ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRẦN THỊ PHƯƠNG ANH
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ
(QUA HAI TẬP NHIỆT ĐỚI GIÓ MÙA VÀ LÀN GIÓ CHẢY QUA)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRẦN THỊ PHƯƠNG ANH
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ
TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ
(QUA HAI TẬP NHIỆT ĐỚI GIÓ MÙA VÀ LÀN GIÓ CHẢY QUA)
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LƯU KHÁNH THƠ
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: "Nghệ thuật tự sự trong truyện
ngắn Lê Minh Khuê (qua hai tập Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua)" là công
trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Lưu
Khánh Thơ. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong luận văn này là trung thực và
chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả luận văn
Trần Thị Phương Anh
i
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn, em đã nhận được sự quan
tâm, giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau Đại học, Ban
giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Đặc biệt, với tất cả tấm lòng kính
trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Lưu Khánh Thơ - người
đã hết lòng tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh
Bắc Kạn; Các thầy cô trong Ban Giám hiệu và các đồng nghiệp trường THPT Phủ
Thông đã giúp đỡ nhiệt tình, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu đề tài này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân yêu đã luôn bên em, động
viên, khích lệ em trong những ngày học tập ở trường.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 02 tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn
Trần Thị Phương Anh
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 9
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................................ 9
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 10
6. Đóng góp của đề tài ................................................................................................ 10
7. Cấu trúc ................................................................................................................... 11
NỘI DUNG ................................................................................................................ 12
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NGẮN SAU 1975 VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ ............................................................... 12
1.1.
Vài nét về truyện ngắn ..................................................................................... 12
1.1.1. Khái niệm ......................................................................................................... 12
1.1.2. Đặc trưng ......................................................................................................... 12
1.2.
Vài nét về nghệ thuật tự sự .............................................................................. 15
1.2.1. Khái niệm ......................................................................................................... 15
1.2.2. Đặc điểm .......................................................................................................... 16
1.2.3. Các yếu tố của nghệ thuật tự sự ....................................................................... 17
1.3.
Khái quát về truyện ngắn sau 1975 .................................................................. 20
1.4.
Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của Lê Minh Khuê .................................. 24
1.4.1. Tác giả Lê Minh Khuê ..................................................................................... 24
1.4.2. Hành trình sáng tác của Lê Minh Khuê ........................................................... 26
1.4.3. Tác phẩm "Nhiệt đới gió mùa" và "Làn gió chảy qua" ................................... 27
Tiểu kết Chương 1 ...................................................................................................... 28
Chương 2. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CỐT TRUYỆN VÀ XÂY DỰNG
NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ ...................... 29
2.1.
Nghệ thuật tổ chức cốt truyện .......................................................................... 29
2.1.1. Cốt truyện trong truyện ngắn Lê Minh Khuê .................................................. 29
iii
2.1.2. Vai trò và cách tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ............. 37
2.2.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật ......................................................................... 44
2.2.1. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê....................................... 44
2.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ................... 53
Tiểu kết Chương 2 ...................................................................................................... 59
Chương 3. NGƯỜI KỂ CHUYỆN, NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG
TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ .......................................................................60
3.1.
Người kể chuyện trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ........................................ 60
3.1.1. Người kể chuyện ngôi thứ nhất........................................................................ 60
3.1.2. Người kể chuyện ngôi thứ ba ........................................................................... 64
3.1.3. Người kể chuyện ngôi đan cài ngôi kể ............................................................ 69
3.2.
Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ................................... 71
3.2.1. Ngôn ngữ giàu tính đối thoại, triết lý............................................................... 71
3.2.2. Ngôn ngữ mang màu sắc khẩu ngữ.................................................................. 74
3.2.3. Ngôn ngữ trong sáng, giàu chất thơ ................................................................. 76
3.3.
Giọng điệu trong truyện ngắn Lê Minh Khuê ................................................. 78
3.3.1. Giọng suy tư, triết lý, chiêm nghiệm ............................................................... 79
3.3.2. Giọng trữ tình, lãng mạn, ngợi ca .................................................................... 81
3.3.3. Giọng mỉa mai, phê phán, hóm hỉnh ................................................................ 84
Tiểu kết Chương 3 ...................................................................................................... 90
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 93
PHỤ LỤC
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nếu như trước năm 1975, người đọc biết đến Lê Minh Khuê với những
tác phẩm phản ánh sinh động hiện thực cuộc sống và chiến đấu của thế hệ trẻ trong
những năm kháng chiến chống Mỹ hào hùng thì sau năm 1975, người đọc bị hấp dẫn
bởi mảng sáng tác viết về mọi ngóc ngách của xã hội Việt Nam thời hậu chiến với
những vấn đề thời sự nóng bỏng không chỉ bằng cái nhìn đa chiều, tỉnh táo, sắc lạnh;
bằng bút lực mạnh mẽ, dồi dào mà còn bằng cả tâm hồn rộng mở, yêu thương và tươi
mới của nữ nhà văn. Bà được đánh giá là nhà văn có phong cách độc đáo, có sức viết
bền bỉ với nguồn cảm hứng dạt dào trước những vấn đề của đất nước cũng như của số
phận con người ở những giai đoạn lịch sử khác nhau - trong chiến trận cũng như khi
hòa bình. Sáng tác của Lê Minh Khuê đã góp phần đổi mới diện mạo văn xuôi Việt
Nam hiện đại, đặc biệt là ở thể loại truyện ngắn.
1.2. Sau các tác phẩm như: Cao điểm mùa hạ, Bi kịch nhỏ, Trong làn gió heo
may… gần đây Lê Minh Khuê tiếp tục trình làng nhiều tác phẩm mới trong đó không
thể không kể đến hai tập truyện ngắn gây tiếng vang lớn: Nhiệt đới gió mùa và Làn
gió chảy qua. Có người cho rằng Nhiệt đới gió mùa khiến người đọc “không yên ổn”
bởi tác phẩm nó chất chứa cái nhìn dữ dội, tàn khốc về những sang chấn trong tâm
hồn những người đi qua chiến tranh. Hay như nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái đã
nhận xét, Lê Minh Khuê có cách giải quyết chiến tranh khiến người đọc rơi nước mắt.
Viết về chiến tranh mà nhà văn cho người đọc thấy ngay trong một gia đình, giữa
những con người chung huyết thống, chiến tuyến rạch đôi tại đây và người ta nhìn
nhau qua con mắt nhuốm màu máu cũng ở đây. Lê Minh Khuê đã thể hiện sự thấu thị
bản chất của chiến tranh, đi xuyên thấu cuộc chiến mà bi kịch để lại trong mỗi gia
đình, mỗi con người - điều mà trước đây rất ít nhà văn đề cập tới. Còn Làn gió chảy
qua được đánh giá là tập truyện ngắn thấm đượm hơi thở thời đại bởi nhà văn đã
dựng lên một không gian truyện ngắn đa sắc, đa chiều và đầy tính nhân văn. Những
truyện ngắn trong hai tuyển tập này khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn trở, chiêm
nghiệm về lẽ sống để từ đó tự thanh lọc tâm hồn.
1.3. Nếu trước đây, tự sự học, nghệ thuật tự sự chủ yếu được được các tác giả
trong và ngoài nước nghiên cứu dưới góc độ lý luận thì nay xu hướng nghiên cứu
nghệ thuật tự sự trong thực tiễn các tác phẩm/chùm tác phẩm cụ thể đang thực sự nở
rộ. Cách tiếp cận này thể hiện xu hướng nghiên cứu mới mẻ, hấp dẫn giúp người đọc,
người nghiên cứu vận dụng các tri thức thi pháp học, tự sự học để chiếm lĩnh, giải mã
các vỉa tầng của tác phẩm (đặc biệt là thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn) dưới một
góc nhìn mới mẻ và thú vị.
1.4. Trong thực tế, số lượng các công trình nghiên cứu về các tác phẩm văn học
cụ thể dưới góc nhìn tự sự học hay các công trình nghiên cứu về nhà văn Lê Minh
Khuê tương đối nhiều - Điều đó đủ nói lên sức hấp dẫn của Lê Minh Khuê cũng như
1
hướng nghiên cứu mới mẻ này. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu chuyên sâu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê được thể
hiện qua hai tác phẩm nói trên. Nhận thấy, hai tập truyện Nhiệt đới gió mùa và Làn gió
chảy qua là sự kết tinh cho bút pháp tự sự của Lê Minh Khuê - bà “trùm truyện ngắn”
trong dòng văn học đương đại. Đồng thời mỗi truyện ngắn trong hai tập truyện nói trên
còn chứa đựng các vỉa tầng ý nghĩa sâu xa về nhiều phương diện lịch sử, văn hóa, đạo
đức… rất cần được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện. Đây là lý do, chúng tôi
lựa chọn vấn đề này làm luận văn nghiên cứu với mong muốn góp thêm một tiếng nói
về nghiên cứu nghệ thuật tự sự theo hướng ứng dụng nói chung từ đó khẳng định nét
đặc sắc trong phong cách truyện ngắn của nhà văn Lê Minh Khuê nói riêng.
