Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi thông qua tổ chức hoạt động chơi tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (854.6 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
------------------

VŨ THỊ NGỌC MINH

GIÁO DỤC KĨ NĂNG HỢP TÁC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5- 6 TUỔI
THÔNG QUA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CHƠI

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử giáo dục
Mã số

: 9 14 01 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Hà Nội, 2020


Công trình được hoàn thành tại: Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam - số
101 Trần Hưng Đạo Thành phố Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Trinh
PGS.TS. Hoàng Thanh Thúy

Phản biện 1

Phản biện 2

Phản biện 3


Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án cấp Viện họp tại Viện Khoa học
Giáo dục Việt Nam, số 101 Trần Hưng Đạo thành phố Hà Nội
Vào hồi ..... giờ ..... ngày ..... tháng .... năm.....

Có thể tìm hiều luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa, biết hợp tác với người khác để mang lại hiệu quả
trong hoạt động là một trong những kĩ năng (KN) quan trọng của mỗi người. Điều
đó càng trở nên cần thiết khi chúng ta đang tiến vào cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ 4 với những thách thức về cách mà con người đạt được hiệu quả của lao
động mà ở đó kĩ năng trở nên quan trọng.
Giáo dục theo định hướng phát triển năng lực của người học đang là xu hướng
phổ biến trên thế giới và được thể hiện trong Chương trình giáo dục phổ thông mới
– cấp học kế tiếp của giáo dục mầm non. Kĩ năng hợp tác (KNHT) một phần cấu
thành của năng lực hợp tác, giúp con người biết liên kết hành động với nhau, làm
việc hiệu quả trong một nhóm. KN đó cần được giáo dục sớm cho trẻ ngay từ lứa
tuổi mầm non, nhất là với trẻ 5-6 tuổi, như là một sự chuẩn bị cần thiết cho trẻ học
tập hiệu quả ở bậc phổ thông và cho việc học suốt đời.
5-6 tuổi là giai đoạn chuyển tiếp từ mầm non lên tiếu học. Đứa trẻ cần được
chuẩn bị tốt không chỉ về nền tảng thể lực, tâm thế, mà sự trang bị cho trẻ các KN
xã hội (nhất là KNHT) chính là yếu tố quan trọng giúp trẻ học tập hiệu quả ở lớp 1
(khi mà ở cấp học này đặt ra các yêu cầu ngày càng cao về tương tác và làm việc
nhóm như là cách hiệu quả giúp trẻ lĩnh hội kiến thức và là nền tảng cần thiết cho
việc học suốt đời).
Chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Trong hoạt động chơi, trẻ được

trải nghiệm các mối quan hệ xã hội, hành động của các nhân vật thông qua vai chơi.
Trẻ phải có sự thỏa thuận, thống nhất, trao đổi với nhau trong khi chơi. Như vậy,
hoạt động chơi vừa là hình thức, vừa là phương tiện hiệu quả để giáo dục KNHT
cho trẻ. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động này chưa được phát huy hiệu quả.
Từ những lý do trên, đề tài luận án: “Giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi thông qua tổ chức hoạt động chơi” được lựa chọn nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu: Đề xuất quy trình và cách thức tổ chức hoạt động
chơi như là một phương tiện hiệu quả nhằm giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi ở trường mầm non.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Quá trình giáo dục KNHT cho trẻ 5-6 tuổi thông
qua tổ chức hoạt động chơi.
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quy trình và cách thức tổ chức hoạt động chơi
nhằm giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non.
4. Giả thuyết khoa học
KNHT gồm có 3 nhóm KN với 15 KN thành phần. Hiện nay, các KNHT
này ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đang ở mức trung bình, trong đó nguyên nhân cơ bản là
GVMN chưa tổ chức tốt hoạt động chơi theo một quy trình hợp lý để giáo dục
KNHT cho trẻ. Nếu đề xuất và tổ chức hoạt động chơi cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
theo quy trình sư phạm chặt chẽ gồm 3 giai đoạn, mà ở mỗi giai đoạn đều chú ý tạo
ra các hoạt động để trẻ có cơ hội thể hiện hành vi hợp tác, tạo ra sự tương tác tích
cực giữa các trẻ; xây dựng mối quan hệ giữa tính độc lập và tính phụ thuộc ở từng


2
cá nhân trẻ; lấy chơi là hoạt động chủ đạo, đồng thời tiếp tục củng cố, rèn luyện
KNHT cho trẻ thông qua các hoạt động giáo dục khác ở trường mầm non thì sẽ
giúp cho sự phát triển các KNHT ở trẻ được tốt hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi

thông qua tổ chức hoạt động chơi.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
thông qua tổ chức hoạt động chơi.
- Đề xuất và thực nghiệm sư phạm quy trình tổ chức hoạt động chơi nhằm
giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
6. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cách tiếp cận: Tiếp cận hoạt động – giao tiếp, tiếp cận hệ thống, tiếp cận
tích hợp, tiếp cận phát triển.
6.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phối hợp các phương pháp
nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu lý luận (nghiên cứu tài liệu văn bản và
phân tích lịch sử-logic, khái quát hóa lí luận); Phương pháp nghiên cứu thực
tiễn: Quan sát, điều tra giáo dục, tổng kết kinh nghiệm giáo dục; phân tích chân
dung; thực nghiệm sư phạm; Phương pháp nghiên cứu bổ trợ (Phương pháp
nghiên cứu đối sánh, phương pháp chuyên gia; thống kê toán học).
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
7.1. Giới hạn nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu về giáo dục KNHT cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi trong hoạt động chơi, trong đó chú trọng vào chơi, hoạt động ở
các góc với hình thức nhóm, theo chế độ sinh hoạt ở trường MN.
7.2. Giới hạn về địa điểm, thời gian, khách thể khảo sát
- Khảo sát thực trạng: 297 GVMN tại 16 trường MN trên địa bàn quận Đống
Đa, Cầu Giấy, Bắc Từ Liêm và huyện Hoài Đức của thành phố Hà Nội; 60 trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi tại trường mầm non trên địa bàn Hà Nội, chọn mẫu đại diện cho khu
vực thành phố (nội thành) và khu vực nông thôn (ngoại thành).
- Thực nghiệm: qua 2 vòng: Vòng 1 (Thực nghiệm thăm dò): Tiến hành trên
20 trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi của trường MN thực hành Hoa Hồng – Đống Đa- Hà Nội.
Vòng 2 (Thực nghiệm chính thức): Tiến hành trên 60 trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trên địa
bàn nội thành và ngoại thành của thành phố Hà Nội (trong đó có 30 trẻ học tại
Trường MN Quang Trung, Đống Đa (nội thành) và 30 trẻ học tại Trường MN Di
Trạch, Hoài Đức (ngoại thành). Ở mỗi trường đều có 30 trẻ tham gia vào nhóm đối
chứng. Thời gian từ tháng 1/2017 đến tháng 5/2017.

