ngoại tệ cho đầu tư thiếu thận trọng quyết định.
Cụộc khủng hoảng tài chính ở Động Á chính thức bắt đầu vào tháng 7 năm 1997 với sự sụp đổ
của Thái Lan do thủ đô quy mô lớn thu hồi. Vào thời điểm đó, Thái Lan chịu gánh nặng lớn từ
bền ngoài nợ khiến họ phá sản trước khi bồn tắm Thái Lan sụp đổ.
4. Lý thuyết Debt – Overhang và đường cong Laffer
Lý thuyết kinh tế cho thấy các mức vay hợp lý của một nước đang phát triển chắc chắn sẽ
tăng cường tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia ở giai đoạn phát triển ban đầu có vốn cổ phần nhỏ
và có khả năng có cơ hội đầu tư có tỷ suất lợi tức cao hơn các nước đang phát triển. Nếu họ sử
dụng vốn vay để đầu tư sản xuất và không bị bất ổn về kinh tế vĩ mô, các chính sách bóp méo các
động cơ kinh tế hoặc các cú sốc bất lợi thì tăng trưởng sẽ tăng và cho phép trả nợ kịp thời. Những
dự đoán này thậm chí còn giữ được trong các lý thuyết dựa trên giả thiết thực tế hơn rằng các
quốc gia có thể không thể mượn tư do do rủi ro từ chối nợ.
17|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
Tại sao mức nợ tích lũy lớn lại dẫn đến tăng trưởng thấp hơn? Giải thích nổi tiếng nhất là
từ các lý thuyết “nợ nần", cho thấy nếu có khả năng trong tương lai nợ sẽ lớn hơn khả năng trả nợ
của quốc gia, chi phí dịch vụ nợ dự kiến sẽ làm giảm đầu tư trong và ngoài nước do đó làm hại
tăng trưởng. Các nhà đầu tư tiềm năng sẽ lo sợ rằng càng có nhiều nước sản xuất, càng chủ nợ sẽ
bị “đánh thuế” hơn nữa để bù đắp nợ nước ngoài, và do đó họ sẽ ít phải chịu chi phí ngày hôm
nay vì lợi ích của sản lượng tăng lên trong tương lai. Lập luận này được thể hiện trong “đường
cong Laffer” (Hình 4), cho thấy các cổ phiếu nợ lớn có xu hướng gắn liền với khả năng trả nợ
thấp hơn. Trên phần dốc lên hay "tốt” của đường cong, gia tăng mệnh giá của nợ liên quan đến
việc tăng nợ dự kiến, trong khi nợ tăng sẽ làm giảm khả năng trả nợ dự kiến ở phần “dốc” hoặc
“xấu” của đường cong.


Hình 5 Đường cong Laffer
Mặc dù các mô hình dự báo nợ không phân tích những tác động trên sự tăng trưởng một
cách rõ ràng, ý nghĩa của nó là các cổ phiếu nợ lớn tăng trưởng thấp hơn một phần bằng cách
giảm đầu tư. Nhưng ngoài ra, các tác động khuyến khích liên quan đến cổ phiếu nợ có xu hướng
làm giảm những lợi ích cần được mong đợi từ cải cách chính sách nhằm nâng cao hiệu quả và
tăng trưởng, như tư do hóa thương mại và điều chỉnh ngân sách: chính phủ sẽ ít sẵn sàng chịu chi
phí hiện tại nếu nhận thấy rằng lợi ích trong tương lai về sản lượng cao hơn sẽ tích luỹ một phần
cho các nhà cho vay nước ngoài.
18|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
Do đó, một số cân nhắc cho thấy, với mức nợ hợp lý, việc vay thệm sẽ có tác động tích cực
đến tăng trưởng. Những người khác nhấn mạnh rằng các cổ phiếu nợ tích lũy lớn có thể là một trở
ngại cho sự tăng trưởng. Cả hai yếu tố này cùng nhau ngụ ý rằng nợ có thể có những ảnh hưởng phi
tuyến đến tăng trưởng. Mặc dù các lý thuyết thuyết phục về nợ không rõ ràng đã tìm ra tác động của
sự tăng trưởng, nhưng có thể mở rộng và chuyển đổi được đường cong Laffer của các mô hình này
thành một đường cong Laffer cho ảnh hưởng của nợ đối với tăng trưởng. Do đỉnh của đường cong nợ
Laffer cho thấy điểm tăng của các cổ phiếu nợ bắt đầu đóng vai trò là thuế đầu tư, cải cách chính sách
hoặc các hoạt động khác đòi hỏi chi phí trước để đổi lấy lợi ích trong tương lai, đỉnh điểm có thể liên
quan đến điểm tại nợ nào bắt đầu có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng.