Không những thế, Lê Minh Khuê còn là nhà văn có tác phẩm được giảng dạy
trong trường phổ thông nhưng việc tìm hiểu về tác giả này còn chưa tương xứng. Vì
vậy, nghiên cứu về Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê trong hai tác
phẩm trên sẽ giúp một giáo viên dạy văn ở phổ thông như tôi có được những đánh giá
khoa học, khách quan về nhà văn và sự nghiệp của bà trong quá trình giảng dạy.
Đồng thời, qua nghiên cứu, chúng tôi còn muốn khám phá một phong cách truyện
ngắn nữ giàu cá tính trong bức tranh chung của truyện ngắn đương đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về lý thuyết tự sự và nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn
Việt Nam hiện đại
Lý thuyết tự sự học được biết đến như là một khía cạnh của chủ nghĩa hình
thức Nga với những tên tuổi đóng vai trò khai sinh như: V. Shklovski, B.
Eikhenbaum, B. Tomachevski… Nhiều phương diện cơ bản của cấu trúc tự sự ở
phương diện lí thuyết đã được các tác giả đề cập đến như: kết cấu tác phẩm, cốt
truyện, nhân vật hay nghệ thuật tổ chức thời gian…. Nhưng nếu như chủ nghĩa hình
thức Nga được coi là sự mở màn cho lí thuyết tự sự học thì chủ nghĩa cấu trúc với
những tên tuổi như R. Barthes, Tz. Todorov, A. J. Greimas, G. Genette… lại góp
phần hình thành bộ môn tự sự học. Chủ nghĩa cấu trúc đi tìm mô hình cho hình thức
tự sự. Mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là nghiên cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất
ngữ pháp của tự sự. Sau đó, các nhà tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa như M.
Bakhtin, Iu. M. Lotman, B. Uspenski… đã quan tâm đến các phương thức biểu đạt ý
nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở. Hình thức tự sự chính là phương tiện biểu
đạt ý nghĩa của tác phẩm.
Lí thuyết tự sự góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu nghệ thuật tự sự của
các thể loại nói chung và của từng tác phẩm văn học cụ thể nói riêng. Ngoài việc
khám phá giá trị tác phẩm, lý thuyết này còn cho chúng ta thấy được truyền thống
văn học cũng như các giá trị văn hoá của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Đây cũng là
lý do cho thấy tính thời sự và hấp dẫn của hướng nghiên cứu này trong những năm
trở lại đây.
2
Ở Việt Nam, có thể kể đến một số công trình, bài viết nghiên cứu bàn về các
khía cạnh của tự sự học như:
Trong bài viết Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R. Kellogg
[42], tác giả Cao Kim Lan đã giới thiệu về điểm nhìn nghệ thuật và sự chi phối của
điểm nhìn trong truyện kể, vấn đề quyền năng của người kể chuyện với điểm nhìn của
nhân vật, điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn của người đọc…
Trong bài viết Tự sự học - một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng,
Trần Đình Sử đã hệ thống, khái lược những vấn đề tự sự từ chủ nghĩa hình thức Nga,
ngôn ngữ học Saussure, Platon, Aritoste, Tz. Tododov, Genette… Qua đó, ông khẳng
định vai trò quan trọng của tự sự học. Đặc biệt phải kể đến công trình chuyên khảo
tập hợp một loạt bài viết nghiên cứu chuyên sâu về tự sự học do ông làm chủ biên đó
là: Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử [61]. Trong đó, tác giả Phan Thu Hiền
có bài viết Về lí thuyết tự sự của Northrop Frye [61, tr.56 - 70] giới thiệu Northrop
Frye là đại biểu quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc nhất của lí thuyết Phê bình huyền
thoại (mythcritic) còn gọi là lí thuyết Phê bình nguyên mẫu (archetypal critism) với
quan niệm cho rằng mục tiêu của văn chương là đạt đến sự giới thiệu, sự trình bày
cuộc sống. Nguyễn Đức Dân giới thiệu về Greimas trong bài Greimas - Người xây
nền cho trường phái kí hiệu học Pháp [61, tr. 39 - 55] với mô hình vai hành động, cấu
trúc cơ sở của nghĩa, mô hình cấu tạo. Ngoài ra, cuốn sách còn đăng tải một số bài
viết tiêu biểu khác như: Vấn đề phân loại góc nhìn trần thuật của Phương Lựu [48],
Người kể chuyện - nhân vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự [61, tr. 196 208] của Nguyễn Thị Hải Phương, Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong truyện
kể của Đặng Anh Đào [61, tr. 169 - 178]. Qua các bài viết này, các tác giả đã góp
phần làm rõ các khái niệm tự sự học như: Người kể chuyện, điểm nhìn, giọng điệu,
ngôi phát ngôn…
Có thể nói, lí thuyết tự sự có vai trò quan trọng và cần thiết trong việc tiếp cận
tác phẩm văn học, đặc biệt là tác phẩm văn xuôi vì thế nó luôn là vấn đề được các nhà
nghiên cứu quan tâm. Ở Việt Nam, ngoài những tác phẩm dịch thuật, ít có công trình
nghiên cứu sâu về nghệ thuật tự sự từ bình diện lí thuyết. Về cơ bản, hầu hết các
thành phần của nghệ thuật tự sự đều được các học giả nghiên cứu và bước đầu làm rõ
qua những tác phẩm văn học cụ thể như: thời gian và không gian trần thuật, cấu trúc
của văn bản trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, tình huống trần thuật, điểm nhìn, giọng
điệu, ngôi phát ngôn…
Bên cạnh đó, có thể điểm qua một số bài viết và công trình nghiên cứu về nghệ
thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại như:
Công trình Văn học Việt Nam thế kỉ XX - Những vấn đề lịch sử và lí luận [15]
có chương VI đề cập đến “Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam”.
Các tác giả cho rằng giai đoạn 1975 - 2000 là “thời của truyện ngắn”, truyện ngắn
3
thực sự khởi sắc, “các nhà văn đã có công tìm tòi nghệ thuật làm cho thể loại “nhỏ”
có sức chứa”, “có khả năng khái quát hóa nghệ thuật đời sống theo chiều sâu” [15, tr. 261].
Khi nghiên cứu về thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam, các tác giả đã bày tỏ quan
điểm về tình huống truyện, cốt truyện, các kiểu truyện ngắn hiện đại và nghệ thuật kể
chuyện từ góc nhìn tự sự học. Tuy nhiên, những nhận xét vẫn chỉ dừng ở những nhận
định khái quát, điểm xuyết mà chưa đi sâu vào nghiên cứu cấu trúc văn bản truyện kể.
Trong cuốn Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu và giảng
dạy [55] có một số bài viết tiêu biểu bàn về truyện ngắn từ góc độ tự sự học như:
Quan niệm về thể tài truyện ngắn trong văn học Việt Nam sau 1975 [55, tr. 192 202], Nghiên cứu và dạy học truyện ngắn hiện đại [55, tr. 293 - 299]. Đặc biệt, bài
viết Một vài khuynh hướng vận động của điểm nhìn trong văn xuôi Việt Nam sau
1975 [53, tr. 300 - 306] của Nguyễn Văn Hiếu đã tìm hiểu về sự vận động của điểm
nhìn nghệ thuật trong tiến trình của văn xuôi sau 1975. Bài viết đã chỉ ra những
khuynh hướng vận động nổi bật của điểm nhìn như: khuynh hướng cá thể hóa,
khuynh hướng đối thoại, khuynh hướng gián cách. Tuy nhiên, những nhận xét của tác
giả mới chỉ nằm trong khuôn khổ của một bài viết nên sự lí giải chưa thực thấu đáo.
