Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

tiểu luận tài chính công đánh giá tính bền vững của nợ công việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.99 KB, 31 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC HÌNH, BẢNG BIỂU
Hình 1: Cơ cấu nợ công Việt Nam 2016..................................................................15
Hình 2: Nợ công vay trong nước và ngoài nước giai đoạn 2011 - 2016..................16
Hình 3: Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ công....................................................17


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nợ công là một phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế của tất cả các
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, gánh nặng nợ công và những hệ quả vĩ mô của nó
đã trở thành nỗi lo thường trực của nhiều quốc gia. Điển hình là cuộc khủng hoảng
nợ công ở Hy Lạp đã tác động mạnh mẽ và lan rộng sang một số quốc gia khác như
Italia, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha…
Việt Nam là một nước đang phát triển, với thâm hụt ngân sách kéo dài, vay nợ
liên tục qua việc phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trường nội địa và vay mượn
ưu đãi nước ngoài đã dẫn đến tỷ lệ nợ tăng nhanh. Tình trạng ngân sách cao và kéo
dài trong nhiều năm, đặc biệt một số năm đã vượt xa ngưỡng báo động đỏ theo
thông lệ quốc tế, trong khi tưng trưởng kinh tế bình quân nhìn chung không cao là
hệ quả tất yếu dẫn đến nợ công trên GDP của Việt Nam liên tục tăng lên.
Báo cáo của Chính phủ về tình hình nợ công cho biết trên cơ sở kế hoạch vay
và trả nợ công năm 2017 và tình hình thực hiện đến 30/9/2017, dự kiến cuối năm
2017 dư nợ công khoảng 3,1 triệu tỷ đồng, tương đương 62,6% GDP, nếu chia trung
bình cho 94 triệu dân, mỗi người dân đang gánh khoảng 33 triệu đồng. Dư nợ chính
phủ khoảng 51,8% GDP và dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 45,2% GDP.
Như vậy, theo lý thuyết, các chỉ số nợ của Việt Nam vẫn ở mức an toàn, trong giới
hạn được chính phủ cho phép. Tuy nhiên, vấn đề đáng lo ngại là Việt Nam lại nằm
trong những quốc giá có tỷ lệ nợ trên GDP tăng nhanh nhất (tăng khoảng 10% trong
5 năm qua), cho dù với thành tích tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Theo đó, nếu bội
chi ngân sách và mức bảo lãnh của Chính phủ vẫn duy trì như hiện nay thì tỷ lệ nợ


công trên GDP của Việt Nam sẽ tăng vượt trần cho phép (65% GDP) trong những
năm tới, kể cả khi tăng trưởng GDP có được duy trì ở mức cao và chi phí huy động
vẫn còn tương đối thuận lợi như hiện nay. Nhận thấy được tính cấp thiết của vấn đề,
nhóm nghiên cứu đã chọn chủ đề “Đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam”
làm đề tài nghiên cứu và khuyến nghị một số giải pháp để giải quyết bài toán nợ
công của Việt Nam.

2


2. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, bài nghiên cứu đánh giá một cách tổng quát tình hình nợ công của
Việt Nam.
Thứ hai, nghiên cứu đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam dựa vào
khung nợ bền vững DSF (Debt Sustainability Framework) của Ngân hàng Thế giới
(World Bnk –WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund – IMF).
Thứ ba, khuyến nghị một số giải pháp nhằm đảm bảo khả năng thanh toán nợ
và sử dụng nợ một cách hiệu quả trong tương lai.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nợ công Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Nợ công Việt Nam giai đoạn 2001-2017.
Do phạm vi nghiên cứu của đề tài khá rộng mà thời gian là hạn chế, chúng
em đã cố gắng hết sức trong phạm vi khả năng nhưng chắc chắn không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được đánh giá góp ý của Cô để bài nghiên
cứu của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

B. NỘI DUNG
3



CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước
Nợ công vẫn luôn là vấn đề hấp dẫn với các nhà kinh tế học từ xưa đến nay.
Hằng năm, rất nhiều các nghiên cứu mới được ra đời, phản ánh đa chiều các vấn đề
khác nhau về nợ công. Do vậy, đề tài về tính bền vững của nợ công cũng đã được
rất nhiều các nhà kinh tế học trong nước cũng như nước ngoài lựa chọn để nghiên
cứu.
1.1.1. Nước ngoài
Với các nghiên cứu quốc tế, ta có thể kể đến một số công trình như Nghiên
cứu của Manasse và Roubini (2005). Đây là công trình nghiên cứu phân tích nợ
công (chủ yếu là nợ nước ngoài của khu vực công) cũng như khả năng xảy ra vỡ nợ
của các quốc gia bằng mô hình cây nhị phân. Các mẫu quan sát của mô hình được
lấy từ 47 nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn 1970-2002 và được tập hơp lại thành
10 chỉ số được chia vào 3 nhóm biến số là: nhóm chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản, nhóm
chỉ số phản ánh biến động và nhóm chỉ số kinh tế chính trị. Nghiên cứu đã chỉ ra
rằng các dấu hiệu của một quốc gia trước khi xảy ra khủng hoảng thường được phản
ánh thông qua sự biến động của nhóm chỉ số kinh tế vĩ mô, chính trị đó. Do vậy,
việc sử dụng số liệu quá khứ và xây dựng mô hình hoàn toàn có thể giúp các nước
dự báo được khủng hoảng kinh tế trong ngắn hạn và đây cũng có thể coi là một
kênh phân tích giúp Chính phủ điều chỉnh các chỉ số kinh tế cho phù hợp và an
toàn.
Ngoài ra khung nợ DSF của WB và IMF áp dụng cho các nước có thu nhập
thấp (công bố lần đầu năm 2005 và được cập nhập định kỳ) không chỉ đưa ra khung
nợ bền vững mà nó cũng là một trong những thước đo cho các xếp hạng về chính
sách thể chế của một quốc gia thông qua việc xác định chỉ số CPIA. Các xếp hạng
cũng như nghiên cứu nhằm mục đích đưa ra đánh giá tổng quan cho các nước để có
những thay đổi về chính sách cũng như điều chỉnh nợ công cho phù hợp, sử dụng
nợ công hiệu quả.