8. Những luận điểm được bảo vệ trong luận án
- KNHT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi là một hệ thống gồm 3 nhóm kỹ năng
thành phần với 15 kỹ năng cụ thể, giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
- Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đã có những biểu hiện KNHT với các mức độ khác
nhau. Sự phát triển KNHT ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi chịu ảnh hưởng của các yếu tố
cơ bản (đặc điểm phát triển của cá nhân trẻ, môi trường giáo dục, giáo viên). Năng
lực và kĩ năng của người GVMN trong tổ chức hoạt động chơi để giáo dục KNHT


3
cho trẻ là yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất.
- Chơi là phương tiện hiệu quả để giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi. Giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi sẽ mang lại hiệu quả cao nếu nhà
giáo dục biết cách tổ chức hoạt động chơi theo quy trình sư phạm chặt chẽ gồm 3
giai đoạn: Chuẩn bị chơi; hướng dẫn trẻ chơi; đánh giá, nhận xét sau khi chơi. Ở
mỗi giai đoạn, nhà giáo dục đều chú ý tạo ra sự tương tác tích cực giữa các trẻ em
với nhau trên cơ sở tạo điều kiện để mỗi trẻ thể hiện tính độc lập của bản thân
trong sự phụ thuộc tích cực với các bạn chơi khác.
9. Những đóng góp mới của luận án
- Về lý luận: Đưa ra quan điểm về kĩ năng hợp tác, cấu trúc và biểu hiện
KNHT ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi; xây dựng, hoàn thiện thêm về khung lý thuyết của
vấn đề giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua tổ chức hoạt động chơi
ở trường mầm non.
- Về thực tiễn: Đánh giá được (+) thực trạng giáo dục KNHT cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi thông qua tổ chức hoạt động chơi và (+) mức độ KNHT ở trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi. Đề xuất và chứng minh qua thực nghiệm khoa học tính đúng đắn của
quy trình, cách thức tổ chức hoạt động chơi nhằm giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi ở trường mầm non.
- Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng như là tài liệu tham khảo để giáo dục
KNHT cho trẻ 5-6 tuổi cho các nhà quản lý GDMN, GVMN, cơ quan nghiên cứu, chỉ

đạo về GDMN và cha, mẹ của trẻ.
10. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Kiến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
thông qua tổ chức hoạt động chơi.
Chương 2: Cơ sở thực tiễn của giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
thông qua tổ chức hoạt động chơi.
Chương 3: Tổ chức hoạt động chơi nhằm giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 56 tuổi và thực nghiệm.


4

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA GIÁO DỤC KĨ NĂNG HỢP
TÁC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI THÔNG QUA TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG CHƠI
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về kĩ năng và kĩ năng hợp tác
Vấn đề KN và KNHT ở trẻ em được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, đặc
biệt trong lĩnh vực tâm lý học, giáo dục học. Cho đến nay, mặc dù qua các nghiên
cứu cho thấy chưa hoàn toàn thống nhất quan niệm về kĩ năng, tuy nhiên các quan
niệm đều có điểm chung khi thừa nhận rằng kỹ năng là một quá trình tâm lý, được
hình thành khi con người áp dụng kiến thức vào thực tiễn. KN cần được tập luyện,
củng cố để đạt được sự thành thạo và linh hoạt. Về kĩ năng hợp tác, các nghiên cứu
đều có điểm chung khi cho rằng: Biểu hiện của KNHT chính là việc con người
cùng chung sức hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong một hoạt động nào đó nhằm hướng
tới đạt được một mục đích chung. Các nghiên cứu phần lớn tập trung bàn về vấn đề
KNHT ở đối tượng là học sinh ở cấp học phổ thông, ít nghiên cứu sâu đề cập đến
KNHT ở trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi. Nếu có, thì cũng chưa chỉ rõ các KNHT cụ thể cần
giáo dục cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.

1.1.2. Nghiên cứu về giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ mầm non
Các nghiên cứu ở ngoài nước và trong nước, chương trình GDMN của một số
quốc gia trên thế giới đều cho thấy sự cần thiết giáo dục KNHT cho trẻ mầm non.
Đặc biệt là nghiên cứu của các nhà Tâm lý, Giáo dục học Liên Xô (cũ) và các tư
tưởng giáo dục hiện đại của nền giáo dục châu Âu, châu Á hiện nay. Các nghiên
cứu nhìn chung đều đề cập đến nội dung giáo dục các KN thành phần, đó là giáo
dục: 1) Tính thống nhất, hướng đến mục tiêu chung; 2) Sự phụ thuộc lẫn nhau một
cách tích cực giữa các cá nhân; 3) Sự tương tác giữa các cá nhân trong nhóm; 4)
Trách nhiệm cá nhân gắn với trách nhiệm chung của nhóm. Đối với giáo dục
KNHT cho trẻ em, các nghiên cứu có đồng quan điểm, đó là: tạo cơ hội cho trẻ
chơi và làm việc cùng với trẻ khác, giúp trẻ học cách tham gia vào một hoạt động
chung có cùng mục tiêu. Các nghiên cứu cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng
các hoạt động đa dạng, gắn với cuộc sống thực để giáo dục KNHT cho trẻ, trong đó
chơi ở trường MN là hoạt động có nhiều ưu thế. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào
đề cập sâu đến qui trình và cách thức tổ chức hoạt động chơi để qua đó giáo dục
KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
1.1.3. Nghiên cứu về hoạt động chơi của trẻ em với giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ
Nhiều nhà tâm lý, giáo dục học (tiêu biểu là L.X. Vưgotxki, Đ.B.Enconhin,
A.N. Leonchiev, A.V. Daporozet, X.L Rubinstein, A.I.Xorokina, A.Đ
Liublinskaia, A.V. Petrovxki,...) đã khẳng định vai trò của hoạt động chơi đối với
giáo dục KNHT cho trẻ. Ở Việt Nam, một số tác giả (Nguyễn Ánh Tuyết, Ngô
Công Hoàn…) nghiên cứu về chơi của trẻ mầm non nhấn mạnh rằng: chơi là con
đường cơ bản để giáo dục KNHT cho trẻ. Trong khi chơi, trẻ dễ dàng phối hợp
hành động, thiết lập được các mối quan hệ với bạn bè. Chơi là một hình thức, là
phương tiện hình thành và phát triển KNHT ở trẻ mẫu giáo.