Cuốn Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử, thi pháp, chân dung [16] do Phan Cự
Đệ chủ biên đã tập trung làm rõ lịch sử phát triển của các khuynh hướng và loại hình
truyện ngắn; đặc trưng của thể loại truyện ngắn hiện đại, truyện ngắn trong mối quan
hệ với các thể loại khác. Các tác giả đã lí giải về đặc trưng thi pháp của truyện ngắn
hiện đại như: kết cấu và cốt truyện, khoảnh khắc và tình huống; các kiểu của truyện
ngắn hiện đại... Từ những vấn đề lí luận đó, các tác giả đã tiến hành nghiên cứu và
định hình phong cách truyện ngắn của các thế hệ nhà văn từ Nguyễn Công Hoan,
Thạch Lam, Nam Cao… đến các nhà văn kháng chiến như: Anh Đức, Nguyễn Thi,
Nguyễn Quang Sáng… và sau 1975 như: Lê Minh Khuê, Nguyễn Huy Thiệp…
Bài viết Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu - một thành công đáng chú ý của văn
xuôi sau 1975 của Nguyễn Thị Bình đăng trong cuốn Tự sự học, những vấn đề lịch sử
và lí luận [61, tr. 351 - 367] do Trần Đình Sử chủ biên đã đề cập đến hai khía cạnh
trong sự chuyển động mạnh mẽ của văn xuôi sau 1975 là ngôn ngữ và giọng điệu.
Qua khảo sát, tác giả bài viết đã định dạng những phong cách ngôn ngữ mới qua các
gương mặt nhà văn tiêu biểu như: Nguyễn Huy Thiệp, Lê Lựu, Nguyễn Khắc
Trường, Tạ Duy Anh, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Lê Lựu, Chu Lai, Phạm Hải Vân, Nguyễn
Việt Hà… Tuy nhiên, sự phân tích, lí giải trên cũng chỉ nằm trong phạm vi của một
bài viết nên chưa được chứng minh một cách sâu sắc.
Ngoài các bài viết, các công trình chuyên khảo, chúng tôi còn hệ thống được
khá nhiều luận văn, luận án bàn về vấn đề này như:
4
Luận án Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Điểm
nhìn và ngôn ngữ kể chuyện) [76] của Nguyễn Thị Thu Thủy đã tiến hành nghiên cứu
hai phương diện là phương thức kể và thoại dẫn. Luận án đã xây dựng được cơ sở lí
thuyết về điểm nhìn, đưa ra một khái niệm điểm nhìn cụ thể và khái quát cho nhiều
góc độ, chỉ ra được các nhân tố, các tính chất của điểm nhìn mà các công trình trước
đây chưa đề cập một cách có hệ thống.
Văn xuôi Việt Nam thời kì hậu chiến (1975 - 1985) là luận án của tác giả của
Ngô Thu Thuỷ [75]. Luận án đã góp phần khẳng định mối quan hệ giữa văn học và
đời sống xã hội, đồng thời cung cấp cái nhìn hệ thống về văn xuôi giai đoạn này trong
bước chuyển của lịch sử văn học. Tác giả đã phát hiện, lí giải những rạn nứt, những
dấu hiệu mới trong khuôn khổ đề tài cũ và những cảm hứng mới, đồng thời cũng chỉ
ra những đổi mới về nghệ thuật của văn xuôi hậu chiến và khẳng định vị trí của giai
đoạn 1975-1985 trong quá trình chuyển đổi tư duy văn học Việt Nam sau 1975. Tuy
nhiên, đặc trưng của thể loại truyện ngắn chưa được tác giả làm rõ.
Luận án Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện
ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng) của Nguyễn Thị Bích
[6] là công trình nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn
Việt Nam sau 1975 của nhóm tác giả đã có vị trí và đóng góp to lớn trong nền văn
học Việt Nam hiện - đương đại. Trên cơ sở nghiên cứu đó, tác giả khẳng định sự đổi
mới và những thành công về tổ chức tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của ba nhà văn
“gạo cội” - tiêu biểu cho thế hệ những nhà văn mở đường của nền văn học Việt Nam
từ sau 1975.
Cùng hướng khai thác trên, tác giả Nguyễn Thị Huệ đã mô tả và lí giải sự
chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người qua bốn tác tác giả
nêu trên đồng thời nhận diện một số dấu hiệu vận động của thể loại và sự chuyển động
của ngôn ngữ trong luận án Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi Việt Nam 1980 đến
1986 qua bốn tác giả: Nguyễn Minh Châu - Nguyễn Khải - Ma Văn Kháng - Nguyễn
Mạnh Tuấn [34]. Tuy nhiên, công trình này chỉ nghiên cứu các sáng tác văn xuôi trong
giai đoạn 1980 - 1986. Tác giả thiên về mô tả, lí giải sự vận động của thể loại và những
tín hiệu đổi mới mà không nghiên cứu các tác phẩm từ góc nhìn tự sự học.
Trong luận án Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ góc độ thể loại)
[77], Lê Thị Hương Thuỷ đã góp phần làm sáng rõ một số vấn đề thuộc về lí luận thể
loại, về những đặc điểm khu biệt và sự tương tác thể loại qua việc khảo sát truyện
ngắn sau 1986, đánh giá một phương diện của văn học sử qua việc tìm hiểu thể loại
truyện ngắn trong đời sống văn học đương đại.
Bên cạnh đó còn có khá nhiều luận văn thạc sĩ cũng bàn về vấn đề này như:
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Bùi Ngọc Tấn; Nghệ thuật tự sự trong truyện
ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ; Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
trước Cách mạng tháng Tám năm 1945; Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Bảo
5
Ninh; Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Tô Hoài; Một số vấn đề về đổi mới thi pháp
thể loại trong truyện ngắn Việt Nam đương đại,…
Trên đây là những bài viết, những công trình nghiên cứu tập trung đi sâu vào
những phương diện của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam đương đại như:
cách xây dựng nhân vật, giọng điệu, điểm nhìn, ngôn ngữ, kết cấu và cốt truyện,
khoảnh khắc và tình huống, thời gian và không gian trần thuật… Tuy nhiên, các công
trình này chủ yếu thiên về lí luận. Các công trình ứng dụng lí thuyết tự sự để nghiên
cứu về nhóm tác giả cùng thế hệ từ đó nhận diện điểm chung trong cách viết của các
nhà văn và điểm riêng trong phong cách của từng tác giả; so sánh phong cách sáng
tác của các thế hệ nhà văn Việt Nam hiện đại và đương đại vẫn còn hạn chế và rất cần
được khỏa lấp.
2.2. Lịch sử nghiên cứu về truyện ngắn Lê Minh Khuê
Trong dòng văn học đương đại Việt Nam, được đánh giá là một nữ văn sĩ tài
năng, bản lĩnh, thường xuyên tìm tòi đổi mới nghệ thuật trên nhiều phương diện và là
một nhà văn đầy tâm huyết có duyên với thể loại truyện ngắn, nên những công trình,
bài viết nghiên cứu về Lê Minh Khuê và các tác phẩm truyện ngắn của bà tương đối
nhiều, đặc biệt trong khoảng chục năm trở lại đây. Nhận định khái quát về đặc điểm
cũng như đóng góp của ngòi bút Lê Minh Khuê trong dòng văn học đương đại có thể
điểm qua các ý kiến sau:
Giáo sư Hà Minh Đức trong bài viết: Những tác giả nữ trong nền văn xuôi
chống Mĩ đã nhận xét: “Lê Minh Khuê là một cây bút trẻ xông xáo trong những năm
chống Mĩ. Chị đã có ý thức chuyển nhanh sang thời kỳ mới và tỏ ra khá nhạy bén
trong cách cảm nhận nghệ thuật của mình”.
Bùi Việt Thắng cho rằng "Lê Minh Khuê là một nhà văn chuyên tâm và trung
thành với truyện ngắn và đã thành công trong thể loại này... Mỗi truyện ngắn của chị viết
đều thức dậy ở người đọc một khao khát hướng thiện" [70, tr. 8].
Lê Thị Đức Hạnh trong bài báo Lê Minh Khuê - cây bút truyện ngắn sung sức
[26] đánh giá đây là “một cây bút nữ có nhiều đóng góp về truyện ngắn. Từ hồn
nhiên, trong trẻo đến sắc sảo, nghiêm ngặt, chị luôn có một chất giọng riêng… cốt
truyện hấp dẫn, nhiều chi tiết sắc nhọn, cách diễn đạt linh hoạt, đầy hình ảnh, màu
sắc, âm thanh,...” [26, tr. 5]. Tuy nhiên, tác giả chưa thực sự đi sâu phân tích các yếu
tố này.