Hay nghiên cứu của nhóm tác giả Corsetti G. và Roubini N. (1991) đã dựa trên
bộ số liệu của 18 nước trong khối OECD với chuỗi dữ liệu thời gian từ 1960 –
4


1989. Các tác giả đã phát hiện có sự khác biệt về sự phát triển bền vững của các
quốc gia trong dài hạn. Về cơ bản, các quốc gia phát triển không có khó khăn trong
việc kiểm soát nợ công, các quốc gia đang và kém phát triển có thể gặp trở ngại
trong việc chi trả nợ công. Tác giả Anca Ruxandra (2011) đã sử dụng số liệu hàng
năm của 14 nước Châu Âu trong giai đoạn 1970 – 2012 để chỉ ra tỷ lệ nợ công của
một số nước vượt xa ngưỡng nợ của Hiệp ước Maastricht đề ra. Tình trạng này trở
nên tồi tệ hơn khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra, tỷ lệ nợ công của các nước
có xu hướng tăng nhanh từ năm 2007, một trong số đó đạt đến mức báo động. Các
nước như Đan Mạch, Phần Lan, Hà Lan và Thụy Điển là những nước không có
nguy cơ đối mặt với rủi ro thanh khoản trong tương lai. Vị thế tài chính bền vững
của họ nhờ vào một tỷ lệ nợ công không vượt quá ngưỡng và thặng dư ngân sách đủ
lớn.
1.1.2. Trong nước
Từ khi WB và IMF công bố khung nợ DSF cho các nước có thu nhập thấp thì
đã có rất nhiều nhà phân tích sử dụng khung nợ DSF nhằm mục đích đánh giá tính
bền vững của nợ công Việt Nam cũng như xem xét liệu rằng nợ công của Việt Nam
có ở mức an toàn hay đã ở mức nguy hiểm. Điển hình cho việc sử dụng khung nợ
này cho nghiên cứu của mình có thể kể đến như: 2 bài nghiên cứu mang tên Nợ
công Việt Nam có thực sự ở mức an toàn và Đánh giá tính bền vững nợ công Việt
Nam theo mô hình DSF của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế và Ngân Hàng thế giới của Phó
giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan. Hai bài nghiên cứu đều chỉ ra rằng Nợ công Việt
Nam đang có mức độ rủi ro cao, thiếu bền vững dù đang ở dưới ngưỡng quy định
của Quốc Hội. Bên cạnh đó có bài nghiên cứu Khung đánh giá bền vững nợ và một
số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam của tác giả Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn
Thành Chung. Bài viết chỉ ra rằng thời gian gần đây nợ công Việt Nam tăng cao làm

tăng gánh nặng trả nợ trong ngắn hạn và đề ra các phương án khuyến nghị chính
sách để điều chỉnh, khắc phục tình trạng này.
Nghiên cứu Nợ công, tính bền vững ở Việt Nam: Qúa khứ, hiện tại và tương
lai của nhóm tác giả Phạm Thế Anh, Đinh Tuấn Minh, Nguyễn Trí Dũng và Tô
Trung Thành năm 2013 cũng là một trong những nghiên cứu điển hình về vấn đề
này của Việt Nam. Nghiên cứu này không chỉ đánh giá tác động của thâm hụt ngân
5


sách đến nợ công mà còn xây dựng Mô hình cây nhị phân của Manasse và Roubini
(2005) và Khung nợ bền vững DSF của IMF và WB (2005) để đánh giá tính bền
vững của nợ công nước ta năm 2011. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong ngắn hạn,
xác suất xảy ra vỡ nợ của Việt Nam là thấp. Và cuối cùng, các tác giả đưa ra được
bài học kinh nghiệm về các cuộc khủng hoảng thế giới từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam.
Hay tác giả Nguyễn Văn Bổn (2016) thuộc Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh đã áp dụng phương pháp chạy lượng để phân tích tác động hai chiều của nợ
công và sự phát triển kinh tế. Các tác giả đã đưa ra một số nhận định về khả năng
kiểm soát tính bền vững của nợ công của Chính phủ Việt Nam.
1.2. Cơ sở lí thuyết:
1.2.1. Cơ sở lí thuyết về nợ công:
1.2.1.1. Khái niệm nợ công:
Theo Luật Quản lý nợ công của Việt Nam (Khoản 2 Điều 1 Luật số
29/2009/QH12), nợ công bao gồm tất cả các khoản nợ của Chính phủ, nợ được
Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương, trong đó:
- Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các
khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy
định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.

- Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương (gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký kết, phát hành
hoặc uỷ quyền phát hành.
Theo Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị Liên hợp quốc về
thương mại và phát triển (UNCTAD), nợ công không chỉ bao gồm nợ chính phủ, nợ
được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương mà còn bao gồm các nghĩa
vụ nợ của ngân hàng trung ương, các đơn vị trực thuộc chính phủ (bao gồm cả Doanh
nghiệp Nhà nước) ở tất cả các cấp chính quyền và một số khoản nợ ngầm định khác.
Theo Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nợ công là
nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của chính phủ trung ương,
6


các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập
(nguồn vốn hoạt động do Ngân sách Nhà nước quyết định hay trên 50% vốn thuộc
sở hữu nhà nước, và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay).
Như vậy, khái niệm nợ công của Việt Nam có phạm vi hẹp hơn nhiều so với
theo thông lệ quốc tế. Theo quan điểm của WB và IMF, nợ công là nợ của khu vực
công, bao gồm cả nợ của NHTW và nợ của doanh nghiệp nhà nước, trong khi nợ
công của Việt Nam không tính đến nợ của Ngân hàng Nhà nước và nợ của doanh
nghiệp nhà nước được Chính phủ bảo lãnh. Việc không thống nhất khái niệm gây ra
khó khăn trong công tác quản lý và kiểm soát nợ công.
1.2.1.2. Phân loại nợ công:
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác nhau
trong việc quản lý và sử dụng nợ công.
Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay: Nợ công gồm có hai loại: Nợ
trong nước và nợ nước ngoài. Nợ trong nước là nợ công mà bên cho vay là cá nhân,
tổ chức trong nước. Nợ nước ngoài là nợ công mà bên cho vay là Chính phủ nước

ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Việc phân loại nợ trong nước và nợ nước ngoài có ý nghĩa quan trọng trong
quản lý nợ. Việc phân loại này sẽ giúp xác định chính xác hơn tình hình cán cân
thanh toán quốc tế. Việc quản lý nợ nước ngoài còn nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ,
vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc các
phương tiện thanh toán quốc tế khác.
Theo phương thức huy động vốn: Nợ công có hai loại: Nợ công từ thỏa thuận
trực tiếp và Nợ công từ công cụ nợ. Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ
công xuất phát từ những thỏa thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền với cá nhân, tổ chức cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ
những hợp đồng vay, hoặc ở tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa các nhà
nước. Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phát hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời
hạn ngắn hoặc dài, thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị
trường tài chính.
Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công: Nợ công có ba
loại: Nợ công từ vốn vay ODA, Nợ công từ vốn vay ưu đãi và Nợ thương mại thông
thường.
7


Theo trách nhiệm đối với chủ nợ: Nợ công được phân loại thành Nợ công
phải trả và Nợ công bảo lãnh. Nợ công phải trả là các khoản nợ mà Chính phủ,
chính quyền địa phương có nghĩa vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà
Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được
nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ trả nợ.
Theo cấp quản lý nợ: Nợ công được phân loại thành Nợ công của trung ương
và Nợ công của chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ
của Chính phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ
công mà chính quyền địa phương là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ.

Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 thì những khoản vay nợ của
chính quyền địa phương được coi là nguồn thu ngân sách và được đưa vào cân đối,
nên về bản chất nợ công của địa phương được Chính phủ đảm bảo chi trả thông qua
khả năng bổ sung từ ngân sách trung ương.
Việc phân loại nợ công có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý và sử
dụng nợ công. Tương ứng với mỗi loại nợ sẽ có giải pháp quản lý bảo đảm quy mô
nợ phù hợp, qua đó sẽ chủ động tăng hay giảm nợ để tạo nguồn thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
1.2.1.3. Tác động của nợ công đến nền kinh tế:
Vay nợ là một cách huy động vốn cho phát triển. Bản chất nợ không phải là
xấu. Nợ đem lại rất nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế của các nước đi vay.
Thực tế, các nước muốn phát triển nhanh đều phải đi vay. Những nền kinh tế lớn
nhất thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản… lại cũng chính là những con nợ lớn.
Nợ công có nhiều tác động tích cực, nhưng cũng có không ít tác động tiêu cực. Tác
động tích cực chủ yếu của nợ công bao gồm:
Thứ nhất, nợ công làm gia tăng nguồn lực cho Nhà nước, từ đó tăng cường
nguồn vốn để phát triển cơ sở hạ tầng và tăng khả năng đầu tư đồng bộ của Nhà
nước. Muốn phát triển cơ sở hạ tầng nhanh chóng và đồng bộ, vốn là yếu tố quan
trọng nhất. Với chính sách huy động nợ công hợp lý, nhu cầu về vốn sẽ từng bước
được giải quyết để đầu tư cơ sở hạ tầng, từ đó gia tăng năng lực sản xuất cho nền
kinh tế;
Thứ hai, nợ công góp phần tận dụng được nguồn tài chính nhàn rỗi trong dân
cư. Một bộ phận dân cư trong xã hội có các khoản tiết kiệm, thông qua việc Nhà
8


nước vay nợ mà những khoản tiền nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, đem lại hiệu
quả kinh tế cho cả khu vực công lẫn khu vực tư;
Thứ ba, nợ công tận dụng được sự hỗ trợ từ nước ngoài và các tổ chức tài
chính quốc tế. Tài trợ quốc tế là một trong những hoạt động kinh tế - ngoại giao

quan trọng của các nước phát triển muốn gây ảnh hưởng đến các quốc gia nghèo,
cũng như muốn hợp tác kinh tế song phương. Biết tận dụng tốt những cơ hội này,
thì sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, trên cơ sở
tôn trọng lợi ích đối tác, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền đất nước.
Bên cạnh những tác động tích cực, nợ công cũng gây ra những tác động tiêu
cực: Nợ công gia tăng sẽ gây áp lực lên chính sách tiền tệ, đặc biệt là từ các khoản
tài trợ ngoài nước. Nếu kỷ luật tài chính của Nhà nước lỏng lẻo và thiếu cơ chế
giám sát chặt chẽ việc sử dụng và quản lý nợ công sẽ dẫn đến tình trạng tham
nhũng, lãng phí tràn lan. Tình trạng này làm thất thoát các nguồn lực, giảm hiệu quả
đầu tư và điều quan trọng hơn là giảm thu cho ngân sách. Nhận biết những tác động
tích cực và tiêu cực nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực là điều hết
sức cần thiết trong xây dựng và thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.
Về bản chất, nợ công chính là các khoản vay để trang trải thâm hụt ngân sách.
Các khoản vay này sẽ phải hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn, nhà nước sẽ phải thu
thuế tăng lên để bù đắp. Vì vậy, suy cho cùng, nợ công chỉ là sự lựa chọn thời gian
đánh thuế: hôm nay hay ngày mai, thế hệ này hay thế hệ khác. Vay nợ thực chất là
cách đánh thuế dần dần, được hầu hết chính phủ các nước sử dụng để tài trợ cho các
hoạt động chi ngân sách. Tỷ lệ nợ công/GDP chỉ phản ảnh một phần nào đó về mức
độ an toàn hay rủi ro của nợ công. Mức độ an toàn hay nguy hiểm của nợ công
không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ nợ/GDP mà quan trọng hơn, phụ thuộc vào tình trạng
phát triển của nền kinh tế.
Khi xét đến nợ công, chúng ta không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hàng
năm phải trả mà phải quan tâm nhiều tới rủi ro và cơ cấu nợ. Vấn đề quan trọng
phải tính là khả năng trả nợ và rủi ro trong tương lai, chứ không chỉ là con số tổng
nợ trên GDP.

