Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Đánh giá tính bền vững của nợ công và mối quan hệ giữa nợ với tăng trưởng kinh tế tại việt nam luận văn thạc sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
----------

NGUYỄN CÔNG TOÀN

ĐÁNH GIÁ TÍNH BỀN VỮNG CỦA NỢ CÔNG
VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƢỞNG KINH
TẾ TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
----------

NGUYỄN CÔNG TOÀN

ĐÁNH GIÁ TÍNH BỀN VỮNG CỦA NỢ CÔNG
VÀ MỐI QUAN HỆ VỚI TĂNG TRƢỞNG KINH
TẾ TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN HOÀNG BẢO



TP. HỒ CHÍ MINH – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ này là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân
tôi. Các số liệu trong luận văn đƣợc thu thập và sử dụng một cách trung thực. Kết
quả nghiên cứu đƣợc trình bày trong luận văn không sao chép của bất cứ nghiên cứu
nào và cũng chƣa đƣợc trình bày hay công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào
khác trƣớc đây.
TP.HCM, ngày 15 tháng 05 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Công Toàn


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
MỤC LỤC ................................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT ........................................................ i
DANH MỤC CÁC BẢNG.......................................................................................... i
DANH MỤC CÁC HÌNH ........................................................................................... i
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU .........................................................................................1
1.1.

Đặt vấn đề ..............................................................................................1

1.2.

Mục tiêu nghiên cứu ..............................................................................3


1.3.

Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................3

1.4.

Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu .............................................................3

1.5.

Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................3

1.6.

Cấu trúc luận văn ...................................................................................4

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ...........................................................................5
2.1.

Nợ công..................................................................................................5

2.1.1.

Khái niệm nợ công .................................................................................5

2.1.2.

Phân loại nợ công ..................................................................................7


2.1.3.

Rủi ro của nợ công .................................................................................9

2.1.4.

Tính bền vững của nợ công .................................................................10

2.2.

Tăng trƣởng kinh tế .............................................................................11

2.2.1.

Khái niệm tăng trƣởng kinh tế .............................................................11

2.2.2.

Các mô hình tăng trƣởng .....................................................................12

2.3.

Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trƣởng kinh tế...............................18


2.2.1.

Tổng quan các lý thuyết.......................................................................18

2.2.2.


Lƣợc khảo các nghiên cứu thực nghiệm ..............................................26

CHƢƠNG 3: ĐÁNH GIÁ TÍNH BỀN VỮNG CỦA NỢ ........................................33
3.1.

Thực trạng nợ công hiện nay ...............................................................33

3.1.1.

Tình hình vay nợ ..................................................................................33

3.1.2.

Tình hình sử dụng nợ công: .................................................................37

3.1.3.

Rủi ro nợ công .....................................................................................38

3.2.

Đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam ..................................40

3.2.1.

Phân tích cây nhị phân của Manasse và Roubini (2005) .....................40

3.2.2.


Khung phân tích của WB và IMF về tính bền vững của nợ ................43

3.2.3.

Mô hình nợ bền vững Jaime de Pines ..................................................46

CHƢƠNG 4: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................58
4.1.

Khung phân tích ...................................................................................58

4.2.

Mô hình kinh tế lƣợng .........................................................................60

4.3.

Dữ liệu .................................................................................................64

CHƢƠNG 5: KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ..............................................................67
5.1.

Thống kê mô tả dữ liệu ........................................................................67

5.2.

Kiểm định đa cộng tuyến .....................................................................72

5.3.


Kiểm định hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi phần dƣ ...........................72

5.4.

Kiểm định hiện tƣợng tự tƣơng quan phần dƣ ....................................73

5.5.

Phân tích kết quả hồi quy.....................................................................74

5.6.

Hạn chế của mô hình và hƣớng nghiên cứu tiếp theo .........................79

CHƢƠNG 6: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ............................................80


6.1.

Kết luận:...............................................................................................80

6.2.

Khuyến nghị chính sách.......................................................................81

TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................83
PHỤ LỤC 1: KIỂM ĐỊNH VIF ................................................................................87
PHỤ LỤC 2: KIỂM ĐỊNH PHƢƠNG SAI THAY ĐỔI ..........................................87
PHỤ LỤC 3: KIỂM ĐỊNH TỰ TƢƠNG QUAN PHẦN DƢ ..................................89
PHỤ LỤC 4: KẾT QUẢ HỒI QUY .........................................................................91



DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
Chữ
viết tắt

Tên đầy đủ tiếng Việt

Tên đầy đủ tiếng Anh

ADB

Ngân hàng phát triển châu Á

Asian Development Bank

DSF

Khung phân tích bền vững nợ

Debt Sustainability Framework

FDI

Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

Foreign Direct Investment

FEM


Mô hình tác động cố định

Fixed Effects Model

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

Gross Domestic Product

GMM

Phƣơng pháp Mô-men tổng quát

General Method of Moments

GNP

Tổng sản phẩm quốc gia

Gross National Product

GSO

Tổng cục thống kê

General Statistic Office

IMF


Quỹ tiền tệ quốc tế

Iternational Monetary Fund

MoF

Bộ Tài Chính

Ministry of Finance

ODA

Vốn hỗ trợ phát triển chính thức

Official Development Assistance

OLS

Phƣơng pháp bình phƣơng nhỏ nhất Ordinary Least Squares

SNA

Hệ thống tài khoản quốc gia

System of National Accounts

WB

Ngân hàng thế giới


World Bank

WDI

Các chỉ số phát triển thế giới

World Development Indicators

WEO

Báo cáo triển vọng kinh tế toàn cầu

World Economic Outlook

WLS

Bình phƣơng tối thiểu có trọng số

Weighted Least Square


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về ngƣỡng nợ trên thế giới.
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu nợ nƣớc ngoài của Việt Nam và các nƣớc đang phát triển
Bảng 3.2: Nợ công Việt Nam
Bảng 3.3: Phân loại nợ công theo nguồn, 2010-2014 (tỉ đồng)
Bảng 3.4: Tăng trƣởng và chỉ số ICOR của các quốc gia trong từng thời kỳ
Bảng 3.5: Các chỉ số nợ của Việt Nam, 2015
Bảng 3.6: Ngƣỡng an toàn nợ theo DSF
Bảng 3.7: Nợ, xuất khẩu, nhập khẩu và lãi suất