Lời cuối cuốn sách Lê Minh Khuê truyện ngắn chọn lọc [65], Hồ Anh Thái
cũng nhận xét: "Lê Minh Khuê rất có ý thức nói bằng giọng của mình - tiết chế, đôi
khi như chủng chẳng, khô khan, nhưng đầy hàm ý..." [65, tr.439]. Trong bài viết khác
có nhan đề Lê Minh Khuê - người đàn bà viễn thị, Hồ Anh Thái còn đưa ra cảm nhận
về sự thay đổi phong cách truyện ngắn của Lê Minh Khuê: Những tác phẩm viết dưới
thời kỳ chống Mỹ mang “cái náo nức quên mình trong trẻo… hồn nhiên đến lạ kỳ
trong những ước mơ”. Nhưng sau này, cái náo nức đó dần nhường chỗ cho “nỗi day
trở thường xuyên của lương tâm trước sự sa sút của nhân tính, của lòng vị tha trước
6
sự gia tăng của cái ác, cái đạo đức giả. Người ta lắng thấy trong những tác phẩm dữ
dội đó nỗi chua xót, nỗi đau, nỗi tiếc thương những giá trị bị xói mòn, đang dần mất.
Lắng kỹ hơn thì nghe được cả những ước ao không cất thành lời.
Nhà phê bình Nguyễn Thị Minh Thái trong vai trò diễn giả buổi ra mắt Nhiệt
đới gió mùa đánh giá rằng Lê Minh Khuê đã đưa ra một cách giải thích về chiến tranh
khiến người đọc rơi nước mắt và cho rằng Lê Minh Khuê là một trong số ít những
nhà văn Việt Nam viết về chiến tranh với một tấm lòng bao dung và nhìn thấu bản
chất của nó. Bà còn khẳng định nữ văn sĩ là người đàn bà thấu thị, luôn nhìn cuộc
sống, chiến tranh bằng cặp mắt xuyên thấu, bên trong âm ỉ một tấm lòng nồng nhiệt.
Các ý kiến đánh giá trên đã phần nào khẳng định những đóng góp đa dạng của
nhà văn Lê Minh Khuê (chủ yếu ở thể loại truyện ngắn). Nhiều người khẳng định đây
là một cây bút có “sức bền”, từ hồn nhiên, trong sáng đến sắc sảo, nghiêm nhặt…
luôn có một chất giọng riêng… đi vào một số mặt trong đời sống, chú ý nhiều đến
đạo đức, nhân sinh, nhân tình thế thái… Việc đổi mới bút pháp trong những năm gần
đây của nữ nhà văn là dấu hiệu đáng mừng bởi nó chứng tỏ Lê Minh Khuê là một cây
bút đang sung sức.
Ngoài ra, còn có khá nhiều công trình nghiên cứu về phong cách cũng như các
khía cạnh trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê như:
Luận văn Phong cách truyện ngắn Lê Minh Khuê [81] của Hoàng Thị Hải
Yến, đã tiến hành tìm hiểu bút pháp của hầu hết truyện ngắn Lê Minh Khuê qua các
phương diện: các kiểu lựa chọn đề tài, đặc trưng nhân vật và kết cấu, ngôn ngữ,
giọng điệu. Từ đó, tác giả luận văn đã tiếp cận, lý giải truyện ngắn Lê Minh Khuê từ
góc nhìn lý luận về phong cách nghệ thuật, nêu bật được những đóng góp nghệ thuật
truyện ngắn của nữ nhà văn đối với sự phát triển của văn học hiện đại Việt Nam. Các
vấn đề quan niệm nghệ thuật và quá trình sáng tác của nhà văn cũng được tác giả đề
cập tới ở một mức độ nhất định.
Luận văn Thế giới nghệ thuật truyện ngắn Lê Minh Khuê [28] đã tiến hành khảo
sát toàn bộ truyện ngắn của Lê Minh Khuê từ đó nghiên cứu và làm rõ thế giới nghệ
thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê như: bức tranh cuộc sống, thế giới nhân vật,
các phương diện nghệ thuật đặc sắc khác. Còn trong luận văn Nghệ thuật trần thuật
trong truyện ngắn Lê Minh Khuê [80], tác giả Phan Thị Thanh Vân lại tập trung làm rõ
các phương diện cơ bản như: phương thức trần thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trần
thuật nhằm làm nổi bật tài năng của cây bút dẻo dai và sung sức này. Tác giả luận văn
còn chỉ ra sự thay đổi về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Lê Minh Khuê trước
và sau Đổi mới 1986.
Luận văn Giọng điệu truyện ngắn Lê Minh Khuê đã khảo sát các truyện ngắn
của Lê Minh Khuê từ năm 1978 đến 2008 từ đó tìm hiểu và làm rõ các yếu tố chi
phối sự hình thành và giọng điệu chủ đạo trong truyện truyện ngắn Lê Minh Khuê.
7
Tác giả cũng chỉ ra sự khác biệt về giọng điệu của văn học đương đại so với văn học
giai đoạn trước.
Trên cơ sở tiến hành khảo sát 10 tập truyện ngắn đã xuất bản tính đến 2014,
luận văn Hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn Lê Minh Khuê [41] đã nghiên
cứu một cách khá hệ thống về hình tượng nhân vật nữ trong truyện ngắn Lê Minh
Khuê từ quan niệm nghệ thuật về con người đến phương thức thể hiện. Đồng thời, tác
giả cũng chỉ ra sự nối tiếp về thành tựu và phong cách của các tác giả nữ trong văn
học Việt Nam đương đại.
Trung Thị Hồng Biên trong luận văn Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lê
Minh Khuê sau năm 1975 [5] cũng đã tập trung tìm hiểu một cách tương đối hệ thống
từ phương diện nội dung và nghệ thuật từ đó làm sáng tỏ cái nhìn mới mẻ và đầy đủ
hơn về con người cũng như hiện thực cuộc sống thông qua cách thức xây dựng thế
giới nhân vật đa dạng và độc đáo của nhà văn Lê Minh Khuê.
Tác giả Nguyễn Thị Thanh trong luận văn Xu hướng “nhạt hóa” trong truyện
ngắn Lê Minh Khuê [66] đã ứng dụng những khía cạnh lý thuyết từ công trình triết
học Bàn về cái Nhạt của Francois Jullien (do Trương Thị An Na chuyển ngữ) để tìm
hiểu hành trình truyện ngắn Lê Minh Khuê qua các tác phẩm từ Cao điểm mùa hạ
(1978) đến Nhiệt đới gió mùa (2012). Luận văn thể hiện cái nhìn mới mẻ về giá trị
của tác phẩm văn chương Lê Minh Khuê dưới lăng kính triết học.
Trên cơ sở khảo sát 6 tập truyện ngắn của Lê Minh Khuê, Phạm Thị Nhung đã
làm rõ ý thức đối thoại của truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 với tư cách là
phương diện để truyền tải quan niệm sáng tác. Kết quả nghiên cứu này được thể hiện
trong luận văn Ý thức đối thoại trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 [52].
Nhìn từ góc độ lý thuyết thi pháp học, luận văn Truyện ngắn Lê Minh Khuê
nhìn từ thi pháp thể loại [32] của Cao Thị Hồng đã đưa nhận định: “Nhân vật trong
truyện ngắn của Lê Minh Khuê (đặc biệt là loại hình nhân vật tha hóa) không hiện lên
như những lược đồ khô cứng, công thức, những tính cách bất biến mà chúng được rọi
chiếu ở những ánh sáng khác nhau, những môi trường, hoàn cảnh khác nhau, bởi thế
chân dung và số phận của những con người này hiện lên chân thực, sống động và
thực sự đã mang lại những ám ảnh, những ấn tượng thẩm mĩ riêng đối với người đọc”
[32, tr. 79]. Tác giả cũng đã luận giải khá kỹ về nguyên tắc xây dựng loại nhân vật
tha hóa trong truyện ngắn Lê Minh Khuê nhưng tư liệu khảo sát mới chỉ dừng lại ở
những tác phẩm xuất bản cho đến thời điểm năm 2002 .
Nghiên cứu sâu về tập Nhiệt đới gió mùa, tác giả Trần Thị Thu Phương trong
luận văn Đặc điểm tập truyện ngắn Nhiệt đới gió mùa (Lê Minh Khuê) [59] đã nghiên
cứu phương diện nhân vật, cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật sử dụng ngôn từ của 12
truyện ngắn trong tập truyện Nhiệt đới gió mùa được ấn hành năm 2012. Tuy nhiên, tác
giả mới chỉ bàn đến hai khía cạnh trên mà chưa đề cập đến các phương diện khác làm
nên nghệ thuật tự sự đặc sắc của tác phẩm.