9


1.2.2. Tính bền vững của nợ công:

Theo World Bank (2006) thì khái niệm tính bền vững của nợ công: “Nợ công nước
ngoài của một quốc gia được xem là bền vững nếu như các nghĩa vụ nợ (trả gốc và
lãi) được thực hiện một cách đầy đủ mà không cần sử dụng đến các biện pháp tài trợ
ngoại lệ (ví dụ như xin miễn giảm), hoặc không cần phải thực hiện những điều
chỉnh lớn đối với cán cân thu nhập và chi tiêu của mình" (WB, 2006, A Guild to
LIC Debt Substainability Analysis). Như vậy, tính bền vững của nợ công có thể hiểu
là khả năng có thể chi trả các khoản nợ của một quốc gia mà không đòi hỏi xóa nợ
hay tích lũy nợ từ phía chủ nợ.
Đối với các quốc gia có thu nhập thấp, việc thực hiện nghĩa vụ nợ thường gặp
khó khăn khi các chủ nợ, bao gồm các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước, và
các nhà tài trợ không cung ứng các khoản vay hoặc tài trợ mới đủ để tài trợ cho
thâm hụt tài khoá cơ bản. Ngoài ra, việc thực hiện nghĩa vụ nợ cũng gặp rắc rối nếu
như nó có chi phí tiền lãi quá lớn.
Để đánh giá tính bền vững của nợ công, tiêu chí tỉ lệ nợ công/GDP được coi là
chỉ số đánh giá phổ biến nhất cho cách nhìn tổng quát về tình hình nợ công của một
quốc gia. Mức an toàn của nợ công được thể hiện qua việc nợ công có vượt ngưỡng
an toàn tại một thời điểm hay giai đoạn nào đó không. Tiêu chí để đánh giá mức an
toàn của nợ công được thể hiện cụ thể là:
Thứ nhất, giới hạn nợ công không vượt quá 50% - 60% GDP hoặc không vượt
quá 150% kim ngạch xuất khẩu. Ngân hàng Thế giới đưa ra mức quy định ngưỡng
an toàn nợ công là 50% GDP. Các tổ chức quốc tế cho rằng, tỷ lệ nợ hợp lý đối với
các nước đang phát triển nên ở mức dưới 50% GDP.
Thứ hai, dịch vụ trả nợ công không vượt quá 15% kim ngạch xuất khẩu và
dịch vụ trả nợ của Chính phủ không vượt quá 10% chi ngân sách. Tuy nhiên, trên
thực tế không có hạn mức an toàn chung cho các nền kinh tế. Không phải tỷ lệ nợ
công/GDP thấp là trong ngưỡng an toàn và ngược lại. Mức độ an toàn của nợ công
phụ thuộc vào tình trạng mạnh hay yếu của nền kinh tế thông qua hệ thống chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô. Mỹ có tỷ lệ nợ công bằng 96% GDP nhưng vẫn được xem là ở
ngưỡng an toàn bởi năng suất lao động của Mỹ cao nhất thế giới là cơ sở bảo đảm
bền vững cho việc trả nợ. Nhật Bản có số nợ lên tới hơn 200% GDP vẫn được coi là

10


ngưỡng an toàn. Trong khi đó, nhiều nước có tỷ lệ nợ/GDP thấp hơn rất nhiều
nhưng đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ như: Venezuela năm 1981 với tỷ lệ nợ
công chỉ là 15% GDP; Thái Lan năm 1996 với tỷ lệ nợ công là 40% GDP;
Argentina năm 2001 với tỷ lệ nợ công là 45% GDP; Ucraina năm 2007 với tỷ lệ nợ
công là 13% GDP;
Thứ ba, đánh giá nợ công trong mối liên hệ với các tiêu chí kinh tế vĩ mô. Để
đánh giá đúng mức độ an toàn của nợ công không thể chỉ quan tâm đến tỷ lệ
nợ/GDP, mà cần phải xem xét nợ một cách toàn diện trong mối liên hệ với các chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao
động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỷ lệ thâm hụt ngân sách,
mức tiết kiệm nội địa và mức đầu tư xã hội… Bên cạnh đó, những tiêu chí như: cơ
cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ… cũng cần được
xem xét khi đánh giá bản chất nợ công, tính bền vững của nợ công. Khi nợ công
tăng cao, vượt quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương
và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài.
Tóm lại, việc đánh giá đúng thực trạng nợ công và bản chất nợ công của một
nền kinh tế, một quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm
nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy
sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng
căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn công, dễ gây rối loạn nền kinh tế,
thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản. Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ
nợ công còn trong giới hạn an toàn mà không phân tích cẩn trọng, chú ý đúng mức
đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng cách nào, thực trạng nền kinh
tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào…, cũng dễ đẩy nền kinh tế rơi vào vòng xoáy
thâm hụt ngân sách, tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
1.3. Phương pháp đánh giá tính bền vững theo khung phân tích của WB và
IMF

Phương pháp đánh giá tính bền vững và những rủi ro tài khoá đi kèm của nợ
công dựa trên khung phân tích nợ bền vững (DSF - Debt Sustainability Framework)
được IMF và WB giới thiệu lần đầu vào tháng 4 năm 2005, được cập nhật vào các
năm 2006, 2009, 2012 và gần đây nhất là 2017. DSF bao gồm một tập hợp các
11


ngưỡng nợ nguy hiểm, dựa vào đó có thể dự báo nợ công và nợ công nước ngoài
trong vòng 20 năm tới và đánh giá nguy cơ tiềm ẩn của nợ. Các ngưỡng chỉ số gánh
nặng nợ phụ thuộc vào mức độ hỗ trợ của chính sách và khung thể chế của một
quốc gia đối với tăng trưởng bền vững và giảm nghèo, được đo lường bằng chỉ số
CPIA (Country Policy and Institutional Assessment) của WB. CPIA là một chỉ số
gồm 16 chỉ tiêu được nhóm lại thành 4 loại: (1) quản lý kinh tế, (2) chính sách cấu
trúc, (3) chính sách xã hội và công bằng, (4) quản trị khu vực công và thể chế. Các
nước được đánh giá tình trạng hiện tại của họ trong mỗi tiêu chí thực hiện, với
thang điểm từ 1 đến 6. Chỉ số này được cập nhật hàng năm cho tất cả các nước
trong Hiệp hội phát triển quốc tế.
Theo bản thông tin của IMF phương pháp này nhằm tới hai mục tiêu chính:

- Thứ nhất, khuôn khổ khung phân tích được thiết kế để hướng dẫn việc quyết định
vay vốn của các quốc gia có thu nhập thấp một cách phù hợp với nhu cầu tài chính
của họ với khả năng trả nợ hiện tại và tương lai của họ, có tính đến hoàn cảnh của