Bảng 3.8: Mô phỏng các kịch bản nợ
Bảng 3.9: Mô phỏng các kịch bản nợ
Bảng 4.1: Kỳ vọng dấu của các biến
Bảng 4.2: Nguồn dữ liệu cho các biến
Bảng 5.1: Thống kê mô tả dữ liệu
Bảng 5.2: Ma trận hệ số tƣơng quan giữa các biến
Bàng 5.3: Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phƣơng sai
Bảng 5.4:Kết quả kiểm tra phƣơng sai thay đổi mô hình
Bảng 5.5: Kết quả kiểm tra tự tƣơng quan mô hình
Bảng 5.6: Bảng kết quả hồi quy mô hình tăng trƣởng – nợ công


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Các thành phần của khu vực công theo định nghĩa của IMF
Hình 2.2: Đƣờng cong Laffer về nợ
Hình 3.1: Tỷ lệ tổng nợ công/GDP của các nƣớc (%)
Hình 3.2: ICOR của Việt Nam qua các năm
Hình 3.3: Cơ cấu kỳ hạn trái phiếu chính phủ bằng nội tệ chƣa đáo hạn
Hình 3.4: Mô hình cây nhị phân
Hình 3.5: Trục tọa độ Jaime De Pinies
Hình 3.6: Mô phỏng các kịch bản nợ
Hình 4.1: Khung phân tích
Hình 5.1: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam qua các năm (1990-2015)
Hình 5.2: Kim ngạch xuất khẩu và GDP Việt Nam qua các năm (1990-2015)
Hình 5.3: Đầu tƣ chính phủ và đầu tƣ tƣ nhân qua các năm (1990-2015)
Hình 5.4: FDI và ODA qua các năm (1990-2015)
Hình 5.5: Sai số ƣớc lƣợng OLS mô hình (1) cho nơ ̣ công tuyế n tinh
Hình 5.6: Sai số ƣớc lƣợng WLS mô hin
̀ h (1) cho nơ ̣ công tuyế n tinh
Hình 5.7: Sai số ƣớc lƣợng OLS mô hin

̀ h (2) nơ ̣ công phi tuyến
Hình 5.8: Sai số ƣớc lƣợng WLS mô hình (2) nơ ̣ công phi tuyến


1

CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1.

Đặt vấn đề

Để tài trợ cho đầu tƣ và chi tiêu công, các chính phủ có thể gia tăng vay mƣợn hoặc
đánh thuế cao hơn cho sản lƣợng đầu ra của nền kinh tế. Tuy nhiên, đánh thuế cao
sẽ bóp méo cấu trúc giá cả, tạo ra các vấn đề vốn giữa các thế hệ, và thậm chí nó có
thể gây ra sự chuyển dịch nguồn lực vốn đầu tƣ ra khỏi quốc gia. Do đó, các chính
phủ thƣờng phải vay mƣợn nợ để tài trợ cho thâm hụt ngân sách..
Nợ công hiện đang đóng một vai trò rất lớn trong phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở
hạ tầng, chi đầu tƣ phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, với sự thâm hụt ngân sách kéo
dài, vay nợ liên tục qua phát hành trái phiếu chính phủ trên thị trƣờng nội địa, và
vay mƣợn nợ ƣu đãi từ nƣớc ngoài đã dẫn đến tỷ lệ nợ trên GDP tăng nhanh. Trong
4 năm từ 2010 đến 2014, nợ công của Việt Nam đã tăng gấp đôi từ 889 nghìn tỷ
đồng lên trên 1.8 triệu tỷ đồng (gần 86 tỷ USD chiếm 60.3% GDP)1. Tỷ lệ nợ công
cao và tăng nhanh đã đặt ra các câu hỏi về tính an toàn của nợ công ở Việt Nam.
Ở các quốc gia đang phát triển, nợ nội địa ít đƣợc quan tâm so với nợ nƣớc ngoài.
Phát hành nợ nội địa sẽ giúp quốc gia tránh đƣợc những cú sốc không mong muốn
từ khu vực kinh tế bên ngoài, và loại bỏ rủi ro tỷ giá. Tuy nhiên, nợ nội địa có thể
tạo hiệu ứng chèn lấn đầu tƣ tƣ nhân. Khi chính phủ vay mƣợn trong thị trƣờng nội
địa, họ sử dụng khoản tiết kiệm tƣ nhân cho các hoạt động đầu tƣ, phúc lợi. Số vốn
còn lại trên thị trƣờng cho vay sẽ sụt giảm làm gia tăng chi phí tiếp cận nguồn vốn
đối với những ngƣời đi vay tƣ nhân. Điều này làm giảm dần nhu cầu đầu tƣ tƣ nhân,

vì vậy tích lũy vốn cũng nhƣ tăng trƣởng kinh tế bị suy giảm. Nhƣ vậy nợ nội địa
đƣợc đánh giá là có chi phí đắt đỏ so với những khoản vay ƣu đãi của thị trƣờng
vốn bên ngoài, điều này có thể khiến cho nợ nƣớc ngoài gia tăng nhanh chóng và nó
cũng tiềm tàng nhiều rủi ro cho nền kinh tế.