5
Qua tổng quan các nghiên cứu trong nước và ngoài nước về giáo dục
KNHT cho trẻ mầm non, cho thấy:

- KNHT được nhiều nghiên cứu đề cập, chỉ ra những đặc trưng cơ bản của sự
hợp tác như: tính thống nhất cao về mục đích chung khi thực hiện hành động; tính
tương tác, phối hợp khi thực hiện hành động hướng đến đạt được mục đích
chung…. Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa chỉ rõ các nhóm KN/KN thành phần cụ
thể của KNHT ở trẻ mầm non.
- Các nghiên cứu về giáo dục KNHT chủ yếu theo xu hướng coi hợp tác như
là một cách tiếp cận để giáo dục trẻ, còn ít những nghiên cứu chỉ rõ cách thức tổ
chức và xây dựng nội dung, phương pháp, hình thức cụ thể để đạt mục tiêu giáo
dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
- Chưa có nghiên cứu nào tập trung làm rõ các vấn đề cụ thể liên quan đến
quy trình, cách thức tổ chức hoạt động chơi qua đó giáo dục KNHT cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi.
1.2. Kĩ năng hợp tác của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
1.2.1. Khái niệm kĩ năng và kĩ năng hợp tác
- Kĩ năng: là một phần của năng lực, cho phép cá nhân (chủ thể của hành động)
thực hiện có kết quả hành động trên cơ sở vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm một
cách hợp lí, linh hoạt vào các tình huống khác nhau để đạt được mục tiêu đã xác định.
- Kĩ năng hợp tác: là một phần của năng lực, cho phép cá nhân (chủ thể của hành
động) thực hiện có kết quả các hành động phối hợp với nhau dựa trên cơ sở sự phụ thuộc,
sự tương tác tích cực và trách nhiệm cá nhân để giải quyết vấn đề, nhằm đạt được mục
tiêu chung trong những điều kiện nhất định.
1.2.2. Cấu trúc của kĩ năng hợp tác ở trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi
KNHT là một loại KN xã hội. Một trong những điều kiện để hình thành và phát
triển KNHT cho trẻ đó là phải có nhóm và các hoạt động tương tác theo nhóm. Như vậy,
xuất phát từ khái niệm và đặc trưng của hợp tác, kế thừa các công trình nghiên cứu của
các tác giả trong và ngoài nước, trong nghiên cứu này, xét theo tiến trình tham gia và phát
triển hoạt động theo nhóm của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, KNHT là một hệ thống gồm 3
nhóm KN với 15 KN thành phần, có mối liên hệ mật thiết với nhau trong một chỉnh thể.

Sơ đồ: KNHT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi



6

1.2.3. Đặc điểm phát triển và biểu hiện kĩ năng hợp tác của trẻ mẫu giáo 5 6 tuổi
Các KNHT ở trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi phát triển theo có xu hướng tỷ lệ thuận với
mức độ hiểu biết xã hội và vốn sống kinh nghiệm ngày càng tăng của trẻ, biểu hiện
ban đầu và cơ bản nhất của KNHT chính là sự phối hợp cùng nhau. Trẻ 5-6 tuổi có
kỹ năng hơn trong việc phối hợp hành vi với bạn, quan sát và hỗ trợ bạn để cố gắng
cùng đạt được mục tiêu. Trong hoạt động chơi của trẻ 5-6 tuổi, song song với tính
độc lập vốn đã phát triển khá ổn định, trẻ luôn có nhu cầu chơi cùng với bạn khác
và biết phối hợp cùng nhau trong hoạt động chơi chung mang tính đội/nhóm.
Chúng biết thỏa thuận với nhau sẽ chơi gì, vạch ra kế hoạch chơi, tìm kiếm phương
tiện thực hiện ý định chơi của mình, phân công/thỏa thuận vai chơi, cách chơi cho
từng bạn trong nhóm chơi và biết cách trao đổi, phối hợp, chia sẻ với bạn. Khi trẻ 5
tuổi, chúng đã biết thích ứng, liên kết hành động với nhau để hướng tới hành động
và mục tiêu không chỉ của bản thân mà của bạn bè trong cùng “hội”. Chúng cũng
bắt đầu giám sát hành động của bạn khác trong nhóm để hướng tới việc đạt được
mục tiêu chung.
1.2.4. Các giai đoạn hình thành kĩ năng hợp tác ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Giáo dục KNHT cho trẻ em mẫu giáo, cần trải qua 3 giai đoạn cơ bản như
sau: Giai đoạn 1: Trẻ được trang bị kiến thức về hành động (về mục đích, đối tượng,
cách thức, điều kiện hành động). Giai đoạn 2: Trẻ được hướng dẫn (gợi ý, hướng dẫn
bằng lời nói, hành động, làm mẫu) từ người có kiến thức, KN tốt hơn. Giai đoạn 3:
Tạo cơ hội cho trẻ được linh hoạt vận dụng kiến thức, kinh nghiệm và KNHT vào
thực hành luyện tập trong những điều kiện, tình huống khác nhau và thực hiện hành
động có kết quả. Việc phân chia các giai đoạn nói trên chỉ có tính chất tương đối. Đối
với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, sự hình thành KNHT có thể không nhất thiết phải theo trình
tự kể trên, giai đoạn 3 có thể được đảo lên trước giai đoạn 1 và 2.
1.3. Hoạt động chơi của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non

1.3.1. Khái niệm
- Chơi và hoạt động chơi: Các nhà khoa học đưa ra 2 biểu hiện của hoạt động
chơi, đó là: (i) Sự tham gia tự nguyện của chủ thể vào hoạt động và (ii) tính vui vẻ,
thoải mái mà hoạt động chơi mang lại cho người tham gia.
- Hoạt động chơi của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi: Là một hoạt động tự nhiên, tự
nguyện, có động cơ thúc đẩy là những yếu tố bên trong quá trình chơi. Trong khi
chơi, các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên và với
xã hội được mô phỏng lại, nó mang đến cho người chơi một trạng thái tinh thần vui
vẻ, thoải mái, dễ chịu.
1.3.2. Đặc điểm hoạt động chơi của trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi
Hoạt động chơi ở trẻ mang một số đặc điểm sau: (+) tính tự do, tự nguyện và
độc lập; (+) tính tự điều khiển; (+) tính sáng tạo; (+) mang đậm tính cảm xúc; (+)
mang tính tượng trưng