8
Ngoài ra, có thể kể đến một số luận văn và các bài viết khác cũng nghiên cứu
về truyện ngắn của Lê Minh Khuê như: Truyện ngắn Lê Minh Khuê của Mai Thị
Thúy Ninh; Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê của Đinh Lưu Hoàng
Thái; Cảm hứng thế sự trong sáng tác của Lê Minh Khuê sau 1975…
Như vậy, các công trình nói trên đã khẳng định vị trí của Lê Minh Khuê với
tư cách một nữ nhà văn thành công ở thể loại truyện ngắn. Bà sáng tác ở cả giai
đoạn trước và sau Đổi mới. Mỗi giai đoạn sáng tác, nữ nhà văn đều thể hiện một
bản lĩnh sáng tác nhất quán và vững vàng đó là nhìn thằng vào sự thật, coi hiện thực
như một phương tiện để chuyển tải quan điểm nghệ thuật của mình. Đặc biệt, Lê
Minh Khuê đã thể hiện sự đổi mới về bút pháp để thích ứng với thời cuộc. Sáng tác
trước và sau 1986 thể hiện rõ sự vận động và thay đổi đó.
Các truyện ngắn của Lê Minh Khuê bước đầu đã được nghiên cứu ở các khía
cạnh như: thi tháp, thể loại, thế giới nhân vật, lời văn, giọng điệu, cảm hứng, người
kể chuyện… Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về
nghệ thuật tự sự trong hai tác phẩm đánh dấu sự đổi mới phong cách truyện ngắn sau
đổi mới của Lê Minh Khuê là Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua. Do vậy, luận
văn của chúng tôi được thực hiện để thể hiện sự kế thừa và tiếp nối mạch nghiên cứu
đầy hấp dẫn về nhà văn tài năng này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật tự sự trong
truyện ngắn Lê Minh Khuê qua hai tập truyện ngắn tiêu biểu (Nhiệt đới gió mùa, Làn
gió chảy qua) ở các phương diện: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng
nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu khảo sát hai tập truyện của nhà văn Lê Minh Khuê, đó là:
- Tập truyện ngắn: Nhiệt đới gió mùa, Nxb Hội Nhà Văn, 2012.
- Tập truyện ngắn: Làn gió chảy qua, Nxb Trẻ, 2016.
Ngoài ra, luận văn còn khảo sát và so sánh với một số tác phẩm khác của nhà
văn Lê Minh Khuê và các tác giả khác.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát hai tập truyện ngắn Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua, luận
văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ đặc điểm nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn
Minh Khuê một cách hệ thống về các phương diện: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện,
nghệ thuật xây dựng nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật,…
Qua đó góp phần làm sáng rõ những điểm độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật tự sự trong
truyện ngắn Lê Minh Khuê trong dòng chảy văn học đương đại Việt Nam.
9
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các cơ sở lý luận, thực tiễn có liên quan đến đề tài: các khái
niệm liên quan đến nghệ thuật tự sự, các nét chính về nhà văn Lê Minh Khuê và hai
tập truyện ngắn: Nhiệt đới gió mùa và Làn gió chảy qua.
- Khảo sát, làm rõ nghệ thuật tự sự trong hai tác phẩm trên ở các phương diện:
Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, người kể chuyện, ngôn
ngữ và giọng điệu trần thuật.
- Chỉ ra, so sánh và chứng minh những điểm độc đáo, đặc sắc của nghệ thuật
tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê trước và sau Đổi mới từ đó khẳng định, tôn
vinh vị thế của nhà văn trong dòng chảy văn học đương đại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi chủ yếu sử dụng những phương pháp sau:
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
Phương pháp này được luận văn sử dụng để khảo sát và thống kê tất cả các
truyện ngắn trong hai tập truyện từ đó tiến hành phân loại các ngữ liệu theo các khía
cạnh của vấn đề nghiên cứu như: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện, nghệ thuật xây dựng
nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật.
5.2. Phương pháp hệ thống - loại hình
Phương pháp hệ thống - loại hình được sử dụng để khái quát và hệ thống hóa
các dữ liệu nghiên cứu gắn với đặc trưng của thể loại truyện ngắn đương đại. Ngoài
ra, phương pháp này còn được luận văn sử dụng để đặt các truyện ngắn của Lê Minh
Khuê trong sự vận động phát triển của thể loại truyện ngắn Việt Nam đương đại.
5.3. Phương pháp phân tích- tổng hợp
Phương pháp này được sử dụng để phân tích các ngữ liệu, các dẫn chứng làm
rõ vấn đề đặt ra trong đề tài từ đó đưa ra những khái quát trên cơ sở phân tích ngữ
liệu cụ thể.
5.4. Phương pháp so sánh - đối chiếu
Phương pháp so sánh - đối chiếu được luận văn sử dụng để so sánh các khía
cạnh của vấn đề nghiên cứu trong các truyện ngắn của nhà văn Lê Minh Khuê cũng
như so sánh với tác phẩm của một số tác giả khác. Từ đó chỉ ra sự đổi mới và sáng
tạo về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Lê Minh Khuê trong dòng chảy văn học
Việt Nam đương đại.
6. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở khảo sát hai tập truyện ngắn tiêu biểu Nhiệt đới gió mùa và Làn gió
chảy qua, luận văn tiến hành chỉ ra một cách hệ thống và phân tích những đặc điểm
độc đáo, đặc sắc về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của nhà văn Lê Minh Khuê.
Từ đó, luận văn góp phần khẳng định diện mạo, vai trò, vị trí của Lê Minh Khuê
trong sự vận động của thể loại truyện ngắn trong nền văn học Việt Nam đương đại.
10
7. Cấu trúc
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về truyện ngắn sau 1975 và hành trình sáng tác của Lê
Minh Khuê.
Chương 2: Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và xây dựng nhân vật trong truyện
ngắn Lê Minh Khuê.
Chương 3: Người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu trong trong truyện ngắn
Lê Minh Khuê.
11
NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN NGẮN SAU 1975
VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA LÊ MINH KHUÊ
1.1. Vài nét về truyện ngắn
1.1.1. Khái niệm
So với tiểu thuyết, những tài liệu lý thuyết bàn về truyện ngắn không nhiều và
tương đối thống nhất. Theo các nhà nghiên cứu, khái niệm và thể loại truyện ngắn chỉ
được xác lập trong nền văn học hiện đại vào khoảng cuối thế kỉ XIX… Theo cách
hiểu phổ biến, truyện ngắn là một truyện kể có dung lượng ngắn, cốt truyện thường
tập trung vào một biến cố gọn và đơn giản, diễn ra trong một phạm vi không gian và
thời gian nhỏ với một số ít nhân vật.
Theo Lại Nguyên Ân: “Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường được
viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội.
Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với việc
người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một mạch không nghỉ” [24, tr.1846 - 1847].
Từ điển thuật ngữ văn học thì cho rằng: “Khác với tiểu thuyết, là thể loại
chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường
hướng đến việc khắc họa một hình tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ
nhân sinh hay đời sống tâm hồn con người” [29, tr.371].
Do có chung tính chất là tự sự, ranh giới giữa truyện ngắn và tiểu thuyết đôi
khi chỉ mang tính chất tương đối. Được sinh ra từ những câu chuyện kể hằng ngày rất
đỗi dung dị, tự nhiên, truyện ngắn hình thành và phát triển vượt bậc với sức mạnh dẻo
dai phi thường qua sự sáng tạo của nhiều thế hệ nhà văn. Đến nay truyện ngắn đã
khẳng định vị trí của mình trong hệ thống thể loại tự sự của văn học thế giới cũng như
văn học Việt Nam.
1.1.2. Đặc trưng
Hệ thống hóa từ các tài liệu bàn về truyện ngắn trong và ngoài nước, chúng tôi
tổng hợp và chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của truyện ngắn như sau:
* Dung lượng nhỏ (Tính chất ngắn gọn, cô đúc)
Xét trong tương quan với các thể loại tự sự khác, truyện ngắn nổi bật lên ở
dung lượng “nhỏ” hay tính chất ngắn gọn, cô đúc. Dung lượng phổ biến của một
truyện ngắn thường từ 3 đến 50 trang. Những cách gọi này tương ứng với các khái
niệm đoản thiên tiểu thuyết (truyện ngắn), trung thiên tiểu thuyết (truyện vừa), trường
thiên tiểu thuyết (truyện dài) vốn phổ biến ở Việt Nam vào thời kỳ đầu của văn xuôi
tự sự hiện đại.