1

Bản tin nợ công số 4, Bộ Tài chính MoF (2016)


2

Ở Việt Nam, nợ nƣớc ngoài có khuynh hƣớng gia tăng nhanh trong những năm gần
đây cũng tiềm tàng nguy cơ khủng hoảng nợ. Nợ sẽ trở nên kém an toàn nếu lãi suất
thế giới tăng tƣơng đối so với lãi suất trong nƣớc, hoặc khi đồng tiền trong nƣớc bị
phá giá hay lạm phát trong nƣớc cao tƣơng đối so với thế giới.
Một thách thức đối với Việt Nam hiện nay là làm sao để duy trì đƣợc tăng trƣởng
cao và bền vững. Cuộc khủng hoảng 2008 đã cho thấy Việt Nam dễ bị tổn thƣơng
hơn trƣớc những biến động của thị trƣờng thế giới khi nền kinh tế Việt Nam ngày
càng hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. Đặc biệt, quá trình này cũng làm bộc lộ rõ
hơn những điểm yếu cố hữu của nền kinh tế Việt Nam, đó là mô hình tăng trƣởng
phụ thuộc nhiều vào đầu tƣ công, tín dụng và yếu tố vốn, lao động. Việc vay nợ của
Việt Nam thời gian qua cũng không ngoài mục đích hỗ trợ cho đầu tƣ để kích thích
tăng trƣởng. Tuy nhiên, việc vay nợ ở Việt nam có thực sự thúc đẩy tăng trƣởng
kinh tế hay chỉ làm gia tăng gánh nặng trả nợ là một câu hỏi cần xem xét.
Đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm trƣớc đây xem xét mối quan hệ giữa nợ công
và tăng trƣởng kinh tế. Tuy nhiên kết quả của các nghiên cứu là không đồng nhất.
Nhiều nghiên cứu cho thấy nợ có tác động tiêu cực đến tăng trƣởng Cunningham
(1993), Siddiqui và Malik (2001), Alfredo Schclanek (2004), Safia & Shabbir
(2009), Andrea F Presbitero (2010), Vanlalramsanga (2012). Một số khác lại cho

thấy nợ có tác động tích cực đến tăng trƣởng Singh (1999), Muhammad Ayyoub
(2012. Gần đây, nhiều nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy mối quan hệ phi
tuyến giữa nợ và tăng trƣởng kinh tế Chowdhury (2001), Pattilo (2002), Carmen M.
Reinhart và Kenneth S. Rogoff (2010), Natia Kutivadze (2011), Checherita và
Rother (2012), Hemantha Kumara, N.S.Cooray (2013).
Tại Việt Nam cũng có một số nghiên cứu phân tích mối quan hệ giữa nợ và tăng
trƣởng. Nguyễn Hoàng Bảo và Đoàn Kim Thành (2009) đã cho thấy tác động tuyến
tính tiêu cực của nợ với tăng trƣởng. Sử Đình Thành (2012) phân tích mối quan hệ
tuyến tính và tìm ra ngƣỡng nợ công cho Việt Nam là 75.8% GDP. Có thể thấy các
nghiên cứu trƣớc đây tại Việt Nam dựa trên nhiều cách tiếp cận khác nhau và kết


3

quả thu đƣợc cũng không thống nhất. Do đó, nghiên cứu này một lần nữa nhằm xem
xét mối quan hệ giữa nợ công với tăng trƣởng kinh tế ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng
đồng thời đánh giá tính bền vững nợ công trong giai đoạn hiện nay và đƣa ra một số
kịch bản nợ có thể xảy ra trong các năm tới.

1.2.

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu này nhằm xem xét tính bền vững của nợ công Việt Nam đồng thời tìm
hiểu mối quan hệ giữa quy mô nợ công và tốc độ tăng trƣởng kinh tế ở Việt Nam.
Nghiên cứu này cũng trình bày một cách khái quát về thực trạng, rủi ro nợ công và
các tác động của nợ công đến nền kinh tế. Từ đó đƣa ra những gợi ý và để xuất
nhằm tăng hiệu quả sử dụng nợ cũng nhƣ nâng cao tính bền vững của nợ công Việt
Nam.


1.3.

Câu hỏi nghiên cứu

Nợ công Việt Nam có bền vững hay không? Mức nợ công hiện nay có an toàn hay
không, liệu có nguy cơ nào cho một khủng hoảng nợ trong tƣơng lai?
Trong bối cảnh Việt Nam, có tồn tại mối quan hệ giữa quy mô nợ công và tăng
trƣởng kinh tế không? Nếu có thì mối quan hệ này diễn ra nhƣ thế nào?

1.4.

Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu này đƣợc tiến hành cho Việt Nam trong giai đoạn 1990-2015. Đối
tƣợng nghiên cứu là nợ công và tăng trƣởng kinh tế của Việt Nam.

1.5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Nghiên cứu sử dụng nhiều khung phân tích và mô hình khác nhau để đánh giá tính
bền vững của nợ công bao gồm khung phân tích nợ bền vững theo quan điểm của
Ngân hàng Thế Giới (WB) và Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF) năm 2006, cây nhị phân
của Manasse và Roubini (2005), và mô hình hệ phƣơng trình đồng thời dạng tĩnh
lƣợc của Jaim de Pines (1989).


4

Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy có trọng số (weighted least squares

regression) để đánh giá mối quan hệ giữa nợ công và tăng trƣởng kinh tế trong
trƣờng hợp của Việt Nam. Bên cạnh nợ công, các biến vĩ mô khác cũng đƣa vào
xem xét trong một tổng thể các yếu tố có thể ảnh hƣởng đến tăng trƣởng kinh tế.

1.6.

Cấu trúc luận văn

Nghiên cứu bao gồm 6 chƣơng. Chƣơng 1 giới thiệu tổng quan về đề tài nghiên
cứu. Chƣơng 2 trình bày các khái niệm và lý thuyết liên quan đến nợ công và tăng
trƣởng kinh tế cũng nhƣ kết quả nghiên cứu về tác động của quy mô nợ công đến
tốc độ tăng trƣởng kinh tế của các tác giả trên thế giới. Chƣơng 3 trình bày thực
trạng và đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam. Chƣơng 4 trình bày phƣơng
pháp nghiên cứu. Chƣơng 5 phân tích và thảo luận kết quả nghiên cứu. Chƣơng 6
đƣa ra kết luận và gợi ý chính sách.


5

CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Chƣơng này của nghiên cứu nhằm mục tiêu hệ thống hóa các lý thuyết về nợ công
và tăng trƣởng, đồng thời trình bày tổng quan các lý thuyết và bằng chứng thực
nghiệm về sự tác động của nợ công đến tăng trƣởng kinh tế.

2.1.