7
1.3.3. Vai trò của hoạt động chơi đối với sự phát triển kĩ năng hợp tác của trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi
Chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, có vai trò và ưu thế nổi trội trong
giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Chơi vừa là hoạt động giáo dục, vừa là
nội dung, hình thức giáo dục KNHT cho trẻ. Khi chơi, trẻ có cơ hội được tham gia
vào hoạt động chia sẻ với bạn đồng trang lứa, qua đó chúng được học hỏi, thực
hành và phát triển kỹ năng giao tiếp, tương tác và xã hội. Chơi cũng thúc đẩy khả
năng“đọc” được suy nghĩ và ý định của người khác ở mỗi đứa trẻ. Trong hoạt động
chơi, xuất hiện các tương tác và phối hợp giữa những đứa trẻ cùng chơi. Đây là tiền
đề cho sự phát triển KNHT ở trẻ em. Chơi là môi trường diễn ra hành động hợp tác,
qua đó trẻ được tập luyện về KNHT một cách tự nhiên.. Khi trẻ chơi cùng nhau,
chúng cùng nhau xác định và thống nhất mục đích, kế hoạch, giải quyết vấn đề,
thỏa thuận và điều phối hành vi của chúng để bắt đầu sự tương tác, duy trì hoạt
động và tiếp cận mục tiêu chung. Chơi là cuộc sống thực đối với trẻ, đồng thời

cũng giống như là nơi mà trẻ được “tập”, được trải nghiệm KNHT trước khi chúng
trở thành người trưởng thành với các mối quan hệ xã hội của cuộc sống thực.
1.4. Giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi qua tổ chức hoạt
động chơi
1.4.1. Khái niệm: là quá trình tác động sư phạm có mục tiêu, nội dung, phương
pháp, phương tiện và hình thức cụ thể của giáo viên đến trẻ thông qua cách tổ chức
hoạt động chơi với quy trình gồm các giai đoạn cụ thể, ở mỗi giai đoạn đều chú ý
tạo ra sự tương tác, phụ thuộc tích cực giữa các trẻ, nhằm giúp trẻ hình thành năng
lực tương tác, phối hợp có hiệu quả với người khác khi thực hiện hành động nhằm
đạt được mục tiêu.
1.4.2. Các thành tố của quá trình giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi thông qua tổ chức hoạt động chơi
1.4.2.1. Mục tiêu giáo dục
- Chuẩn bị cho trẻ có KN làm việc hiệu quả cùng với những người khác trong
những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống và hoạt động theo nhóm để thích ứng với
cuộc sống xã hội sau này.
- Giúp trẻ tự tin, chủ động trong hoạt động giao tiếp với bạn bè, với mọi
người xung quanh;
- Hỗ trợ trẻ trong giai đoạn chuyển tiếp từ mầm non lên lớp 1; giúp trẻ thích
ứng được với hoạt động học tập khi vào tiểu học.
1.4.2.2. Nội dung giáo dục
- Cung cấp cho trẻ kiến thức về KNHT: Trẻ có những hiểu biết cơ bản về
KNHT.
- Tập luyện, củng cố các KNHT cho trẻ: Hướng dẫn và cho trẻ thực hành, tập
luyện, củng cố 3 nhóm KNHT (xem ở mục 1.2.2) thông qua hoạt động chơi và các
hoạt động giáo dục khác ở trường MN.
1.4.2.3. Phương pháp giáo dục:


8


- Hướng dẫn: bao gồm hướng dẫn bằng hành động trực quan và hướng dẫn
bằng lời nói về các hành vi làm mẫu các hành vi, các KNHT trong hoạt động chơi
và các hoạt động khác ở trường mầm non để trẻ bắt chước thực hiện.
- Trao đổi gợi mở và khuyến khích tìm tòi: GV nêu câu hỏi hoặc vấn đề, tình
huống về KNHT trước cả lớp hoặc trước nhóm trẻ; khích lệ trẻ trao đổi cởi mở về ý
kiến của mình; GV phân loại, tổng hợp các ý kiến của trẻ; khích lệ trẻ cùng nói về
cách giải quyết mỗi tình huống.
- Trải nghiệm: Những điều trẻ lĩnh hội được sẽ thử nghiệm, vận dụng trở lại
ngay trong hoạt động chơi (trải nghiệm qua hành động của vai chơi) và các hoạt
động khác diễn ra ở các thời điểm khác trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ ở
trường mầm non (trải nghiệm trong cuộc sống thực).
- Sử dụng tình huống sư phạm: tận dụng tình huống xảy ra trong quá trình trẻ
chơi hoặc GV chủ động tạo ra các tình huống để tạo cơ hội cho trẻ củng cố, luyện
tập các KNHT; từ đó từng bước một giúp trẻ đạt đến mức độ thành thạo, linh hoạt
của KNHT.
1.4.2.4. Hình thức giáo dục
Để đạt được mục tiêu giáo dục KNHT, có các hình thức cơ bản: Giáo dục
KNHT cho trẻ thông qua hoạt động chơi dưới hình thức nhóm, tối thiểu mỗi nhóm
có từ 2 trẻ trở lên: nhóm lớn (6-7 trẻ), nhóm nhỏ (2-4 trẻ). Trong các nhóm đó, sẽ
diễn ra các hành động tương tác, phối hợp giữa các trẻ với nhau để cùng thực hiện
nhiệm vụ chung của nhóm chơi. Theo địa điểm/ không gian tổ chức hoạt động:
Chơi ở trong lớp (phòng học, các góc hoạt động...); chơi ở ngoài lớp (khu vui chơi,
các không gian bên ngoài lớp học, ngoài trường).
Ngoài ra, tập luyện, củng cố KNHT qua các hoạt động giáo dục khác ở trường
MN: Hoạt động chơi, học, lao động, hoạt động ăn, ngủ vệ sinh cá nhân, hoạt động
thăm quan, trải nghiệm...và các hoạt khác theo chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ ở
trường MN.
1.4.2.5. Kiểm tra, đánh giá
a. Mục tiêu đánh giá: nhằm xác định mức độ phát triển KNHT của trẻ để có biện

pháp tác động phù hợp, giúp cải thiện mức độ KNHT của trẻ.
b. Nội dung, tiêu chí đánh giá
* Nội dung đánh giá: theo 3 nhóm kĩ năng, với 15 KN cụ thể, tập trung vào 2 khía
cạnh: (+) Sự tồn tại/xuất hiện các KNHT ở trẻ: Các KNHT của trẻ mẫu giáo “có”
hay “ không” và (+) Đánh giá mức độ phát triển các KNHT của trẻ mẫu giáo: Nếu
có, các KNHT đang ở mức độ nào trong 4 mức: Tốt, khá, TB, yếu.
* Tiêu chí đánh giá: (i) Tính đầy đủ; (ii) Tính thuần thục/thành thạo; (iii) Tính
linh hoạt; (iv) Tính linh hoạt.
d. Phương pháp, kĩ thuật đánh giá: Quan sát hành vi tự nhiên của trẻ trong
các hoạt động; trò chuyện với trẻ; phân tích sản phẩm hoạt động của trẻ, kiểm tra
trực tiếp trên trẻ thông qua bài tập đánh giá; sử dụng tình huống; trao đổi với phụ
huynh, GVMN.