Tuy vậy, tính chất của truyện ngắn không chỉ nằm ở dung lượng nhỏ mà quan
trọng hơn là những quy luật cấu tạo đặc thù của truyện ngắn. Dung lượng “nhỏ” vừa
12
là khối lượng câu chữ vừa là nội dung phản ánh của truyện ngắn, đồng thời còn là
quy tắc sáng tạo của nhà văn. Đọc một truyện ngắn, độc giả phải khám phá được một
vấn đề về cuộc sống nào đó, được bồi đắp thêm những xúc cảm đẹp đẽ cho tâm hồn.
Các tác giả truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện
một nét đặc trưng, bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn. Về
tác động, do tính chất cô đúc, truyện ngắn thường có sự cô đọng và sức truyền tải
mạnh mẽ.
Theo nhận định của các nhà lý luận nước ngoài thì việc xác định chính xác
ranh giới giữa truyện ngắn và truyện dài là một vấn đề phức tạp. Hiện nay, định nghĩa
truyện ngắn được nhiều người quan niệm dùng cho các tác phẩm không dài quá
20,000 từ và không ngắn hơn 1000 từ. Như vậy, chúng ta có thể thấy đây là thể tài
không bị quy định nghiêm ngặt về khối lượng chữ viết. Truyện ngắn vẫn có độ co
giản hợp lý, tùy theo nội dung tác giả chuyển tải sẽ có hình thức phù hợp.
* Nhất quán ở các phương thức biểu hiện
Nếu như tiểu thuyết mang tính tổng hợp thì truyện ngắn bộc lộ rõ nhất khuynh
hướng khắc họa “tính chất đơn nhất… về mặt chọn tình thế… giọng điệu… nhân
vật…” [69,tr.379]. Bàn về vấn đề này, tác giả Huỳnh Như Phương trong cuốn Trường
phái hình thức Nga và văn xuôi tự sự, Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội,
trang 73 đã viết: “Có thể so sánh việc đọc tiểu thuyết với một cuộc đi dạo xuyên qua
những địa điểm khác nhau và giả định có một lần âm thầm quay lại; còn đọc truyện
ngắn thì giống như leo lên một ngọn đồi để thưởng lãm toàn cảnh thiên nhiên từ một
độ cao”.
Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn
và toàn vẹn của nó, truyện ngắn có xu hướng đi sâu vào mô tả một hiện tượng, phát
hiện một nét đặc trưng cốt lỗi trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con
người. Vì thế, trong truyện ngắn, nhân vật có vai trò hết sức quan trọng, là trụ cột của
sáng tác, là nơi gửi gắm quan niệm nhân sinh đối với thế giới với con người của nhà
văn. Truyện ngắn cũng thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Nhân vật trong
truyện ngắn được xây dựng như là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức
xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người.
Cùng với nhân vật, cốt truyện được coi là thành phần không kém phần quan
trọng, cốt yếu và có vai trò đặc biệt quan trọng trong truyện ngắn. Cốt truyện có chức
năng bộc lộ các mâu thuẫn quan trọng trong đời sống nên nhà văn có thể khai thác nó
từ các sự kiện có thật trong đời sống, từ các tác phẩm văn học, từ kinh nghiệm sống
của bản thân hoặc tưởng tượng...
Khác với tiểu thuyết, truyện ngắn đặc biệt quan tâm đến khoảnh khắc trong
cuộc đời nhân vật. Do đó, nhà văn phải tìm ra được một tình huống truyện - tức thời
điểm một sự việc, một sự kiện xảy ra đối với nhân vật, đưa nhân vật vào tình thế phải
13
đối đầu, phải bộc lộ tích cách và hành động, tức là vấn đề chính của truyện ngắn được
mở ra. Với mỗi truyện ngắn, người viết phải phải sáng tạo cho được một tình huống
truyện. Tác giả xây dựng truyện ngắn thường dựa trên việc khai thác một mối xung
đột, một sự tan vỡ, một sai lầm hay tương phản để tìm ra cái khoảnh khắc giá trị cho
truyện ngắn của mình.
Trong xây dựng truyện ngắn, nhà văn còn đặc biệt chú ý đến yếu chi tiết và kết
cấu tác phẩm. Truyện ngắn luôn đòi hỏi nhà văn phải không ngừng sáng tạo trong
việc quan sát, tìm tòi, chọn lựa và xây dựng chi tiết nghệ thuật. Chi tiết được coi là
nội dung của truyện ngắn. Chính chi tiết sẽ cụ thể cho chủ đề chung mà tác giả muốn
diễn đạt. Nó vừa là phương tiện cho nhà văn khắc họa nhân vật vừa góp phần thể hiện
chủ đề, tư tưởng của truyện ngắn. Nhà văn Nguyễn Công Hoan đã từng định nghĩa
“Truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết”
[51, tr.15].
Nhà văn khi sáng tạo truyện ngắn cũng rất chú ý đến cách tổ chức tác phẩm.
Truyện ngắn có thể được kết cấu xâu chuỗi theo trình tự thời gian hoặc theo hành
động sự kiện, kết cấu tâm lý, kết cấu lắp ghép hoặc kết cấu đồng hiện. Nhìn chung thì
các thủ pháp kết cấu trong truyện ngắn thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn và quyết
định sự thành công của truyện ngắn
Việc tổ chức truyện ngắn còn phụ thuộc vào nghệ thuật sử dụng ngôn từ nghệ
thuật của tác giả. Đó là “thứ ngôn ngữ cô đọng, chính xác, trong sáng và vang lên
theo cách của mình. Chính thứ ngôn ngữ này truyền đạt tư tưởng, xây dựng tính cách,
khiến cho truyện ngắn tràn đầy nhạc điệu” [51, tr.168]. Ngôn ngữ truyện ngắn là
ngôn ngữ được ý thức cao độ nhưng vẫn giản dị, chính xác và tươi tắn.
* Tính hiệu quả cao
Việc sáng tạo truyện ngắn cũng đặt ra một yêu cầu cao đối với nhà văn là mỗi
truyện ngắn bắt buộc phải để lại một ấn tượng. Việc đọc truyện ngắn đem lại cho độc
giả sự thỏa mãn và hưng phấn về trí óc lẫn tinh thần. Đọc truyện ngắn chính là khám
phá sự vô tận về đời sống con người, sự học hỏi làm giàu thêm cho tâm hồn con
người như Vương Trí Nhàn đã nhận xét: “Cái đặc điểm duy nhất cũng rõ nhất của
truyện ngắn là nằm trong chính sự ngắn gọn của nó, với điều kiện là sự ngắn gọn này
đủ tạo nên một hiệu quả nhất định” [68, tr.388]. Vì vậy, mỗi truyện ngắn hay phải
đọng lại những âm vang sâu lắng trong lòng người đọc.
* Tính năng động kịp thời trước các vấn đề thời sự
Có thể nói, truyện ngắn là một hình thức nghệ thuật biểu hiện cuộc sống hiện
đại phù hợp nhất. Truyện ngắn ngày càng trở nên hấp dẫn người đọc và không kém
phần thu hút người viết vì những đổi thay không ngừng của thể loại. Dó đó, truyện
ngắn có sức mạnh nội tại lớn lao. Người ta có thể cho phép tiểu thuyết quay về khái
quát một giai đoạn đã qua, nhưng truyện ngắn sẽ trực tiếp tác động mạnh mẽ và kịp
14
thời đến xã hội tại thời điểm hiện tại, cơ động và linh hoạt nắm bắt nhạy bén, đồng
thời phản ánh mọi mặt của cuộc sống, nên thể loại này thực sự phù hợp với những đổi
thay không ngừng của cuộc sống hiện đại.