Nợ công

Nợ công là nợ của khu vực công. Nợ công phát sinh do chi tiêu của các cấp chính
quyền lớn hơn các khoản thu nên phải vay nợ đề bù đắp những chênh lệch. Do đó,

quy mô thâm hụt của nợ công thƣờng đúng bằng quy mô của thâm hụt ngân sách
tích lũy qua các năm. Phần này sẽ trình bày khái niệm, các cách phân loại và rủi ro
của nợ công.
2.1.1. Khái niệm nợ công
Nợ công có thể hiểu một cách đơn giản là nợ của khu vực công. Cần phải phân biệt
giữa nợ công và nợ quốc gia. Nợ quốc gia là nợ của các đối tƣợng mang quốc tịch
của một quốc gia, bao gồm cả nợ của khu vực công và nợ khu vực tƣ nhân không
đƣợc bảo lãnh. Hiện nay có khá nhiều cách định nghĩa khác nhau về nợ công.
Theo cách tiếp cận của World Bank (2002), nợ công đƣợc định nghĩa là tổng tất cả
các khoản nợ trong nƣớc và nƣớc ngoài của khu vực công bao gồm chính phủ trung
ƣơng và các bộ; các bang, tỉnh thành hoặc các cấp chính quyền địa phƣơng tƣơng
đƣơng; các cơ quan nhà nƣớc tự điều hành nhƣ doanh nghiệp nhà nƣớc hoặc các
doanh nghiệp liên doanh với tƣ nhân mà nhà nƣớc sở hữu phần lớn; các nghĩa vụ nợ
của các tổ chức công cộng nằm ngoài chính quyền trung ƣơng bất kể có sự bảo đảm
hay không bảo đảm của chính phủ.
Theo IMF (2010), nợ công là nghĩa vụ trả nợ của khu vực công. Kèm theo là định
nghĩa chi tiết về khu vực công, bao gồm chính phủ và các tổ chức công


6

Khu vực
công

Khu vực
chính phủ

chính phủ
Trung ƣơng


Khu vực các tổ
chức công

Các tổ chức công
phi tài chính

Các tổ chức công
tài chính

Chính quyền
Liên bang

Ngân hàng
Trung ƣơng

Chính quyền
Địa phƣơng

Các tổ chức nhà
nƣớc nhận tiền gửi
(trừ NHTW)

Các tổ chức tài
chính công khác
Hình 2.1: Các thành phần của khu vực công theo định nghĩa của IMF
Nguồn: IMF (2013), Public Sector Debt Statistics. Guide for Compilers and Users2
Ở Việt Nam, theo Luật quản lý nợ công, số 29/2009/QH123 của Quốc hội ban hành
vào năm 2009, nợ công bao gồm: (a) Nợ chính phủ; (b) nợ đƣợc chính phủ bảo lãnh
và (c) nợ chính quyền địa phƣơng. Trong đó:
- Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nƣớc, nƣớc

ngoài, đƣợc ký kết, phát hành nhân danh Nhà nƣớc, nhân danh chính phủ

2

(trang 8)

3

/>

7

hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát
hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do
Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ.
- Nợ đƣợc chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nƣớc, nƣớc ngoài đƣợc chính phủ bảo lãnh.
- Nợ chính quyền địa phƣơng là khoản nợ do Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ƣơng (gọi chung là UBND cấp tỉnh) ký kết, phát
hành hoặc ủy quyền phát hành.
Quan điểm về nợ công của mỗi quốc gia cũng không hoàn toàn giống nhau. Tuy
nhiên, có thể nhận thấy rằng khái niệm về nợ công của Việt Nam là hẹp hơn so với
định nghĩa của các tổ chức tài chính khác trên thế giới - khái niệm nợ công của Việt
Nam không bao gồm nợ của các doanh nghiệp nhà nƣớc. Ở các nƣớc phát triển khu
vực doanh nghiệp nhà nƣớc chiếm một tỉ trọng rất nhỏ nên về cơ bản, nợ công và
nợ chính phủ là tƣơng đƣơng nhau. Tuy nhiên, ở Việt Nam khu vực doanh nghiệp
nhà nƣớc chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế, nên khái niệm về nợ công của Việt
Nam hiện nay chỉ tƣơng đƣơng với khái niệm nợ chính phủ.
2.1.2. Phân loại nợ công

Có nhiều tiêu chí phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có ý nghĩa khác nhau trong việc
quản lý và sử dụng nợ công.
Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý. Nợ công phân loại theo tiêu chí này bao gồm: nợ
trong nƣớc và nợ nƣớc ngoài.
 Nợ trong nƣớc là nợ đƣợc vay từ các cá nhân, tổ chức Việt Nam.
 Nợ nƣớc ngoài là nợ công mà bên cho vay là chính phủ nƣớc ngoài, vùng
lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức và cá nhân nƣớc ngoài.
Theo đó, nợ công còn đƣợc phân loại theo đồng tiền cho vay, nợ công bằng nội tệ
hay nợ công bằng ngoại tệ. Phân loại nợ công theo nguồn gốc địa lý có ý nghĩa


8

trong việc quản lý nợ, xác định chính xác tình hình cán cân thanh toán quốc tế và
đảm bảo an ninh tiền tệ.
Theo tiêu chí thời hạn. Nợ công có thời hạn vay dƣới 1 năm là nợ ngắn hạn, dƣới 10
năm là nợ trung hạn và trên 10 năm là nợ dài hạn.
Theo tiêu chí phương thức huy động. Theo phƣơng thức huy động vốn thì nợ công
đƣợc phân thành hai loại là nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và nợ công từ công cụ
nợ.
 Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa
thuận vay trực tiếp của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức
cho vay.
 Nợ công từ công cụ nợ là khoản nợ công nảy sinh thông qua việc các cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền phát hành công cụ nợ để vay vốn.
Theo trách nhiệm đối với chủ nợ. Theo trách nhiệm đối với chủ nợ thì nợ công đƣợc
phân loại thành nợ công phải trả và nợ công bảo lãnh.
 Nợ công phải trả là các khoản nợ mà chính phủ, chính quyền địa phƣơng có
nghĩa vụ trả nợ.
 Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh cho

ngƣời vay nợ, nếu bên vay không trả đƣợc nợ thì chính phủ sẽ có nghĩa vụ
trả nợ.
Theo tính chất ưu đãi của khoản vay. Nợ công đƣợc phân loại theo cách này có ba
loại là nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ƣu đãi và nợ thƣơng mại thông
thƣờng.
 Vay ODA là khoản vay dựa trên tƣ cách Nhà nƣớc và chính phủ Việt Nam từ
nhà tài trợ có thể là chính phủ nƣớc ngoài, tổ chức tài trợ song phƣơng, tỏ
chức liên quốc gia hoặc liên chính phủ có khoản không hoàn lại (thành tố ƣu