9
1.4.3. Các giai đoạn của quy trình tổ chức hoạt động chơi nhằm giáo dục
kĩ năng hợp tác cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Xét theo tiến trình của hoạt động chơi ở trẻ em thì tổ chức hoạt động chơi qua
đó giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trải qua 3 giai đoạn cơ bản: Giai đoạn
1- Chuẩn bị cho trẻ chơi: GV tổ chức cho trẻ cùng tham gia vào chuẩn bị sẵn sàng
mọi điều kiện (về vật chất, không gian, tinh thần...) để khuyến khích, gợi mở ý tưởng chơi
của trẻ và đáp ứng nhu cầu của trẻ trong suốt quá trình chơi. Giai đoạn 2- Hướng dẫn
trẻ chơi (quá trình trẻ chơi): GV hướng dẫn trẻ cách thống nhất những nguyên tắc
chung của nhóm; duy trì hứng thú chơi cùng với nhau cho nhóm trẻ; tạo ra không
gian để trẻ tự do lựa chọn và thỏa thuận với nhau về trò chơi của chúng một cách tự
nguyện. GV chú ý thiết lập các mối quan hệ (giữa cá nhân trẻ, giữa nhóm trẻ với
nhau) trong khi chơi, giúp trẻ tích cực giao tiếp với nhau; tận dụng chính bối cảnh
chơi, tình huống chơi, nội dung chơi và vai chơi của trẻ để giáo dục KNHT cho trẻ;
hướng trẻ thực hiện cùng một hoạt động chung của nhóm, chỉ cho trẻ biết cách phối
hợp hành động cùng nhau. Giai đoạn 3 - Kết thúc hoạt động chơi: GV tổ chức cho

trẻ cùng tham gia vào quá trình đánh giá, nhận xét quá trình chơi của bản thân trẻ
và của các bạn trong nhóm. Trọng tâm hướng sự chú ý của trẻ đến lợi ích của các
hành vi hợp tác giữa trẻ mang lại cho hoạt động chơi.
1.4.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi qua tổ chức hoạt động chơi
Một số yếu tố sau đây có ảnh hưởng rõ nét: Yếu tố thuộc về cá nhân trẻ: Năng
lực nhận thức, vốn sống kinh nghiệm, đặc điểm khí chất của trẻ, sự phát triển của cá
nhân trẻ về: ngôn ngữ, giao tiếp, xúc cảm tình cảm, vốn hiểu biết về trò chơi và kỹ
năng chơi, nhu cầu chơi…Yếu tố thuộc về người giáo viên: Kiến thức của người
GVMN về KNHT cần giáo dục cho trẻ; thái độ và kĩ năng sư phạm của họ trong việc
thiết kế và tổ chức hoạt động giáo dục KNHT đảm bảo việc thực hiện mục tiêu giáo
dục đạt hiệu quả, phù hợp với đối tượng trẻ. Yếu tố thuộc về môi trường giáo dục,
điều kiện cơ sở vật chất: là yếu tố điều kiện, ảnh hưởng đến mức độ phát triển KNHT
của trẻ. Bên cạnh đó, công tác quản lý, điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị và sự
phối hợp giữa gia đình - nhà trường trong giáo dục KNHT cho trẻ đóng vai trò như là
điều kiện hỗ trợ rất quan trọng.
Kết luận chương 1
Giáo dục KNHT cho trẻ MG 5-6 tuổi là một trong những nhiệm vụ cần thiết
để giúp trẻ học tập hiệu quả ở lớp một và trở thành công dân có năng lực hợp tác
trong tương lai. Có nhiều phương tiện để giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5- 6
tuổi, trong đó sử dụng hoạt động chơi – hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo là một
cách hiệu quả. Giáo dục KNHT cho trẻ MG 5-6 tuổi thông qua tổ chức hoạt động
chơi thực chất là tác động giáo dục của GV nhằm giúp trẻ hình thành năng lực
tương tác, phối hợp có hiệu quả với người khác khi thực hiện hành động nhằm đạt
được mục tiêu. Giáo viên cần khai thác ưu thế của mỗi giai đoạn trong quy trình tổ
chức hoạt động chơi để lựa chọn các KNHT phù hợp, qua đó giúp trẻ có nhiều cơ
hội được tập luyện, củng cố và cải thiện mức độ phát triển KNHT của bản thân.


10

Quá trình giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi chịu ảnh hưởng bởi một số yếu
tố (đặc điểm phát triển của trẻ, năng lực sư phạm của giáo viên, điều kiện cơ sở vật
chất, môi trường giáo dục, chương trình, tài liệu…), trong đó năng lực của người
GVMN trong tổ chức hoạt động chơi để giáo dục KNHT cho trẻ là yếu tố mang
tính quyết định.

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA GIÁO DỤC KĨ NĂNG
HỢP TÁC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI THÔNG QUA TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG CHƠI
2.1. Giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong Chương
trình Giáo dục mầm non hiện hành của Việt Nam
Kết quả phân tích mục tiêu, nội dung giáo dục và kết quả mong đợi liên quan đến
KNHT của trẻ MG 5-6 tuổi trong Chương trình GDMN cho thấy: 1/Chương trình
GDMN hiện hành đã đề cập đến nội dung giáo dục KNHT cho trẻ. Tuy nhiên nội dung
này còn mang tính khái quát, nhiều KN cốt lõi, mang tính hạt nhân của KNHT nhưng
chưa được đưa vào chương trình. 2/Mục tiêu, phương pháp, hình thức giáo dục và cách
đánh giá KNHT cho trẻ cũng chưa được làm rõ trong Chương trình GDMN. 3/ Còn
thiếu các tiêu chí đánh giá KNHT của trẻ một cách cụ thể, gây khó khăn cho GV trong
đánh giá mức độ KNHT ở trẻ để có các tác động giáo dục phù hợp.
Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi: Có 5 chỉ số (thuộc Chuẩn số 11) liên quan
đến KNHT, bao gồm: “Lắng nghe ý kiến của người khác” (Chỉ số 48); “Trao đổi
ý kiến của mình với các bạn” (Chỉ số 49); “Thể hiện sự thân thiện, đoàn kết với
bạn bè” (Chỉ số 50); “Chấp nhận sự phân công của nhóm bạn và người lớn” (Chỉ
số 51) và “Sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ đơn giản cùng người khác” (Chỉ số 52).
2.2. Thực trạng giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non
2.2.1. Khái quát về quá trình tổ chức khảo sát thực trạng
2.2.1.1. Mục đích khảo sát: Phát hiện thực trạng công tác giáo dục KNHT cho
trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở trường Mầm non hiện nay; thực trạng mức độ KNHT ở trẻ
mẫu giáo 5 – 6 tuổi, làm cơ sở để đề xuất quy trình, cách thức tổ chức hoạt động
chơi nhằm giáo dục KNHT cho trẻ được hiệu quả hơn.