III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thực hiện nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp định tính, dùng 4 chỉ tiêu đánh gá mức đô
nợ công của môt quốc gia để tiến hành. Đó lần lượt là các phương pháp dưới đây.
1. Phương pháp Số dư nợ so với Tổng thu nhập quốc nội
 Công thức:

Trong đó:

K1 = D/GDP x 100%
D – Số dư nợ/ Nợ công (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars)
GDP – Tổng sản phẩm nội địa (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars)
Tỷ lệ nợ / GDP là tỷ lệ nợ công của một quốc gia với tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Bằng cách so sánh một quốc gia sở hữu những gì nó sản xuất, tỷ lệ nợ / GDP cho thấy khả năng
trả nợ của quốc gia. Thường được thể hiện dưới dạng tỷ lệ phần trăm, tỷ số có thể được hiểu là số
năm cần thiết để trả nợ nếu GDP được dành riêng hoàn toàn cho việc hoàn trả nợ.
Các nhà kinh tế chưa xác định tỷ lệ nợ / GDP cụ thể là lý tưởng, và thay vào đó tập trung
vào tính bền vững của các mức nợ nhất định. Nếu một quốc gia có thể tiếp tục trả lãi suất cho
khoản nợ mà không tái cấp vốn hoặc làm tổn hại đến tăng trưởng kinh tế, thì nhìn chung nó được
coi là ổn định. Tỷ lệ nợ trên GDP cao có thể làm cho một quốc gia khó khăn hơn trong việc trả nợ
nước ngoài và có thể dẫn các chủ nợ tìm kiếm lãi suất cao hơn khi cho vay.
Nếu một quốc gia không thể trả được khoản nợ của mình, nó sẽ không trả được, có thể
gây hoảng loạn trên thị trường trong nước và quốc tế. Tỷ lệ nợ / GDP càng cao thì càng ít khả
năng quốc gia sẽ trả nợ và rủi ro vỡ nợ càng cao. Mặc dù các chính phủ có thể cố gắng để có tỷ lệ
nợ / GDP thấp, nhưng chính phủ mượn có thể tăng lên trong thời kỳ chiến tranh hoặc suy thoái;
đây là một chiến lược kinh tế vĩ mô được cho là do kinh tế học Keynes.
-

Tỷ lệ nợ / GDP của một số quốc gia trên thế giới
Tỷ lệ nợ / GDP trung bình trong số các nước OECD vào năm 2015 dự kiến sẽ là 111,2%. Một
số quốc gia có tỉ số nợ trên GDP năm 2015 là hơn 100%, trong đó Bỉ là 105,4%, Pháp 116,1%,
19|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
Hy Lạp 188,2%, Ireland 132%, Italy 147,4%, Nhật Bản 232,5% Bồ Đào Nha 142,2%, Tây Ban
Nha 111,5% và Vương quốc Anh 103,1%.
Theo báo cáo của Văn phòng Công nợ Hoa Kỳ, Hoa Kỳ có tỷ lệ nợ/GDP là 104,17% vào
năm 2015. Hoa Kỳ có tỷ lệ nợ/GDP cao nhất vào năm 1946 ở mức 121,70%, thấp nhất năm 1974