9

đãi) ít nhất là 35% (đối với khoản vay có ràng buộc) hoặc 25% (đối với các
khoản vay không ràng buộc).
 Vay ƣu đãi là khoản vay có điều kiện vay ƣu đãi hơn so với vay thƣơng mại
nhƣng thành tố ƣu đãi chƣa đạt tiêu chuẩn của vay ODA.
 Vay thƣơng mại là khoản vay theo điều kiện thị trƣờng thông qua phát hành
trái phiếu trên các thị trƣờng tài chính.
2.1.3. Rủi ro của nợ công
Trong nghiên cứu về khả năng xảy ra khủng hoảng nợ của các nƣớc trên thế giới,
Manasse và Roubini (2005) đã trình bày ba rủi ro cơ bản của nợ công chính là: (a)
rủi ro thanh toán; (b) rủi ro thanh khoản; (c) rủi ro bất ổn các yếu tố vĩ mô.
Rủi ro thanh toán xảy ra khi một quốc gia không có khả năng chi trả các khoản nợ
của nó. Khi rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách và thâm hụt thƣơng mại, một
quốc gia này phải vay nợ để bù đắp các khoản thâm hụt của mình. Rủi ro thanh toán
có xảy ra hay không phụ thuộc vào tổng nợ của nền kinh tế trong mối tƣơng quan
với khả năng trả nợ của nó. Khả năng trả nợ của một nền kinh tế có thể đƣợc đo
lƣờng bởi: thu nhập của nền kinh tế, kim ngạch xuất khẩu hoặc nguồn thu của chính
phủ. Một khoản nợ đƣợc xem là có khả năng thanh toán khi mà giá trị chiết khấu
của cán cân ngân sách trong tƣơng lai là lớn hơn hoặc bằng với giá trị hiện tại ròng

của tổng nợ công. Tƣơng tự nhƣ vậy, đối với các khoản nợ công nƣớc ngoài, do vay
mƣợn bằng ngoại tệ nên phải thực hiện chi trả bằng ngoại tệ. Nguồn ngoại tệ đƣợc
thu chủ yếu thông qua giá trị xuất khẩu ròng của nền kinh tế. Do đó, một quốc gia
có khả năng thanh toán là quốc gia có giá trị chiết khấu của cán cân thƣơng mại
trong tƣơng lai lớn hơn hoặc bằng với giá trị hiện tại của tổng nợ nƣớc ngoài. Để có
thể tránh đƣợc rủi ro thanh toán, tại một số thời điểm ngân sách và thƣơng mại cần
phải thặng dƣ để có thể bù đắp đƣợc khoản nợ phải trả trong tƣơng lai.
Rủi ro thanh khoản là khả năng thanh khoản hay khả năng trả nợ nhanh của chính
phủ. Khả năng thanh toán không đủ để đảm bảo sự an toàn của một quốc gia vay nợ
mà cần phải có cả khả năng thanh khoản. Khả năng thanh khoản có thể đƣợc đo


10

lƣờng thông qua tỉ lệ nợ ngắn hạn trên dự trữ ngoại hối. Rủi ro thanh khoản gắn với
các khoản nợ ngắn hạn, tức là tiền chƣa xài kịp đã đến hạn phải trả và rủi ro này
thƣờng đến từ các khoản nợ nƣớc ngoài vì đối với các khoản nợ trong nƣớc chính
phủ có thể dễ dàng trả nợ bằng cách tăng cung tiền và chấp nhận lạm phát. Theo
Manasse và Roubini (2005), rủi ro thanh khoản có nhiều khả năng xảy ra khi tỉ lệ nợ
ngắn hạn trên dự trữ ngoại hối vƣợt quá 130%.
Bên cạnh đó, những bất ổn từ các yếu tố kinh tế vĩ mô có thể ảnh hƣởng xấu đến nợ
công. Các yếu tố vĩ mô này bao gồm tăng trƣởng, thu ngân sách chính phủ, lạm phát
và tỉ giá. Tăng trưởng kinh tế là một trong những mục tiêu hàng đầu của các quốc
gia đang phát triển ngoài ra nó còn là điều kiện để các quốc gia này có thể tiếp cận
với các nguồn tài chính từ các thị trƣờng vốn quốc tế. Để đƣợc vay nợ, các quốc gia
này phải duy trì một tốc độ phát triển kinh tế tích cực. Nếu mức tăng trƣởng kinh tế
quá thấp hoặc âm, các quốc gia này sẽ rất khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài
chính mới. Nguồn thu ngân sách nhà nước có ảnh hƣởng trực tiếp đến khả năng chi
trả nợ. Khi nguồn thu ngân sách tăng lên sẽ làm giảm thâm hụt ngân sách từ đó làm
giảm gánh nặng nợ công của nền kinh tế. Lạm phát cao cùng các cú sốc tỷ giá sẽ

làm giảm giá trị của đồng nội tệ làm cho dƣ nợ nƣớc ngoài tăng lên và do đó sẽ tăng
cao khả năng vỡ nợ. Bên cạnh đó việc định giá đồng nội tệ quá cao sẽ làm giảm
xuất khẩu, tăng nhập khẩu gây ra thâm hụt thƣơng mại và vì thế làm gia tăng gánh
nặng nợ công nƣớc ngoài.
2.1.4. Tính bền vững của nợ công
Theo IMF (2011), nợ đƣợc xem là bền vững khi ngƣời đi vay đƣợc kỳ vọng là có
khả năng tiếp tục trả nợ mà không cần phải thực hiện các khoản điều chính lớn và
phi thực tế trong cán cân thu nhập - chi tiêu. Tính bền vững của nợ do đó đƣợc thể
hiện thông qua khả năng thanh toán, khả năng thanh khoản và khả năng điều chỉnh
một cách giới hạn trong chi tiêu và doanh thu và do đó quyết định mức sẵn lòng trả
của một quốc gia. Có thể thấy việc đánh giá tính bền vững theo định nghĩa của IMF
không hề dễ dàng và có phần khá mơ hồ. Hiện tại vẫn chƣa có một cơ sở thống nhất