2.2.1.2. Đối tượng và phạm vi khảo sát: 120 trẻ mẫu giáo 5 tuổi tại 2 trường
MN (trong đó có 1 trường mầm non ở khu vực nội thành và 1 trường mầm non ở
khu vực ngoại); 297 GVMN đang trực tiếp dạy tại các lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi ở 16
trường MN thuộc nội thành (149 giáo viên) và ngoại thành (148 giáo viên) trên địa
bàn TP Hà Nội; Thời gian khảo sát: từ tháng 10 năm 2016 đến tháng 12 năm 2016.
2.2.1.3. Nội dung khảo sát:
- Nhận thức của GVMN về mức độ cần thiết của giáo dục KNHT cho trẻ mẫu
giáo 5 – 6 tuổi.
- Thực trạng tổ chức hoạt động chơi để giáo dục KNHT cho trẻ 5-6 tuổi.
- Mức độ KNHT của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
2.2.1.4. Phương pháp, công cụ khảo sát
- Sử dụng kết hợp linh hoạt các phương pháp: Điều tra bằng bảng hỏi với 297
GVMN về vấn đề giáo dục KNHT cho trẻ. Phỏng vấn sâu với GVMN, phụ huynh


11
có con 5 – 6 tuổi; Quan sát và ghi chép hành vi tự nhiên của trẻ trong một số hoạt
động mà dễ bộc lộ các KNHT; Sử dụng bài tập tình huống đối với trẻ; Đánh giá sản
phẩm hoạt động của trẻ; Đàm thoại, trò chuyện với trẻ; Trao đổi với giáo viên, cha
mẹ/ người chăm sóc trẻ.
- Công cụ khảo sát: gồm hệ thống các phiếu hỏi, phiếu quan sát, dự giờ, phiếu
tổng hợp, các bài tập đánh giá, thang đo KNHT
2.2.1.5. Tiêu chí và Thang đánh giá KNHT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
a) Tiêu chí: 4 tiêu chí
- Tiêu chí 1: Tính đầy đủ của kĩ năng trong hành động
- Tiêu chí 2: Tính thành thạo/thuần thục của kĩ năng
- Tiêu chí 3: Tính linh hoạt của kĩ năng
- Tiêu chí 4: Tính hiệu quả của hành động
b) Thang đánh giá: Gồm 4 mức: Tốt, khá, trung bình, yếu
Mức độ tốt: Tất cả các KN đạt từ mức khá trở lên, trong đó các KN cốt lõi1 đạt mức

tốt. Mức độ khá: Tất cả các KN đạt từ mức trung bình trở lên, trong đó các KN cốt lõi
đạt mức khá trở lên. Mức độ trung bình: Tất cả các KN được đánh giá từ mức trung
bình trở lên. Mức độ kém (gần như chưa có KN): Có một trong các KN cốt lõi bị đánh
giá ở mức kém. Tất cả các KN còn lại được đánh giá từ mức kém trở lên.
Kết quả đánh giá, xếp loại của từng KNHT ở trẻ được gán điểm theo 4 mức độ
(Tốt: 4 điểm, Khá: 3 điểm, Trung bình: 2 điểm, Kém: 1 điểm). Sử dụng thang đo
khoảng (Interval Scale) để tính khoảng điểm và gán điểm với mỗi mức độ của
KNHT của mỗi trẻ.
2.2.2. Thực trạng giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
2.2.2.1. Nhận thức của giáo viên về kĩ năng hợp tác của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
- 99,3% GVMN nhận thức và khẳng định sự cần thiết của giáo dục KNHT cho
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Tuy nhiên, chỉ có 60.27% GV được khảo sát đã có cách hiểu
khá toàn diện về KNHT. Số GV còn lại có cách nhìn đúng nhưng mới chỉ ở khía
cạnh nào đó. 5.05% GV đưa ra cách hiểu khác về KNHT, theo hướng nhìn vào một
biểu hiện cụ thể của KNHT, như: “KNHT là việc trẻ hòa đồng, biết quan tâm đến
bạn, biết giúp đỡ nhau”.
- GVMN có xu hướng dành mức độ quan tâm khác nhau đối với mỗi KN hoặc
nhóm KNHT của trẻ. GV chưa dành sự quan tâm thích đáng cho giáo dục từng KN
thành phần mang tính cốt lõi, đặc trưng của KNHT. Sự chú ý mới chỉ dừng lại ở một
hoặc một vài KN cụ thể mà bản thân GV nhận thấy cần phải giáo dục cho trẻ - theo
chủ quan của GV chứ không phải mức độ hiện có của trẻ (KN được GV chú trọng
nhất là KN trình bày ý kiến trong nhóm. KN ít được chú trọng nhất là KN đối thoại
hợp tác trong nhóm. Điều này có nguyên nhân một phần vì nhận thức của GV chưa
toàn diện về KNHT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
1 1.2: KN thỏa thuận với các thành viên trong nhóm về nhiệm vụ của mỗi người; 1.3: KN nhận nhiệm vụ cá nhân; 2.1:
KN thực hiện nhiệm vụ cá nhân trong mối quan hệ với nhiệm vụ chung của nhóm; 2.2: KN quản lí thời gian để hoàn thành
các công việc theo nhóm; 2.5: KN đối thoại hợp tác trong nhóm; 2.6: KN phối hợp hành động; 2.8: KN thể hiện thái độ
hợp tác; 2.9: KN giải quyết mâu thuẫn, bất đồng, xung đột xảy ra khi làm việc cùng nhau trong nhóm; 2.10: KN giúp đỡ
người khác và yêu cầu sự giúp đỡ khi cần thiết; 3.1: KN đánh giá, tự đánh giá.