ở mức 31,70%. Các mức nợ dần dần giảm xuống sau khi thời kỳ Thế Chiến II kết thúc, sau khi cao
hơn khoảng 31 đến 40% vào những năm 1970. Họ đã tăng đều đặn kể từ năm 1980, nhảy mạnh sau
cụộc khủng hoảng nhà ở cho vay dưới chuẩn năm 2007 và cụộc khủng hoảng tài chính tiếp theo.
Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ nợ bằng cách phát hành Treasurys của Hoa Kỳ, được xem là trái
phiếu an toàn nhất trên thị trường. Các quốc gia có 10 cổ phần lớn nhất của Treasurys của Hoa
Kỳ là Đài Loan với 182,3 tỷ USD, Hồng Kông 200,3 tỷ USD, Luxembourg 221,3 tỷ USD, Anh
Quốc 227,6 tỷ USD, Thụy Sĩ 230 tỷ USD, Braxin 246,4 tỷ USD, Ireland 264,30 tỷ USD, Quần
đảo Cayman với 265 tỷ đô la, Nhật Bản đạt 1,147 nghìn tỷ đô la và Trung Quốc Đại lục với 1,244
nghìn tỷ đô la.
2. Phương pháp Số dư nợ so với Kim ngạch xuất khẩu


Công thức:

K2 = D/EX x 100%
Trong đó:
D – Số dư nợ/ Nợ công (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars)
EX – Kim ngạch xuất khẩu (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars)
Chỉ số hữu ích liên quan đến nợ đối với cơ sở tài nguyên (đối với khả năng chuyển dịch
sản xuất để xuất khẩu để nâng cao khả năng trả nợ).
3. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài hàng năm so với kim ngạch xuất khẩu


Công thức:

Trong đó:
K3 = DS/EX x 100%
DS – Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài hàng năm (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars)
EX – Kim ngạch xuất khẩu (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars)
Chỉ số đánh giá tỷ lê số lương tiền mà các nước con nợ có nghĩa vụ phải trả cho nước chủ

nợ hàng năm so với khả năng xuất khẩu hàng hóa của nước đó

20|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
4. Phương pháp Lãi đến hạn trả so với kim ngach xuất khẩu



Công thức:

K4 = CL/EX x 100%
Trong đó:
CL – Tổng lãi đến hạn trả (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars)
EX – Kim ngạch xuất khẩu (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars)
Chỉ số đánh giá tỷ lê lãi môt quốc gia phải trả đến khi đáo han cho nước chủ nợ so với
tổng kim ngach hàng hóa xuất khẩu của quốc gia đó.
 Dưới đây là bảng đánh giá mức đô nợ theo tiêu chuẩn của World Bank:

Hình 6 bảng đánh giá mức đô nợ theo tiêu chuẩn của World Bank

21|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam

CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ THẢO LUẬN VÀ NGHIÊN CỨU
1. Kết quả nghiên cứu
1.2 Tiến hành tính toán và phân tích kết quả thu được

Theo Luật Quản lý Nợ công số 29/2009/QH12, nợ công của Việt Nam được tính theo công
thức sau:
Nợ công = Nợ Chính phủ + Nợ được Chính phủ bảo lãnh + Nợ Chính quyền địa phương (1)
Dựa trên các số liệu do Bộ Tài chính Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cung
cấp trong Bản tin nợ công số - 05 (Bản tin nợ gần nhất công khai số liệu nợ từ Bộ Tài chính),
thống kê số dư nợ và tỷ trọng thành phần trong nợ công của Việt Nam trong giai đoạn 2011 2015, nhóm chúng em sẽ tiến hành công việc tính toán và phân tích dựa trên các thông số này.
Đầu tiên là Nợ Chính phủ, từ Biểu số 5.02, ta có bảng tổng hợp về dư nợ của Chính phủ
trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars):
2011

2012

2013

2014

2015

DƯ NỢ

52.529,01

61.430,99

72.280,99

85.947,99

94.297,81


Nợ nước ngoài

32.032,50

34.925,78

36.281,66

38.130,72

39.623,55

Nợ trong nước

20.496,51

26.505,21

35.999,33

48.817,27

54.674,26

Hình 7: Nợ Chính phủ (2011 – 2015)

22|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam


Hình 8: Biểu số 5.02 (Source: Bộ Tài chính Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Bản tin nợ công số 05)

Thứ hai là Nợ được Chính phủ bảo lãnh, từ Biểu số 5.03, ta có bảng tổng hợp về dư nợ
được Chính phủ trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars):
2011