-

mỗi quốc gia.
Thứ hai, hướng dẫn những quyết định cho vay để đảm bảo rằng nguồn tài chính
được cung cấp đến những quốc gia thu nhập thấp với những điều kiện nhất quán với
mục tiêu phát triển và khả năng chịu đựng của nợ dài hạn.
Ngoài ra, nó giúp cải thiện đánh giá của WB và IMF cũng như những khuyến

nghị chính sách đối với khu vực này nhằm sớm giúp loại bỏ những khủng hoảng
tiềm tàng có thể xảy ra.
Trong phạm vi bài nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng Khung phân tích DSF
phiên bản cập nhật năm 2017.
Theo mô hình DSF (2017) để nhận biết được các yếu tố khác nhau ảnh hưởng
tới ngưỡng nợ tối đa một nước, mô hình DSF dùng một chỉ số hỗn hợp
(composite indicator- CI). Chỉ số CI phản ánh tác động của các yếu tố khác nhau
bao gồm số bình quân của CPIA, tăng trưởng GDP thực của một nước, kiều hối, dự
trữ quốc tế và tăng trưởng toàn cầu.
CI= β1 CPIA + β2g+ β3 + β4 β5 ]2 + β6gw
(g và gw lần lượt là tăng trưởng quốc gia và tăng trưởng quốc tế, tất cả các biến
số đều ở dạng phần trăm, trừ chỉ số CPIA.)

12


β1 = 0.385; β2 = 2.719; β3 = 2.022; β4 = 4.052; β5 = −3.990; β6 = 13.520
Việc tính toán chỉ số CI sẽ dựa trên số bình quân trong 10 năm của các biến số,
trong đó 5 năm dựa trên dữ liệu quá khứ và 5 năm dự đoán. Thời gian 10 năm đảm
bảo một sự ổn định trong việc xếp hạng một nước đồng thời cũng giải quyết sự ảnh
hưởng của chu kì kinh tế. Việc sử dụng dữ liệu quá khứ và dự báo sẽ cân bằng các
kết quả trước đó cũng như các thay đổi được dự đoán trong một nước, đảm bảo rằng
cả những cải thiện được dự đoán trong tương lai và các kết quả trong quá khứ đều
ảnh hưởng đến xếp hạng một quốc gia. Với chỉ số CPIA, giá trị gần nhất sẽ được
tính cố định cho 5 năm dự báo.
Có thể thấy với bản 2017 đã giới thiệu những thay đổi để đảm bảo ngưỡng
DSF duy trì được sự phù hợp với bối cảnh tài chính thay đổi nhanh chóng của các
nước thu nhập thấp, đồng thời giúp ngưỡng DSF thực tế hơn, toàn diện hơn và tốt
hơn trong việc đo lường rủi ro nợ xấu. DSF năm 2017 sử dụng nhiều các biến số cụ
thể của từng nwuocs để tăng khả năng dự báo hơn là DSF 2012 chỉ dùng chỉ số

CPIA. DSF 2017 cũng đua vào các nhân tố tương lai ( điều này sẽ tăng sự liên kết
với các cơ quan có thẩm quyền) trong khi DSF 2012 phân loại dựa vào các dự liệu
quá khứ.
Điểm CI sẽ quyết định xếp hạng một nước ở 1 trong 3 nhóm: yếu, trung bình, mạnh.
Điểm CI
CI< 2.69
2.69 ≤ CI ≤ 3.05
CI > 3.05

Phân loại
Yếu
Trung bình
Mạnh

Bảng 1: Ngưỡng nợ nguy hiểm cho nợ công nước ngoài
Tỷ lệ phần trăm giá trị nợ
hiện tại
GDP
Xuất khẩu
Chính sách yếu
Chính sách trung
bình
Chính sách mạnh

30
40

140
180


55

240

Tỷ lệ phần trăm nghĩa
vụ nợ
Xuất
Thu ngân
khẩu
sách
10
14
15
18

21
23
Nguồn: IMF Policy paper 2017

Bảng 2: Ngưỡng nợ nguy hiểm áp dụng cho tổng nợ công
13


Nợ công/ GDP
35
55
70
Nguồn: IMF Policy paper 2017

Chính sách yếu

Chính sách trung bình
Chính sách mạnh

Dựa trên những ngưỡng nguy hiểm trên, chúng ta có thể xếp hạng tình hình
nợ trong nước theo 4 mức nguy cơ được trình bày trong bảng sau.
Bảng 3: Mức rủi ro vỡ nợ
Rủi ro vỡ nợ thấp

Tất cả các chỉ số nợ đều thấp hơn so
với ngưỡng giới hạn.
Rủi ro vỡ nợ trung bình
Các chỉ số nợ đều thấp hơn so với
ngưỡng trong kịch bản cơ sở. Tuy
nhiên, các chỉ tiêu này có thể cao hơn
các giới hạn do các cú sốc ngoại sinh
hoặc thay đổi chính sách vĩ mô đột
ngột.
Rủi ro vỡ nợ cao
Một hoặc nhiều chỉ tiêu về nợ trong
mô hình cơ sở vi phạm ngưỡng giới
hạn trong một khoảng thời gian dài.
Khủng hoảng nợ
Quốc gia gặp khó khăn trong việc
thực hiện các nghĩa vụ nợ.
CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
2.1. Thực trạng nợ công của Việt Nam hiện nay :
Dư nợ công Việt Nam từ 2011 đến 2017 đã tăng hơn 2 lần từ 1.391 nghìn tỷ
đồng đến 3.065 nghìn tỷ đồng. Ngưỡng nợ công năm 2016 là 64,8% GDP rất sát
ngưỡng quốc hội cho phép (65% GDP). Mức nợ công/GDP năm 2017 tại hội nghị
tổng kết ngành ngày 8/1/2018 giảm xuống còn 61,3%.