11

để có thể đo lƣờng khả năng thanh toán, khả năng thanh khoản và khả năng điều
chỉnh thu chi từ đó đánh giá đƣợc tính bền vững của nợ của một quốc gia. Hơn nữa,
tính bền vững và an toàn của nợ không chỉ phụ thuộc vào hiện tại của quốc gia vay
nợ mà còn chịu ảnh hƣởng bởi những biến động kinh tế toàn cầu. Chi phí tài trợ
luôn thay đổi theo thời gian và khó dự đoán trƣớc. Đặc biệt, nó có thể tăng lên khi
bùng phát nợ và có thể tạo ra một vòng luẩn quẩn. Kết quả là một khoản nợ có thể
bền vững trong hôm nay nhƣng có thể ngày mai không bền vững và ngƣợc lại.
Nhƣ vậy, có thể thấy vấn đề về nợ công và tính bền vững của nợ công đã đƣợc thảo
luận từ rất lâu, nhƣng đến thời điểm hiện nay, chƣa có một khái niệm về tính bền
vững của nợ công đƣợc xác định rõ ràng. Mặc dù, các nhà nghiên cứu có thể thống
nhất ý kiến về tính trạng nợ công tuyệt đối bền vững và tuyệt đối không bền vững,
song rất khó để đƣa ra chính xác khi nào ngƣỡng bền vững bị phá vỡ. Điều này
không có nghĩa là không có phƣơng pháp đánh giá tính bền vững nợ công một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong chƣơng 3 của nghiên cứu này sẽ trình bày một số

cách tiếp cận để đánh giá tính bền vững của nợ và áp dụng để phân tích cụ thể cho
trƣờng hợp của Việt Nam.

2.2.

Tăng trƣởng kinh tế

Tăng trƣởng kinh tế là một trong những mục tiêu hàng đầu của nhiều quốc gia. Có
tăng trƣởng kinh tế mới có thể tạo tiền đề cho sự phát triển của đất nƣớc, nâng cao
mức sống của ngƣời dân. Phần này sẽ trình bày khái niệm về tăng trƣởng kinh tế và
các mô hình về tăng trƣởng.
2.2.1. Khái niệm tăng trƣởng kinh tế
Tăng trƣởng kinh tế là sự tăng lên về số lƣợng, quy mô sản lƣợng của nền kinh tế
trong một thời kỳ nhất định. Tăng trƣởng kinh tế có thể đƣợc biểu thị bằng số tuyệt
đối hay số tƣơng đối - là tỷ lệ phần trăm tăng thêm của quy mô sản lƣởng nền kinh
tế trong một thời kỳ nhất định.


12

Quy mô nền kinh tế thƣờng đƣợc đo lƣờng dựa trên các chỉ số Tổng sản phẩm trong
nƣớc (GDP) và Tổng sản phẩm quốc gia (GNP). Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): là
tổng giá trị tính bằng tiền của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ mà một nƣớc sản xuất ra
trên lãnh thổ của nƣớc đó trong một thời gian nhất định (thƣờng là một năm). Tổng
sản phẩm quốc dân (GNP): là tổng giá trị tính bằng tiền của những hàng hoá và dịch
vụ mà một nƣớc sản xuất ra từ các yếu tố sản xuất của mình trongmột thời kỳ nhất
định (thƣờng là một năm). Ngoài ra, trong kinh tế, tăng trƣởng có thể đo bằng các
chỉ tiêu ít phổ biến hơn nhƣ: Sản phẩm quốc dân ròng (NNP - Net National
Product), Sản phẩm quốc nội ròng (NDP - Net Domestic Product), Thu nhập quốc
dân (Y - National Income), Thu nhập khả dụng (YD - Dispossible Income). Trong

các chỉ tiêu kể trên thì GDP là chỉ số quan trọng và đƣợc sử dụng phổ biến nhất.
Ngoài giá trị tổng thu nhập nhƣ kể trên, xem xét tăng trƣởng còn có thể dựa trên thu
nhập bình quân trên đầu ngƣời. Để tính giá trị thu nhập bình quân trên đầu ngƣời ta
lấy giá trị tổng chia cho dân số của quốc gia đó. Chỉ số tổng sản phẩm bình quân
đầu ngƣời (PCI) của một quốc gia hay vùng lãnh thổ tại một thời điểm nhất định
đƣợc tính toán bằng cách lấy GDP của quốc gia hay vùng lãnh thổ đó chia cho dân
số của chính nó.
Tốc độ tăng trƣởng kinh tế (g): Là phần trăm chênh lệch giữa quy mô GDP của một
nền kinh tế ở hiện tại với quy mô GDP ở thời kỳ trƣớc đó.
g=
Trong đó:

Yt − Yt−1
× 100%
Yt−1

Yt là quy mô GDP của nền kinh tế vào năm t
Yt−1 là quy mô của nền kinh tế năm t − 1
g là tốc độ tăng trƣởng kinh tế

2.2.2. Các mô hình tăng trƣởng
Các nhà kinh tế cổ điển là những ngƣời đã đƣa ra những mô hình tăng trƣởng đầu
tiên. Mô hình tăng trƣởng truyền thống tiêu biểu là Ricardo cho rằng lao động, vốn,