2012

2013

2014

2015

DƯ NỢ

13.862,17

16.473

18.827,84

19.892,67

20.791,31

Nợ nước ngoài


5.611,41

7.232,02

8.960,17

9.921,97

11.314,17

Nợ trong nước

8.250,76

9.240,98

9.876,67

9.970,7

9.477,14

Hình9: Nợ được Chính phủ bảo lãnh (2011- 2015)

23|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam

Hình 10 Biểu số 5.03 (Source: Bộ Tài chính Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Bản tin

nợ công số 05)

Cuối cùng là Nợ Chính quyền địa phương từ Biểu số 5.03, dưới đây là bảng tổng hợp về dư
nợ Chính quyền địa phương trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 (Đơn vị: Billions of U.S.
Dollars):

DƯ NỢ

2011

2012

2013

2014

2015

1.162,19

1.865,52

2.868,46

3.305,99

3.364,18

Hình 11: Nợ Chính quyền địa phương (2011 - 2015)


24|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam

Từ Công thức (1), ta tính được Số dư nợ của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2011 – 2015
dưới đây:

DƯ NỢ

2011

2012

2013

2014

2015

67.553,37

79.769,51

93.977,29

109.146,65

118.453,30


Hình 12: Nợ Công Việt Nam (2011 - 2015)
Tiếp theo, nhóm chúng em sẽ tiến hành tính toán ngưỡng nợ công của Việt Nam dựa theo
bốn phương pháp đã nêu trong phần cơ sở lý thuyết trước đó.
a. Phương pháp Số dư nợ so với Tổng thu nhập quốc nội
 Công thức:
Trong đó:
K1 = D/GDP x 100% (2)
D – Số dư nợ/ Nợ công (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars)
GDP – Tổng sản phẩm nội địa (Đơn vị: Billions of U.S. Dollars)
Theo dữ liệu về Vietnam – Public Debt Data từ www.focus-economics.com và kết quả tính
toán từ Bảng 4, ngưỡng nợ công của Viêt Nam được tính theo % GDP trong giai đoạn từ năm
2011 đến 2015 có giá trị như sau:

25|51


|Nghiên cứu Ngưỡng chịu đựng nợ công của nền kinh tế Việt Nam
2011

2012

2013

2014

2015

Dư nợ (USD bn) 67.553,37 79.769,51 93.977,29 109.146,65 118.453,30
GDP (USD bn)


122

156

170

184

186

K1

55.4

51.1

55.3

59.3

63.7

Ta có biểu đồ biểu diễn biến động của ngưỡng nợ công của Việt Nam (tính theo % GDP) trong giai
đoạn từ năm 2011 đến 2015:

Biểu đồ sự biến động của ngưỡng nợ công Việt Nam
(% GDP) trong giai đoạn 2011 - 2015
200

70


180

60

160
140

50

120

40

100
80

30

60
40

20
10

20
0

0
2011


2012
Public Debt (USD bn)

2013
GDP (USD bn)

2014

2015

Public Debt (% GDP)

Chiếu theo quy tắc đánh giá mức độ nợ của World Bank về mặt lý thuyết, ngưỡng nợ công
được xác định theo % GDP của Việt Nam đang nằm ở mức Nợ nghiêm trọng (K1 > 50%) với tỷ
lệ nợ công có xu hướng tăng dần theo từng năm. Bằng chứng là nợ công của Việt Nam vào năm
2015 là vào khoảng 118.5 tỷ USD, gần gấp 1.8 lần so với con số 67.5 tỷ USD của năm 2011. Tuy
vẫn trong giới hạn cho phép song tốc độ tăng bình quân cả giai đoạn (18,4%/năm) là khá cao, gấp
hơn 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP.
Xét về cơ cấu nợ công so với GDP, tính đến năm 2015, nợ Chính phủ chiếm đến 79.6% còn
lại là nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ Chính quyền địa phương.
Cùng theo đó, trong giai đoạn 2011 – 2015, dù ngưỡng nợ Việt Nam có giảm nhẹ vào năm
2012, nhưng nó vẫn giữ xu hướng chung là tăng đều qua các năm. Xét về mặt thực tiễn, so với mức

26|51


×