Bảng 4: Dư nợ và tỷ lệ nợ công/GDP từ 2011-2017
2011
Dư nợ công
(1000 tỷ)
Nợ công/GDP (%)

2012

2013

2014

2015

2016

2017

1.391 1.647 1.952 2.283 2.608 2.921 3.065
54,9 50,8 54,5 58,02 62,2 64,73 61,3
Nguồn: Bản tin nợ công số 5, các báo cáo của bộ tài chính

Cơ cấu nợ công Việt Nam
- Nợ công phân theo các cấp

14


Theo Luật Quản lý nợ công của Việt Nam (Khoản 2 Điều 1 Luật số
29/2009/QH12), nợ công bao gồm tất cả các khoản nợ của Chính phủ, nợ được

Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương.
Bảng 5: cơ cấu nợ công theo GDP và tỷ trọng nợ công
Chỉ tiêu
Nợ chính
phủ/GDP(%)
Nợ chính
phủ/GDP (%)
Nợ được chính
phủ bảo
lãnh/GDP (%)
Nợ chính quyền
địa phương
/GDP (%)

2011
54,9

2012
50,8

2013
54,5

2014
58,0

2015
62,2

2016

64,7

2017
61,3

43,2

39,4

42,6

47,4

50,3

53,6

51,6

11,4

10,6

11,1

10,7

11,0

10,2


9,1

0,4

0,8

0,8

0,9

0,9

0,9

0,6

Cơ cấu nợ công
100
100
100
100
100
100
100
(%)
Nợ chính phủ
78,5
77,7
78,2

80,0
80,8
82,8
84,18
(%)
Nợ được chính
20,7
20,8
20,3
18,5
17,8
15,8
14,84
phủ bảo lãnh
(%)
Nợ chính quyền
0,8
1,5
1,5
1,5
1,4
1,4
0,98
địa phương (%)
Nguồn: bảng tin nợ công số 5, báo cáo khác của Bộ tài chính (2016,2017)
Về cơ cấu nợ công, số liệu từ Bộ tài chính cho thấy trong giai đoạn 20112017, nợ chính phủ luôn chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 80%), tiếp đến là nợ được
chính phủ bảo lãnh (khoảng 15-20%), thấp nhất là nợ chính quyền địa phương
(khoảng 1-1,5%). So sánh với %GDP thì nợ chính phủ có xu hướng tăng dần từ
2011-2016, đặc biệt tỷ lệ 53,6 % GDP của năm 2016 đã sát ngưỡng quy định 54%
của quốc hội; tỷ lệ nợ được chính phủ bảo lãnh giảm dần từ 11,4% năm 2011 còn

9,1% năm 2017, nợ chính quyền địa phương ít biến động.
Hình 1: Cơ cấu nợ công Việt Nam 2016

- Nợ trong nước và nợ nước ngoài

15


Trong cơ cấu nợ Chính phủ, tỷ trọng nợ trong nước đang có xu hướng tăng từ
39% năm 2011 lên 59% năm 2015 và tỷ trọng nợ nước ngoài giảm tương ứng từ
61% năm 2011 xuống còn 41% năm 2015, như vậy là phù hợp với Chiến lược nợ
công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 tầm nhìn đến 2030.
Hình 2: Nợ công vay trong nước và ngoài nước giai đoạn 2011 - 2016

Nguồn: số liệu tổng hợp từ Bản tin nợ công số 5
và các báo cáo của Bộ tài chính
- Cơ cấu nợ công theo kỳ hạn và lãi suất
Về kỳ hạn, với nợ trong nước, chủ yếu phát hành trái phiếu trong nước. Trước
đây, do áp lực huy động vốn lớn trong khi thị trường vốn trong nước chưa phát
triển, nguồn vay đầu tư trái phiếu Chính phủ (TPCP) chủ yếu là ngân hàng thương
mại nên giai đoạn 2011-2013 buộc phải vay với kỳ hạn ngắn dẫn đến áp lực trả nợ
trong ngắn hạn tăng lên. Thực hiện Nghị quyết số 78/2014/NQ-QH13 và Nghị
quyết số 99/2015/NQ-QH13 của Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã chỉ đạo kéo
dài thời hạn phát hành Trái phiếu trong nước. Nhờ vậy, từ năm 2014, với sự dịch
chuyển của cơ cấu nhà đầu tư, các công ty bảo hiểm và các quỹ hưu trí đã quan tâm
và tham gia tích cực hơn vào thị trường, thì sản phẩm trái phiếu phát hành cũng bắt
đầu thay đổi. Để đáp ứng khẩu vị của các công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư là trái
phiếu có kỳ hạn dài, từ năm 2014, các tổ chức phát hành đã bắt đầu đưa ra đấu thầu
các sản phẩm trái phiếu có kỳ hạn dài từ 5 năm trở lên. Đặc biệt năm 2016, Kho bạc
Nhà nước đã phát hành thành công các loại trái phiếu với đa dạng kỳ hạn: 7 năm, 20

năm và kỳ hạn siêu dài 30 năm.
Về cơ cấu lãi suất: Lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường vốn
trong nước bình quân giảm từ mức 12%/năm vào năm 2011 xuống còn khoảng
6,5% vào năm 2014 và khoảng 6% vào năm 2015, góp phần thúc đẩy sự phát triển
thị trường trái phiếu trong nước. Đối với nợ nước ngoài do các khoản vay ODA,
vay ưu đãi chiếm tỷ trọng lớn, lãi suất bình quân tính đến cuối năm 2015 khoảng
2%/năm. lãi suất, tỷ giá và lạm phát có ảnh hưởng đến việc gia tăng nợ công Việt
Nam nhưng không đáng kể.
- Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ công
16


Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ của Chính phủ tập trung vào một số đồng
tiền chính bao gồm: đồng Việt Nam với tỷ trọng 55%; USD chiếm tỷ trọng 16%;
Yên Nhật chiếm tỷ trọng 13% và Euro chiếm tỷ trọng khoảng 7%, còn lại là các
đồng tiền khác.
Hình 3: Cơ cấu đồng tiền của danh mục nợ công

Nguồn: số liệu trích dẫn từ nội dung phỏng vấn Phó Cục trưởng
Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại Võ Hữu Hiển.
2.2. Đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam trên các ngưỡng nợ của
IMF và WB
Năm 2016 Quốc hội đề ra mức trần nợ công cho phép là 65% GDP trong khi
đó mức nợ công của Việt Nam lúc bấy giờ đã đạt mức 64.73% GDP. Tuy mức nợ
công hiện tại của Việt Nam vẫn chưa vượt mức cho phép của Quốc hội nhưng cũng
đã bám sát nút với mức cho phép. Điều đó cho thấy mức độ nợ công Việt Nam đang
ở mức nguy hiểm, rất cần lưu tâm. Tình trạng này đặt ra một vấn đề khá lớn đối với
nhà nước Việt Nam trong việc đưa ra các quyết sách, khuyến nghị nhằm mục đích
giảm mức nợ công hiện tại của Việt Nam xuống một mức hợp lý, ít rủi ro và bền
vững đối với sự phát triển của cả một nền kinh tế, xã hội.