12
2.2.2.2. Thực trạng giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông
qua tổ chức hoạt động chơi
a) Thực trạng về xác định mục tiêu
97.6% GVMN được hỏi đều trả lời: họ có xác định mục tiêu giáo dục KNHT
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi khi lập kế hoạch tổ chức hoạt động chơi. Tuy nhiên, kết
quả nghiên cứu kế hoạch giáo dục, giáo án và qua phỏng vấn trực tiếp GVMN lại
cho thấy: Khi tổ chức hoạt động chơi (và các hoạt động giáo dục), hầu như GV
quan tâm nhiều đến nội dung của hoạt động chơi (hoặc hoạt động giáo dục mà trẻ
tham gia), ít xác định các mục tiêu cụ thể về giáo dục KNHT cho trẻ.
b) Thực trạng về xác định nội dung
57.66% GVMN được hỏi đều trả lời: Họ có xác định nội dung giáo dục
KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi khi lập kế hoạch tổ chức hoạt động chơi. Trong 2
nội dung về giáo dục KNHT (1/ Cung cấp cho trẻ kiến thức về KNHT; 2/ Tập
luyện, củng cố KNHT cho trẻ), GVMN có xu hướng chỉ đề cập đến nội dung thứ
hai – tập luyện cho trẻ một số KNHT thông qua hoạt động, không có kế hoạch hay
mục tiêu cụ thể để giáo dục các KN này phù hợp với trẻ. Khi triển khai hoạt động,
một số KN cốt lõi của KNHT chưa được GV giáo dục cho trẻ. Trong khi một số
GV có xu hướng quan tâm đến giáo dục các KN giúp trẻ giao tiếp, phối hợp với
người khác thì một số GV khác lại có xu hướng ngược lại, quan tâm nhiều hơn đến
tính trách nhiệm của cá nhân trẻ mà ít chú ý đến việc hướng dẫn trẻ phối hợp với
người khác để đạt được mục tiêu chung trong các hoạt động theo nhóm.
c) Thực trạng về phương pháp, hình thức giáo dục
Các phương pháp GV sử dụng để giáo dục KNHT cho trẻ nhìn chung còn
chưa đa dạng, chưa chú trọng khuyến khích trẻ chủ động thể hiện KNHT (mà trẻ đã
có) trong khi chơi; chưa biết cách tận dụng tình huống và tạo cơ hội cho trẻ được
thực hành KNHT trong các hoạt động hằng ngày. Có sự khác biệt về số năm kinh
nghiệm trong nghề của GV đối với việc sử dụng các biện pháp nhằm giáo dục
KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. Theo đó, GV có tuổi nghề nằm trong khoảng từ

10 đến 20 năm có tỷ lệ thường xuyên sử dụng tất cả các biện pháp. Các đối tượng
GV khác có mức độ sử dụng các biện pháp đơn điệu hơn. Có một điểm chung là
các GV đều lúng túng trong cách tổ chức hoạt động chơi qua đó giáo dục KNHT
cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi (chưa biết lập kế hoạch, triển khai các hoạt động…).
e) Thực trạng về điều kiện, phương tiện, tài liệu GVMN tham khảo
Tất cả GV trong diện khảo sát đều sử dụng đồng thời và khá đồng đều cả 3
kênh cơ bản để tham khảo tài liệu nhằm phục vụ cho quá trình giáo dục KNHT cho
trẻ, đó là: tham khảo từ sách, tài liệu in có bán ở các hiệu sách; tham khảo và học
hỏi lẫn nhau từ đồng nghiệp; bản thân tự tìm hiểu qua tivi, các trang Web, mạng xã
hội. Có sự khác biệt về tuổi của GV đối với tần xuất khai thác các kênh tham khảo:
trong khi 75.0% GV ở khoảng từ 31 đến 40 tuổi có xu hướng sử dụng đồng thời cả
3 kênh tham khảo thì gần như 100% GV trên 50 tuổi được khảo sát không tham
khảo bất cứ nguồn tài liệu nào trong quá trình giáo dục KNHT cho trẻ. Trên thực
tế, tài liệu hướng dẫn sâu về cách thức tổ chức hoạt động chơi nhằm giáo dục
KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi gần như không có.


13
g) Thực trạng đánh giá của GVMN về các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục KNHT cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi

Biểu đồ 2.1. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến giáo dục KNHT cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi
Biểu đồ 2.1 cho thấy: Năng lực, trình độ, nghiệp vụ sư phạm của GVMN và
cách tổ chức hoạt động giáo dục của giáo viên là các yếu tố được ý kiến của
GVMN cho rằng có ảnh hưởng mạnh nhất đến giáo dục KNHT cho trẻ (79.12%
GV cho là rất ảnh hưởng. Điểm trung bình của yếu tố này là 2.79 trên điểm trung
bình tối đa là 3). Tiếp theo đó là yếu tố Môi trường giáo dục ở trường/lớp, gia đình,
cộng đồng nơi trẻ sống và yếu tố sĩ sỗ trẻ/lớp (Điểm trung bình của yếu tố này là
2.64). Yếu tố Điều kiện cơ sở vật chất được cho là có mức độ ảnh hưởng thấp nhất

(59.26% GV cho là có ảnh hưởng, chỉ có 34.68% ý kiến cho là rất ảnh hưởng),
điểm trung bình của yếu tố này là 2.29 trên điểm trung bình tối đa là 3.
h) Thực trạng về tổ chức hoạt động chơi nhằm giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
Kết quả qua phiếu hỏi 297 GVMN cho thấy: Tất cả GV đều tổ chức hoạt động
chơi theo 3 giai đoạn (1/chuẩn bị cho trẻ chơi, 2/quá trình trẻ chơi, 3/kết thúc hoạt
động chơi). Trong đó, hoạt động được 100% GV chú trọng nhất trong mỗi giai
đoạn đó là “GV nhận xét, đánh giá trẻ về kết quả chơi, quá trình chơi”. Hoạt động
có tỷ lệ thấp nhất ý kiến của GV (ở cả nội thành và ngoại thành) trả lời về mức độ
chú ý thực hiện khi tổ chức cho trẻ chơi đó là “Khuyến khích, tôn trọng hoạt động
của cá nhân trẻ và hoạt động tương tác giữa trẻ trong nhóm trong khi chơi” (tỷ lệ
chung là 60.9%, nội thành 56.4%, ngoại thành 65.5%). Các hoạt động mang tính
tương tác giữa trẻ trong khi chơi có xu hướng ít được GV thực hiện hơn (tỷ lệ ý
kiến dưới 75%) so với các hoạt động chủ động từ phía GV để tổ chức hoạt động
chơi cho trẻ (tỷ lệ ý kiến ở mức trên 80%). Ở giai đoạn chuẩn bị chơi, 68.7% GV
chú ý chuẩn bị môi trường vật chất đa dạng, phù hợp để hỗ trợ cho hoạt động chơi
của trẻ. Trong quá trình trẻ chơi, 85.9% GVMN khẳng định rằng họ “chia trẻ thành
từng nhóm nhỏ”; và cho trẻ được trao đổi với nhau trong quá trình chơi. Nhiều GV
“tạo ra các tình huống/hoặc tận dụng tình huống để khuyến khích trẻ trao đổi, thảo
luận với bạn”, “chuẩn bị môi trường tinh thần cởi mở, thân thiện, gần gũi với trẻ”


14
(tỷ lệ ý kiến từ 75.1 đến 83.8%). “Đánh giá, nhận xét quá trình chơi của trẻ” cũng
được 100% GV tiến hành.
Tuy nhiên kết quả nghiên cứu giáo án, quan sát, dự giờ và trò chuyện với
GV về cách tổ chức hoạt động chơi cho trẻ, cho thấy:
- Giáo án, kế hoạch giáo dục của GVMN không thấy xác định mục tiêu giáo
dục KNHT. Mục tiêu giáo dục KNHT cho trẻ hầu như chưa được đề cập đến khi
xác định mục tiêu hoạt động chơi của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi cũng như chuẩn bị điều
kiện cơ sở vật chất cho trẻ hoạt động.