13

đất đai sản xuất nông nghiệp là nguồn gốc của tăng trƣởng kinh tế. Trong đó đất đai
sản xuất đƣợc xem là nhân tố quan trọng và là giới hạn của tăng trƣởng. Trƣờng
phái cổ điển đề cao vai trò tự điều chỉnh của thị trƣờng với lý thuyết Bàn tay vô

hình của Adam Smith và cho rằng không nên có sự can thiệp của chính phủ vào nền
kinh tế. Lý thuyết này đã thống trị một thời gian dài cho tới khi cuộc đại khủng
hoảng 1929-1933 diễn ra, thực tế cho thấy thị trƣờng dƣờng nhƣ không thể điều tiết
đƣợc chính nó. Trong bối cảnh đó, lý thuyết của Keynes ra đời, đề cao và nhấn
mạnh vai trò điều tiết của nhà nƣớc đối với nền kinh tế thông qua các chính sách gia
tăng tiêu dùng và kích thích đầu tƣ. Lý thuyết trọng cầu của Keynes lần đầu tiên
khẳng định chính nhu cầu (cầu đầu tƣ và cầu tiêu dùng), chứ không phải cung, là
nhân tố quan trọng quyết định sản lƣợng, và do đó quyết định tăng trƣởng.
Phát triển tƣ tƣởng của Keynes, vào những năm 40 của thế kỷ 20, hai nhà kinh tế là
Harrod (1939) ngƣời Anh và Domar (1946) ngƣời Mỹ đã đƣa ra mô hình xem xét
mối quan hệ tăng trƣởng mà ngày nay thƣờng đƣợc biết đến với tên mô hình
Harrod-Domar. Mô hình này giúp phân loại mối quan hệ kinh tế giữa thu nhập, tiết
kiệm, đầu tƣ, và sản lƣợng cần thiết đế duy trì tăng trƣởng ồn định, cũng nhƣ toàn
dụng lao động trong nền kinh tế tƣ bán phát triển.
Ƣu điểm của mô hình Harrod Domar chính là tính đơn giản của nó khi không đòi
hỏi nhiều dữ liệu, dễ dàng sử dụng và ƣớc lƣợng. Nhiều nhà kinh tế cũng sử dụng
mô hình này nhằm xác định ti lệ tiết kiệm và đầu tƣ cần thiết để nền kinh tế tƣ bản
chù nghĩa có thể đạt đƣợc trình độ để tự duy trì tăng trƣớng. Tuy nhiên, trong khi
mô hình truyền thống quá đề cao vai trò của yếu tố tài nguyên, đất đai thì mô hình
Harrod Domar lại quá đề cao vai trò của đầu tƣ và tiết kiệm. Một hạn chế quan
trọng khác là mô hình bắt nguồn từ giả định cứng nhắc về các tỷ số vốn trên lao
động, vốn trên sản lƣợng, và lao động trên sản lƣợng là những tỷ số cố định, cho
thấy nền kinh tế có rất ít linh hoạt theo thời gian. Giả định này có thể chính xác một
cách hợp lý trong ngắn hạn nhƣng không bao giờ chính xác trong những quãng thời
gian dài khi nền kinh tế tiến hóa và phát triển.


14

Đƣợc phát triển dựa trên mô hình Harrod-Domar, mô hình tăng trƣởng "hai sự thiếu

hụt" của Chenery & Strout (1966) cho rằng khi đề cập đến sự thiếu hụt tiết kiệm khi
tiết kiệm sẵn có thấp hơn mức đầu tƣ cần thiết để có đƣợc tăng trƣởng mong muốn;
sự thiếu hụt thứ hai là thiếu hụt ngoại tệ do chênh lệch giữa kim ngạch xuất nhập
khẩu. Mô hình này đƣợc mở rộng thêm với khoản thiếu hụt thứ ba là thiếu hụt tài
khóa. Thiếu hụt này đƣợc thêm vào vì triển vọng tăng trƣởng ở nhiều nƣớc đang
phát triển từng bị phá vỡ do các vấn đề tài khóa. Quan điểm cùa mô hình hai sự
thiếu hụt và ba sự thiếu hụt cho ràng dòng vốn nƣớc ngoài có thể bổ sung cho
nguồn tiết kiệm trong nƣớc và làm tăng tốc độ tăng trƣởng với điều kiện khả năng
hấp thụ vốn của nền kinh tế trong nƣớc phải đủ lớn (Jansen, 1990). Mặc dù đƣợc áp
dụng rộng rãi, việc lệ thuộc vào dòng vốn nƣớc ngoài khiến cho mô hình hai sự
thiếu hụt vấp phải một số phê phán. Griffin (1970) cho rằng một của dòng vốn nƣớc
ngoài sẽ dành cho tiêu dùng hơn là để đẩu tƣ, từ đó nguồn tiết kiệm trong nƣớc sẽ
giảm và đầu tƣ sẽ tăng ít hơn so với dòng vốn nƣớc ngoài. Dòng vốn nƣớc ngoài có
thể ảnh hƣỏng tiêu cực đến xuất khấu và cân đối ngoại hối. Mô hình cũng bị cho là
cứng nhắc khi không có sự thay thế trong sản xuất giữa các yếu tố làm giảm sự
thiếu hụt vốn hoặc sự tái phân bố của yếu tố sản xuất giữa các ngành (White, 1992).
Năm 1956, nhà kinh tế học MIT Robert Solow4 giới thiệu một mô hình tăng trƣởng
kinh tế mới, là một bƣớc tiến dài kể từ mô hình Harrod Domar. Solow cho rằng có
nhiều vấn đề phát sinh từ hàm sản xuất cứng nhắc trong mô hình Harrod Domar.
Giải pháp của Solow là bỏ hàm sản xuất có hệ số cố định và thay thế nó bằng hàm
sản xuất tân cổ điển cho phép có tính linh hoạt hơn và có sự thay thế giữa các yếu
tố sản xuất. Mô hình tăng trƣởng tân cổ điển của Solow bắt đầu bằng những giả
định tân cổ điển thông thƣờng: đây là thế giới theo qui luật Say5, theo đó tiết kiệm
luôn bằng với đầu tƣ và lực lƣợng lao động bằng với việc làm (nói cách khác,

4
5

Nobel Kinh tế (1987)


Đặt theo tên nhà kinh tế ngƣời Pháp Jean-Baptiste Say (1767-1832), tinh thần của nguyên lý này là “tự bản
thân cung sẽ sinh ra cầu”