Tính đến tháng 7 năm 2017 Việt Nam vẫn chưa được “ thoát” khỏi danh sách
các nước có thu nhập thấp nên DSF vẫn được áp dụng nhưng kể từ sau thời điểm
7/2017 thì khung nợ bền vững DSF sẽ không được áp dụng nữa.
Dù rất muốn đánh giá mức nợ công Việt Nam theo khung nợ bền vững DSF
với số liệu năm 2016, 2017 tuy nhiên trên kho dữ liệu của WB mới chỉ công bố số
liệu về CPIA năm 2015 của Việt Nam. Và thêm vào đó là việc từ tháng 7/2017 Việt
Nam không nằm trong diện áp dụng được khung nợ DSF. Chính vì lẽ đó nên nhóm
nghiên cứu chỉ có thể tổng hợp số liệu CPIA đến năm 2015 và xin phép được dùng
kết quả CPIA trung bình của năm 2015 áp dụng cho năm 2016. Vì thế nên kết quả
nghiên cứu dưới đây không thể chính xác hoàn toàn và chỉ mang tính chất tham
khảo.
Bảng 6. Tổng hợp 16 chỉ số CPIA của Việt Nam

17


Năm

2011

2012

2013

2014

2015

3.5
4.5

4
3.5
3
3.5
4.5
4.5
4
3.5
3.5
3.5

4
4.5
4
3.5
3
3.5
4.5
4.5
4
3.5
3.5
3.5

4
4.5
4
4
3
3.5

4.5
4.5
4
3.5
3.5
3.5

4
4
4
4
3
3.5
4.5
4.5
4
3.5
4
3.5

4
3.5
3.5
4
3
3.5
4.5
4.5
4
3.5

4
3.5

4
4
3.5
3

3.5
4
3.5
3

3.5
4
3.5
3

3.5
4
3
3

3.5
4
3.5
3

Chỉ số
Quản lý kinh tế vĩ mô

Chính sách tài khóa
Chính sách nợ
Chính sách thương mại
Khu vực tài chính
Môi trường kinh doanh
Bình đẳng giới
Sử dụng vốn công
Xây dựng nguồn nhân lực
Bảo vệ xã hội và lao động
Tính bền vững của môi trường
Quyền/ luật sở hữu dựa trên
nguyên tắc quốc gia
Quản lý tài chính và ngân sách
Hiệu quả huy động vốn
Chất lượng hành chính công
Tính minh bạch, trách nhiệm giải
trình và tham nhũng

Nguồn: Tác giả tự tổng hợp theo WB Data
Sau khi tính CPIA trung bình theo 16 chỉ số trên, chúng ta sẽ xác định xem
nước ta thuộc nhóm nào theo tiêu chí sau: nước có điểm CPIA trung bình nhỏ hơn
hoặc bằng 3.25 được coi là có chính sách yếu, từ 3.25 đến nhỏ hơn 3.75 là nước có
chính sách trung bình, lớn hơn hoặc bằng 3.75 được coi là nước có chính sách tốt.
Bảng 7. kết quả tính CPIA trung bình của Việt Nam
Năm
CPIA trung bình

2011
3.767


2012
3.73

2013
2014
2015
3.767
3.73
3.7
Nguồn: tác giả tự tổng hợp và tính

Theo kết quả tính toán được từ bảng trên ta thấy được rằng Việt Nam từ năm
2011 đến năm 2014 được coi là nước có chính sách tốt, nhưng đến năm 2015, chỉ số
CPIA trung bình đột ngột giảm xuống dưới mức 3.75 khiến cho Việt Nam bị liệt vào
danh sách các nước có chính sách trung bình.
Số liệu quá khứ GDP và dự báo GDP được lấy từ World Economic Outlook
(WEO) được IMF phát hành tháng 4 năm 2018. Số liệu về kiều hối được lấy từ
Migration and Remittances Data của WB. Số liệu về dự trữ ngoại hối được lấy từ
WB, báo cafef. Số liệu về kim ngạch nhập khẩu được lấy từ Tổng cục hải quan Việt
18


Nam. Số liệu quá khứ và dự báo về tốc độ tăng trưởng của Việt Nam và thế giới
được lấy từ IMF.

Bảng 8:Số liệu từ 2011 đến 2021 các biến số để tính CI
GDP
(tỷ
USD)
2011

2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021

134,59
8
155,56
5
170,56
5
185,89
7
191,45
4
201,30
9
220,40
8
240,77
9
264,93
9
290,62

1
316,70
8

Kiều
hối (tỷ
USD)

Kiều
hối/GD
P

Dự trữ
ngoại
hối

Nhập
khẩu

106,7
5

12

0,0646

13,53
9
25,57
3

25,89
3
34,18
9

13,2

0,0689

28,25

8,6
10
11

11,88
13,78
1
14,71
8
15,68
9
16,70
9
17,76
2

0,0639
0,0643
0,0645


0,0590
0,0625
0,0611

41
51,5
68

113,78
132,0
3
147,8
5
165,5
7

Dữ trữ
ngoại
hối/nhậ
p khẩu

3,5

3,73

5,4

3,5


3,767

6

3,6

3,73

6,7

3,5

3,7

6,2

3,2

3,72

6,8

3,8

3,767

6,6

3,9


3,78

6,5

3,9

3,74

6,5

3,8

3,7

6,5

3,7

3,78

0,2248
0,1961
0,2312
0,1706

174,11 0,2355
211,1
232,5

0,2440

0,2925

73,4

246,1

0,2983

0,0575

78,3

256,7

0,3050

85,1

5,2

0,1268

0,0592

0,0561

6,2

Tốc
CPIA

độ
tăng
trưởng
thếgiớ
i (%)
4,3
3,767

Tốc độ
tăngtrưởn
g ViệtNam
(%)

212,8

0,3999

Theo mô hình DSF (2017) để nhận biết được các yếu tố khác nhau ảnh hưởng
tới ngưỡng nợ tối đa một nước, mô hình DSF dùng một chỉ số hỗn hợp (composite
indicator- CI).
Chỉ số CI phản ánh tác động của các yếu tố khác nhau bao gồm số bình quân
của CPIA, tăng trưởng GDP thực của một nước, kiều hối, dự trữ quốc tế và tăng
trưởng toàn cầu.
CI= β1 CPIA + β2g+ β3 + β4 β5 ]2 + β6gw
19


(g và gw lần lượt là tăng trưởng quốc gia và tăng trưởng quốc tế, tất cả các biến
số đều ở dạng phần trăm, trừ chỉ số CPIA.)
β1 = 0.385; β2 = 2.719; β3 = 2.022; β4 = 4.052; β5 = −3.990; β6 = 13.520

Từ mô hình này, nhóm nghiên cứu đã tính ra CI của các năm từ 2001 đến 2011.