1.2. Vài nét về nghệ thuật tự sự
1.2.1. Khái niệm
Khái niệm Tự sự/ Trần thuật (narration): là một khái niệm đã có từ xưa. Từ
Platon, Aristote người ta đã biết phân biệt các loại tự sự/trần thuật: tự sự/trần thuật
lịch sử khác tự sự/trần thuật nghệ thuật. Ngày nay, tự sự/trần thuật không còn giản
đơn là việc kể chuyện, mà là một phương pháp không thể thiếu để giải thích, lý giải
quá khứ, có nguyên lý riêng. Roland Barthes quan niệm: “Đã có bản thân lịch sử loài
người, thì đã có tự sự” còn J.H.Miller thì cho rằng: “Tự sự là cách để ta đưa các sự
việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà chúng có được ý nghĩa. Tự sự là cách tạo
nghĩa cho sự kiện, biến cố”. Muốn hiểu một sự vật nào thì người ta kể câu chuyện về
sự vật đó. Bản chất của tự sự ngày nay được hiểu là một sự truyền đạt thông tin, là
quá trình phát ra đơn phương trong quá trình giao tiếp. Văn bản là cụm thông tin
được phát ra. Và tự sự có thể thực hiện bằng nhiều phương thức, con đường. Trong
văn học, tự sự có trong thơ, thơ trữ tình, trong kịch; chứ không chỉ trong truyện ngắn,
tiểu thuyết, ngụ ngôn… như một phương thức tạo nghĩa và truyền thông tin. Như vậy,
tự sự/trần thuật (narration) hiểu một cách đơn giản nhất là “việc kể chuyện”, “sự kể
lại một câu chuyện”. Và hiện nay, với thuật ngữ narration, các nhà nghiên cứu Việt
Nam có thể dịch thuật thành tự sự hay trần thuật đều được chấp nhận.
Về khái niệm Tự sự học: Xét về từ nguyên, Happamoiorus (Nga), Narratologie
(Pháp), Narratology (Anh) được một số người dịch là “Trần thuật học” (Lý luận về
trần thuật, khoa học về trần thuật) vì narration có nghĩa là kể lại, thuật lại. Nhưng
cũng Narratologie (Pháp), Narratology (Anh) lại đựợc dịch là “Tự sự học”. Mỗi bên
đều dành cho mình những lý lẽ nhất định. Đây là khái niệm được manh nha hình
thành từ nửa cuối thế kỉ XX, là một bộ môn nghiên cứu và phát triển các lý thuyết tự
sự hiện đại. Nói cách khác, Narratology nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các
vấn đề liên quan.
Lý thuyết tự sự ngày càng được quan tâm hơn trên phạm vi thế giới bởi nó là
công cụ cơ bản và sắc bén giúp ta có thể đi sâu vào nhiều lĩnh vực nghiên cứu. Đặc
biệt, lý thuyết tự sự có thể coi như một bộ phận không thể thiếu trong hành trang
nghiên cứu văn học ngày nay. Các nhà nghiên cứu cho rằng nó là một bộ phận cấu
thành của hệ hình lí luận hiện đại. Tự sự học hiện đại cho thấy rõ vai trò của chủ thể
trong trần thuật khi phân biệt nội dung và phương thức kể. Lý thuyết tự sự cũng chỉ ra
kết cấu của các tầng bậc trần thuật và theo đó xuất hiện các kiểu người trần thuật khác
15
nhau. Lý thuyết tự sự hiện đại cũng đã nêu ra các khái niệm về góc nhìn, điểm nhìn…
điều đó giúp phân tích, nhận dạng hình thức tự sự một cách chính xác và khoa học hơn.
Về khái niệm nghệ thuật tự sự, trong Từ điển tự sự học (University of Nebraska
Press xuất bản 1987), mục từ Narratology của Gerand Prince có hai định nghĩa:
(1). Lí thuyết về tác phẩm tự sự ra đời dưới ảnh hưởng của Chủ nghĩa cấu
trúc. Narratology nghiên cứu hình thức, quy luật vận động, tính chất của các tác
phẩm tự sự với các chất liệu khác nhau, nghiên cứu năng lực tự sự của chủ thể sản
sinh và đối tượng tiếp nhận tác phẩm tự sự. Các bình diện mà nó tìm hiểu bao gồm
“nội dung câu chuyện” và “hình thức trần thuật” cùng mối quan hệ giữa hai cái đó.
Theo cách hiểu này, Narratology là một lí luận tổng quát liên quan đến mọi tác
phẩm tự sự trong một trọn vẹn chỉnh thể và quá trình. Mọi tác phẩm tự sự ở đây là
chỉ tất cả các loại hình và dạng thức tự sự, cho dù là tự sự trên/bằng/với chất
liệu/phương tiện nào chứ không chỉ là ngôn từ lời nói. Nó cũng nghiên cứu hai đầu
của cái quá trình giao tiếp tự sự đó - chủ thể sản sinh tự sự và kẻ tiếp nhận tự sự. Đó
không chỉ là hình ảnh một người nói/viết và bên kia, hình ảnh người đọc/người
nghe. Tất cả các tác phẩm tự sự đều vật chất hoá thành một dạng “văn bản” bởi
những chủ thể tác giả tồn tại/hiển hiện trên những cấp độ bao hàm nhau “kể” cho
những đối tượng thụ nhận cũng tồn tại /hiển hiện trên những cấp độ bao hàm tương
ứng một “câu chuyện”.
(2). Nghiên cứu tác phẩm tự sự trong tính cách là một biểu đạt văn tự đối với
sự kiện câu chuyện. Trong nghĩa hạn định này, narratology không quan tâm bản thân
câu chuyện, mà tập trung sự chú ý vào thoại ngữ tự sự. Trong định nghĩa này có một
sở chỉ hạn định hơn. Nó nghiên cứu văn học tự sự (tiểu thuyết, truyện kể là thực liệu
điển hình). Thậm chí nó còn tiếp tục giới hạn sự quan tâm trong phạm vi hình thức
biểu đạt câu chuyện bằng lời văn tự.
1.2.2. Đặc điểm
Trong lí thuyết tự sự học hiện đại, tác giả không bao giờ hiện diện trong tác
phẩm như là một người kể, người phát ngôn, mà chỉ xuất hiện như là một tác giả hàm
ẩn, một cái “Tôi” thứ hai của nhà văn, với tư cách là người mang hệ thống quan niệm
và giá trị trong tác phẩm. Tác giả thực sự xuất hiện chỉ như người ghi lại lời kể hoặc
là người nghe trộm người kể.
Người trần thuật là nhân vật được sáng tạo ra để mang lời kể. Theo đó, hành vi
trần thuật là hành vi của người trần thuật đó mà sản phẩm là văn bản tự sự. Người
trần thuật trong văn bản văn học là một hiện tượng nghệ thuật phức tạp nhất mà ngôi
kể chỉ là hình thức biểu hiện ước lệ. Người trần thuật vốn không có gì là ngôi kể mà
chỉ là chủ thể kể. Còn ngôi kể là yếu tố tạo thành tiếng nói, giọng điệu. Ý thức chủ
thể tự sự cũng là một hiện tượng phức tạp, nhiều tầng, bao gồm tác giả hàm ẩn, người
16
trần thuật (có thể nhiều vai) và nhân vật (có thể nhiều người). Những điều này khiến
cho cấu trúc tự sự có nhiều tiếng nói, nhiều giọng điệu và có tính đối thoại.
Lí thuyết tự sự hiện đại làm cho người trần thuật vô hình vốn ít được người ta chú
ý phân tích, mà hiện ra như một hệ thống biểu đạt. Qua đó, nó cho người ta thấy cách
thức người trần thuật can dự vào tiến trình tự sự, từ hình thức đến bình luận. Lí thuyết tự
sự đã chỉ ra kết cấu và tầng bậc trần thuật mà người trần thuật ở bậc càng cao thì càng
xuất hiện sau. Nhiệm vụ của nó là cung cấp, giới thiệu người trần thuật ở bậc thấp,
phân biệt các dạng trần thuật (trần thuật chính, trần thuật phụ, siêu tự sự). Trong đó,
siêu tự sự như là biện pháp vừa che giấu tính hư cấu, gia tăng khả năng hư cấu cho
tiểu thuyết.
Lí thuyết tự sự cũng cho thấy rõ sự biến dạng thời gian bằng các biện pháp rút
gọn, tỉnh lược, kéo dài, dừng lại, lặp lại và các hình thức đổi thay tính liên tục của sự
kiện. Từ đó nó giúp quan sát cụ thể cơ chế của nghệ thuật tự sự.
Lí thuyết tự sự học hiện đại còn nêu ra vấn đề góc nhìn với điểm nhìn, tiêu cự
trần thuật với mô hình trần thuật. Nó cũng nghiên cứu sâu về hành vi ngôn ngữ tự sự
và các hình thức của nó (trực tiếp, gián tiếp tự do, các hình thức độc thoại nội tâm,
dòng ý thức…). Tự sự học gắn chặt với phong cách học tiểu thuyết. Do đó, hiện nay
các vấn đề của tự sự học được xem là không thể thiếu khi nghiên cứu phong cách học
tiểu thuyết. Tự sự học hiện đại đang tiếp tục nghiên cứu cấu trúc tình tiết, đơn vị cơ
bản của tự sự, các kiểu tổ hợp tình tiết, loại hình hóa cốt truyện.