15

không có thất nghiệp và không có vấn đề cầu hiệu dụng) vì tiền lƣơng và suất sinh
lợi trên vốn điều chỉnh để cân bằng cung và cầu. Suất sinh lợi theo qui mô đƣợc giả
định không đổi và có suất sinh lợi giảm dần đối với các yếu tố sản xuất (nếu giữ lao
động không đổi và tăng vốn, sản lƣợng trên mỗi đơn vị vốn sẽ giảm). Mô hình đƣợc
xây dựng theo thời gian liên tục và logic. Mô hình này còn có cách gọi khác là mô
hình tăng trƣởng ngoại sinh, bởi vì các nhân tố ảnh hƣởng trực tiếp đến tăng trƣởng
không liên quan đến các nhân tố bên trong. Chỉ các yếu tố bên ngoài, đó là công
nghệ và tốc độ tăng trƣởng lao động mới thay đổi đƣợc tốc độ tăng trƣởng kinh tế ở
trạng thái bền vững. Mô hình này chứng minh rằng trong dài hạn nền kinh tế có xu
hƣớng tiến đến trạng thái cân bằng với mức tăng trƣởng liên tục và đều.
Dựa vào lý thuyết của Keynes, chính phủ các nƣớc đã có nhiều can thiệp hơn để hạn
chế mức độ lạm phát và thất nghiệp, làm tăng mức sản lƣợng tiềm năng. Nhƣng sau
một thời gian áp dụng lý thuyết này các nƣớc có xu hƣớng nhấn mạnh vai trò của
chính phủ, do đó lại hạn chế mức độ tự điều chỉnh của thị trƣờng và xuất hiện
những trở ngại lớn cho quá trình tăng trƣởng và phát triển. Nhà kinh tế học
Samuelson6 với tác phẩm nổi tiếng “Kinh tế học” ra đời vào năm 1948 đã đƣa ra
thuyết “Cái vòng luẩn quẩn” và “Cú huých từ bên ngoài”. Lý thuyết này cũng cùng
quan điểm với trƣờng phái tân cổ điển cho rằng có 4 nhân tố ảnh hƣởng và là nguồn
gốc của tăng trƣởng kinh tế: nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật. Tuy nhiên ở các
nƣớc đang phát triển các nhân tố này đều khan hiếm nên gặp trở ngại lớn trong việc
kết hợp giữa chúng, dẫn tới “cái vòng luẩn quẩn” của sự nghèo khổ. Để tăng trƣởng
và phát triển kinh tế, cần có “cú huých” từ bên ngoài để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn
ấy. Điều này nghĩa là phải có đầu tƣ từ nƣớc ngoài vào các nƣớc đang phát triển.
Muốn vậy các nƣớc nghèo phải tạo điều kiện thuận lợi bằng các chính sách kinh tế

và sử dụng các công cụ tài chính nhằm kích thích sự tích cực đầu tƣ tƣ bản nƣớc
ngoài qua đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Một hình thức khác của cú huých là nợ của

6

Nobel Kinh tế (1970)


16

chính phủ. Khi nguồn lực trong nƣớc khai thác không đủ, cần phải vay từ nƣớc
ngoài. Tuy nhiên, việc vay nợ cũng tiềm ẩn những rủi ro. Nếu vay quá mức và kiểm
soát đầu ra của nợ kém hiệu quả sẽ gây nhiều hậu quả lâu dài và khó khắc phục.
Có thể thấy các mô hình tăng trƣởng từ Solow trở về trƣớc chỉ quan tâm đến các
yếu tố bên ngoài, thực tế nhiều thập kỷ gần đây vai trò quan trọng của đổi mới cải
tiến công nghệ, vốn nhân lực trong tăng trƣởng kinh tế đã hình thành nền tảng cho
các lý thuyết mới về sự tăng trƣởng nội sinh. Các mô hình này về cơ bản cũng dựa
vào lý thuyết kinh tế tân cổ điển. Tuy nhiên, trong mô hình tăng trƣởng nội sinh,
nhân tố thúc đẩy tăng trƣởng dài hạn đƣợc nội sinh hoá. Nói cách khác nhân tố này
đƣợc hình thành ngay trong quá trình tăng trƣởng do đó dẫn tới sự tăng trƣởng liên
tục của các nền kinh tế. Theo Barro (1991), sai biệt tăng trƣởng giữa các nƣớc đƣợc
giải thích rất nhiều bới sự chênh lệch không chỉ về hiệu quả đầu tƣ mà còn là sự
chênh lệch về tri thức và vốn nhân lực. Trong những năm 1980, để khắc phục
những hạn chế cùa việc sử dụng hàm sán xuất đến giải thích sự tăng trƣờng kinh tế,
nhiều nghiên cứu đã tiến hành chuyển đổi một số biến ngoại sinh thành biến nội
sinh. Các mô hình cùa Romer (1990), Lucas (1988) và Becker & cộng sự (1990)
cho thấy vốn con ngƣời tích lũy có suất sinh lợi không giảm, hàm ý rằng việc tích
lũy nguồn vốn con ngƣời có thể tác động đến tăng trƣởng kinh tế. Tƣơng tự, Romo
Rucas và Scost (1980s) cho rằng kết hợp giữa tri thức và tƣ bản nhân lực, coi tiến
bộ kỹ thuật là nhân tố quyết định đối với tăng trƣởng kinh tế, mậu dịch quốc tế và

tiền tệ quốc tế là động cơ của tăng trƣởng kinh tế. Các yếu tố này kết hợp với nhau
sẽ thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế phát triển.
Mặc dù không phải là một yếu tố bên ngoài có ảnh hƣởng thƣờng xuyên hoặc mang
tính quyết định nhƣng các cuộc khủng hoảng trên một phạm vi rộng luôn gây ra
những tác động nhất định đến các quốc gia. Khủng hoảng tài chính, khủng hoảng
kinh tế toàn cầu hoặc châu lục có ảnh hƣởng đến tăng trƣởng của hầu hết các nền
kinh tế. Sự ảnh hƣởng của khủng hoảng đến các nền kinh tế là khác nhau, phụ thuộc
vào mức độ hội nhập của nền kinh tế đó với nền kinh tế toàn cầu. Lịch sử cho thấy


×