GDP
(tỷ
USD)
2011

134.6

201
2
201
3
201
4
201
5
201
6
201
7
201
8
201
9
202
0
202
1


155.5
7
170.5
7
185.9
191.4
5
201.3
1
220.4
1
240.7
8
264.9
4
290.6
2
316.7
1

Kiều
Dự trữ
Kiều
hối (tỷ
ngoại
hối/GDP
USD)
hối

8.6


0.0639

10

0.0643

11

0.0645

12

0.0646

13.2

0.0689

11.88

0.059

13.78
1
14.71
8
15.68
9
16.70

9
17.76
2

Nhập
khẩu

13.53 106.7
9
5
25.57
113.78
3
25.89 132.0
3
3
34.18 147.8
9
5
165.5
28.25
7
41 174.11

Dữ trữ
Tốc độ
ngoại
tăngtrưởn
hối/nhập
g ViệtNam

khẩu
(%)

Tốc độ
tăng
trưởng CPIA
thếgiới
(%)

0.1268

6.2

4.3

3.767

0.2248

5.2

3.5

3.73

0.1961

5.4

3.5


3.767

0.2312

6

3.6

3.73

0.1706

6.7

3.5

3.7

0.2355

6.2

3.2

0.0625

51.5

211.1


0.244

6.8

3.8

0.0611

68

232.5

0.2925

6.6

3.9

0.0592

73.4

246.1

0.2983

6.5

3.9


0.0575

78.3

256.7

0.305

6.5

3.8

0.0561

85.1

212.8

0.3999

6.5

3.7

Bảng 9
Như vậy theo phân loại của DSF 2017, điểm CI của Việt Nam năm 2016 rơi
vào khoảng từ 2,69 đến 3,05 là nhóm nước có chính sách trung bình. Dựa vào
ngưỡng của các nước trung bình để, so sánh với các chỉ số nợ công của Việt Nam.
Bảng 10: Giá trị nợ nước ngoài và nghĩa vụ nợ nước ngoài; giá trị nợ

công/GDP
20

3.72
3.767
3.78
3.74
3.7
3.78


Giá trị nợ nước ngoài
theo tỷ lệ % của
GDP
Kim
ngạch xuất
khẩu
41,5
38,84
37,4
36,8
37,3
34,24
38,3
31,99
43,1
51,41
44,3
50,82


Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài
theo tỷ lệ % của
Kim ngạch
Thu NSNN
xuất khẩu

Nợ
công/GDP

2011
1,97
5,77
54,9
2012
2,01
6,43
50,8
2013
2,22
6,75
54,5
2014
2,33
8,73
58
2015
1,67
5,81
62,2
2016

1,59
5,82
64,7
Ngưỡng nợ
đối chiếu
40
180
15
18
55
theo DSF
Nguồn: tính toán từ số liệu WB, tổng cục hải quan, các báo cáo của bộ tài chính
Nhìn chung việc trả nợ hàng năm của VN đều an toàn, với các chỉ số như
nghĩa vụ trả nợ NN/kim ngạch xuất khẩu, nghĩa vụ trả nợ NN trên thu ngân sách
đều ở dưới ngưỡng cảnh báo của DSF 2017.
2.3 Kết quả nghiên cứu:
Nhóm nghiên cứu sử dụng mô hình tương quan Pearson và hồi quy tuyến tính
bội trong phần mêm SPSS. Sau khi thực hành và nghiên cứu, nhóm đưa ra các nhận
xét và kết luận như sau.
Nhóm nghiên cứu sử dụng số liệu ở bảng 6 để thực hiện chạy mô hình.

21


22


Kết quả cho ra 3 bảng Model Summary, Anova và Coefficients.
Bảng 11. Model Summary


Nhận xét bảng Model Summary:

- Số quan sát là 11
- Hệ số xác định R2 = 10% thể hiện mức độ phù hợp của hàm hồi quy mẫu. Ngoài ra
các biến độc lập (GDP, kiều hối, tốc độ tăng trưởng, …) giải thích được 10% sự
giao động của biến CI. Nói cách khác, 10% sự giao động của CI được giải thích bởi
sự thay đổi GDP, kiều hối, tốc độ tăng trưởng trong nước và thế giới,…của Việt
Nam.
23


- Hệ số xác định điều chỉnh: adjust-R 2 = 0,999. Các biến độc lập trong mô hình
nghiên cứu ảnh hưởng tới 99,9% sự thay đổi của biến phụ thuộc. Còn lại 0,1% còn
lại là do sự ảnh hưởng của biến ngoài mô hình và do sai số ngẫu nhiên.
Bảng 12. Anova

Biến độc lập là: CI
Biến phụ thuộc là các biến: CPIA, tocdotangtruongvn, kieuhoigdp,
tocdotangtruongnn
Ta thấy sig của biến F (0,072) > 0,05 nên mô hình không ảnh hưởng vào biến
phụ thuộc nên không có ý nghĩa để suy ra tổng thể.
Bảng 13. Coefficient

24


Ta thấy sig của tocdotangtruongvn, tocdotangtruongnn và cpia > 0,05 (5%) nên hệ
số hồi quy không có ý nghĩa còn sig của kieuhoigdp < 0,05(5%) nên hệ số hồi quy
có ý nghĩa.
VIF nằm trong khoảng 1 đến 2, vì vậy mô hình đa cộng tuyến là phù hợp.

Trong bài nghiên cứu, nhóm sử dụng mô hình hồi quy beta chuẩn hóa:
CI= β1 CPIA + β2g+ β3 + β4 β5 ]2 + β6gw
Vì vậy, ta thấy được sự ảnh hưởng mạnh yếu của các biến độc lập đến biến
phụ thuộc. Nhận xét rằng: kieuhoigdp > cpia > tocdotangtruongnn >
tocdotangtruongvn, vì vậy, từ phương trình hồi quy, ta nhận thấy được biến “kiều
hối trên gdp” có tác động mạnh nhất tới CI, sau đó là CPIA, tốc độ tăng trưởng
nước ngoài và tốc độ tăng trưởng Việt Nam.
Dưới đây là biểu đồ mô hình đa cộng tuyến :

25


×