Từ các căn cứ trên có thể khẳng định nghiên cứu tự sự học còn có ý nghĩa văn
hóa rộng lớn. Bởi nó mở ra khả năng nghiên cứu truyền thống tự sự trong mỗi nền
văn học, cho thấy kĩ thuật trần thuật của các thể loại, các nhà văn, và đặc biệt là cho
thấy bức tranh về truyền thống văn hóa để từ đó giúp độc giả có cái nhìn sâu sắc và
toàn diện về truyền thống văn học ấy trong mỗi tác phẩm.
1.2.3. Các yếu tố của nghệ thuật tự sự
Từ tài liệu trong tập bài giảng Tự sự học của Trường Đại học sư phạm Hà Nội,
và một số tài liệu lý luận văn học của tác giả Trần Đình Sử, Phương Lựu…, chúng tôi
đã tổng hợp để chỉ ra những đặc điểm cơ bản của các yếu tố trong nghệ thuật tự sự
như sau:
- Tổ chức cốt truyện:
Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác
phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong
một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Trong
văn học hiện đại, cốt truyện là phương tiện để bộc lộ tính cách, cốt truyện được sử
dụng để triển khai các tính cách chứ không phải cốt truyện quyết định và chi phối tính
cách như trước kia. Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, các nhà văn luôn cố gắng
17
xây dựng những cốt truyện chân thực và hấp dẫn đồng thời thể hiện được chiều sâu
tâm lí của tính cách nhân vật.
Cơ sở sâu xa của cốt truyện là một xung đột đang vận động. Vì vậy, quá trình
phát triển của một cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của xung đột. Nhìn
chung, một cốt truyện thường có các thành phần chính sau: Phần trình bày, Phần thắt
nút, Phần phát triển, Ðiểm đỉnh, Phần kết thúc (Mở nút). Những thành phần chính
trên đây tạo thành một cốt truyện đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc
nào cốt truyện cũng đầy đủ cả 5 thành phần và cũng không phải luôn được trình bày
theo thứ tự như trên. Vì vậy, khi tìm hiểu và xác định các thành phần của cốt truyện,
không nên gò ép những biến cố hay sự kiện vào thành phần này hay thành phần khác
với những lí do có tính chất hình thức. Cần tìm hiểu và phân tích sự xây dựng cốt
truyện có thể hiện được những xung đột xã hội, sự phát triển của nó có phù hợp với
qui luật cuộc sống và có thể hiện được ý đồ nghệ thuật của tác giả hay không.
Có thể kể đến một số cách tổ chức cốt truyện (kết cấu) phổ biến trong tác
phẩm tự sự như: Tổ chức cốt truyện theo trình tự thời gian, tổ chức cốt truyện theo
hai tuyến nhân vật đối lập, tổ chức cố truyện theo hướng đa tuyến, tổ chức cốt truyện
dựa vào tâm lí…
- Xây dựng nhân vật: Nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả
trong tác phẩm bằng phương tiện văn học. Đó có thể là con người có tên hoặc không
có tên cụ thể; có thể được miêu tả kỹ hay sơ lược, sinh động hay không rõ nét, xuất
hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay từng lúc, giữ vai trò quan trọng nhiều, ít
hoặc không ảnh hưởng nhiều lắm đối với tác phẩm. Trong một số trường hợp, khái
niệm nhân vật được sử dụng một cách ẩn dụ nhằm chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó
trong tác phẩm.
Nhân vật văn học khác các nhân vật thuộc các loại hình nghệ thuật khác ở chỗ
nó được xây dựng và thể hiện bằng chất liệu ngôn từ. Vì vậy, nhân vật văn học đòi
hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng, liên tưởng để dựng lại một con người
hoàn chỉnh trong tất cả các mối quan hệ của nó.
Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc
sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà
văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong
tác phẩm. Trong quá trình mô tả nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi
tiết, yếu tố mà họ cho là cần thiết để bộc lộ được quan niệm của mình về con người
và cuộc sống. Chính vì vậy, nhân vật văn học và con người trong cuộc đời thường
không phải là sự đồng nhất. Nhân vật văn học là một hiện tượng hết sức đa dạng.
Tuy nhiên, xét về mặt nội dung tư tưởng, kết cấu, chất lượng miêu tả,... có thể thấy
những hiện tượng lặp đi lặp lại sẽ tạo thành các loại nhân vật khác nhau. Có thể tiến
hành phân loại chúng ở nhiều góc độ sau:
18
+ Từ góc độ nội dung tư tưởng hay phẩm chất nhân vật: Có thể nói đến loại
nhân vật chính diện (nhân vật tích cực) và nhân vật phản diện (nhân vật tiêu cực).
+ Từ góc độ kết cấu (Tầm quan trọng và vai trò của nhân vật trong tác phẩm): Có
thể nói đến loại nhân vật chính, nhân vật trung tâm và nhân vật phụ.
+ Từ góc độ thể loại: Có thể phân thành các nhân vật: nhân vật trữ tình, nhân
vật tự sự và nhân vật kịch
+ Từ góc độ chất lượng miêu tả: Có thể phân thành các loại: nhân vật, tính
cách, điển hình
Có nhiều biện pháp khác nhau trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Một số
biện pháp chung, chủ yếu nhất có thể kể đến là: miêu tả nhân vật qua ngoại hình, nội
tâm, ngôn ngữ và hành động.
- Người trần thuật/Người kể chuyện: Lê Bá Hán trong Từ điển thuật ngữ
văn học có định nghĩa: “Người trần thuật là một nhân vật hư cấu hoặc có thật mà văn
bản tự sự do hành vi ngôn ngữ của anh ta tạo thành (…). Nó bị trừu tượng hóa đi, trở
thành một nhân vật hoặc ẩn hoặc hiện trong tác phẩm tự sự” [24; tr.221 - 222].
Theo định nghĩa trên, người trần thuật trước hết là một hình tượng nghệ thuật
được nhà văn sáng tạo ra để thay mình làm nhiệm vụ kể lại một câu chuyện hay một
sự việc nào đó. Và thông qua hành vi kể chuyện này mà chủ thể trần thuật có thể lộ
diện hoặc ẩn tàng, rõ ràng hay tiềm ẩn trong suốt quá trình trò chuyện cùng độc giả.
Trong văn tự sự, khái niệm “người trần thuật” còn có thể được gọi dưới những tên gọi
khác như: “người kể chuyện” hay “hình tượng tác giả”…
Theo Lê Ngọc Trà, “Người kể chuyện” là “chủ thể của lời kể chuyện, là người
đứng ra kể trong tác phẩm văn học”. Còn theo Huỳnh Như Phương: “Khái niệm hình
tượng tác giả nói lên bản chất của tác phẩm nghệ thuật và là nơi tập trung sự thống
nhất về tư tưởng, kết cấu, hình tượng và ngôn từ của tác phẩm”. Đây chỉ là những
biểu hiện sinh động của hình thức tên gọi còn về chức năng, vai trò của chủ thể trần
thuật, người kể chuyện hay hình tượng tác giả đều như nhau trong văn tự sự.
Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học đã chỉ ra được vai trò của yếu
tố này: “Trần thuật tự sự được dẫn dắt bởi một ngôi kể được gọi là người trần thuật - một
loại trung giới giữa cái được miêu tả và thính giả (độc giả), loại người chứng kiến và giải
thích những gì đã xảy ra” [2; tr. 360].
Quả thực, nếu không có người kể chuyện thì câu chuyện mới chỉ dừng lại ở
những hành động, sự kiện tạo nên vật liệu thô cho tác phẩm. Người kể chuyện cùng
hành vi kể chuyện giữ một vai trò cầu nối quan trọng trong mối quan hệ giữa câu
chuyện được kể và người được nghe kể câu chuyện đó. Ngoài ra, người kể chuyện hay
người trần thuật còn có một vai trò quan trọng trong việc tổ chức các yếu tố làm nên
kết cấu của một văn bản tự sự. Ta có thể hiểu rằng chủ thể trần thuật là người thay tác
giả thực hiện hành vi trần thuật lại câu chuyện trong tác phẩm. Tác giả thực sự xuất
19