- Ở giai đoạn “chuẩn bị cho trẻ chơi” của tất cả các thời điểm chơi của trẻ,
trẻ không tham gia vào quá trình chuẩn bị mà GV là người chuẩn bị về mọi
điều kiện vật chất, không gian, phương tiện, vật liệu chơi. Trẻ gần như đã được
“ấn định” vào nhóm chơi nào đó (theo tuần hoặc theo ngày). Trước khi c hơi, trẻ
không được tham gia vào hoạt động cùng nhau xây dựng quy tắc làm việc của
nhóm.
- Trong toàn bộ quá trình tổ chức cho trẻ chơi, GV chưa biết cách giáo dục
KNHT cho trẻ, cả ở khía cạnh chủ động tạo ra bối cảnh, cơ hội và tận dụng các tình
huống chơi để giáo dục KN này cho trẻ. Trong quá trình trẻ chơi, các mối quan hệ
giữa các trẻ lỏng lẻo, thiếu sự ràng buộc, gắn bó – yếu tố quan trọng của sự hợp tác
giữa các thành viên trong một nhóm. GV thường không bao quát được vấn đề này
cũng bởi một phần lý do là họ có xu hướng quan tâm nhiều hơn đến kết quả cuối
cùng của nhóm chơi (có được sản phẩm/kết quả theo yêu cầu) mà không quan tâm
đến quá trình trẻ chơi, phối hợp ra sao để tạo ra được kết quả chung đó.
2.2.3. Thực trạng mức độ kĩ năng hợp tác của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
- KNHT ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi chưa cao, chủ yếu tập trung ở mức độ Trung
bình và một số ít ở mức độ Khá, không có trẻ đạt mức Tốt: 58.3 % số trẻ có KNHT ở
mức trung bình và 26.7% ở mức khá. Trong số 15 KN thì có 2 KN ở mức độ kém
nhất đó là KN giải quyết mâu thuẫn, bất đồng và KN điều chỉnh và tự điều chỉnh (KN
này có điểm trung bình ở mức thấp nhất). 2 KN ở mức khá đó là: KN tham gia vào
nhóm, KN thể hiện thái độ hợp tác. Các KN còn lại đều ở mức trung bình.
- Theo khu vực: Có sự chênh lệch về mức độ KNHT ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
đang học ở trường MN thuộc khu vực ngoại thành với trẻ đang học ở khu vực nội
thành. Tuy nhiên, sự chênh lệch này là không nhiều. Trong 3 nhóm KNHT thì
Nhóm KN tổ chức nhóm có tỷ lệ trẻ đạt mức tốt chiếm tỷ lệ cao hơn so với 2 nhóm
còn lại (9.2% so với 0% và 0.8%). Nhóm KN thực hiện nhiệm vụ là nhóm KN có tỷ
lệ trẻ ở mức trung bình (57.5%) và kém (17.5%) cao nhất.
- Theo giới tính: Giữa trẻ trai và trẻ gái có sự khác biệt về KNHT nói chung
cũng như mức độ của từng nhóm KNHT. Theo kết quả nghiên cứu, trẻ gái có mức
độ đạt được ở KNHT nói chung và trong từng nhóm KNHT và đều cao hơn so với

trẻ trai.
- Theo môi trường sống của trẻ ở gia đình: Có sự khác biệt về mức độ KNHT
ở trẻ. Những đứa trẻ sống trong kiểu gia đình gồm có bố mẹ và họ hàng (ông, bà,
cô dì, chú, bác…) sẽ có KNHT ở mức phát triển cao hơn hẳn so với trẻ sống ở kiểu


15
gia đình chỉ có bố mẹ (hoặc bố mẹ ly dị nhau); hoặc gia đình chỉ có bố mẹ và rất ít
anh chị em.
Kết quả thực nghiệm qua nghiên cứu 2 trường hợp điển hình (trẻ trai

N.H.P, mã nghiên cứu số 11 và trẻ gái N.V.N.V, mã nghiên cứu số 6) đã
làm sáng tỏ hơn kết quả nghiên cứu.
2.2.4. Đánh giá chung về thực trạng
* Ưu điểm: GVMN có trình độ, kinh nghiệm và khả năng để tổ chức hoạt
động giáo dục KNHT cho trẻ. GV đã nhận thức được sự cần thiết của giáo dục
KNHT cho trẻ. Trên thực tế, GVMN đã sử dụng hoạt động chơi như một phương
tiện để qua đó giáo dục KNHT cho trẻ (dù rằng cách thức thực hiện còn chưa thực
sự phù hợp). Chương trình GDMN hiện hành đã đề cập đến nội dung giáo dục
KNHT cho trẻ. Bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi cũng có các tiêu chí và chỉ số đánh
giá liên quan trực tiếp đến KN này. Điều kiện cơ sở vật chất của trường lớp về cơ
bản đáp ứng tốt nhu cầu chăm sóc giáo dục trẻ. KNHT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi đã
có (tuy rằng hầu hết đang ở mức trung bình). Đây là nền tảng quan trọng để giúp
cải thiện mức độ này ở trẻ, nếu các tác động giáo dục là phù hợp.
* Hạn chế: Nhận thức của GVMN còn chưa toàn diện, sâu sắc về KNHT, dẫn
đến quá trình tổ chức, GV chưa chú ý thích đáng khi giáo dục từng KN thành phần
mang tính cốt lõi, đặc trưng của KNHT. Hạn chế lớn nhất là GV gặp khó khăn
trong lập kế hoạch và tổ chức hoạt động chơi, qua đó giáo dục KNHT cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi. GVMN chưa biết cách làm, do họ chưa được trang bị kiến thức và
thực hành. Nhiều kĩ năng quan trọng, mang tính hạt nhân của KNHT chưa được đề

cập đến trong Chương trình Chương trình GDMN hiện hành. Sự kết hợp gia đình nhà trường chưa thực sự hiệu quả. KNHT ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi chưa tốt, chủ yếu
tập trung ở mức độ Trung bình và một số ít ở mức độ Khá.
* Nguyên nhân: Một số nguyên nhân sau đây là cơ bản: 1GV chưa biết cách
lập kế hoạch và tổ chức tốt hoạt động chơi theo một quy trình hợp lý để giáo dục
KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi. 2/Không có tài liệu hướng dẫn sâu về nội dung
giáo dục KNHT cho trẻ hoặc nếu có thì vẫn còn chưa cụ thể. 3/ Một số nơi, sĩ số trẻ
cao so với quy định(92.13% GVMN đề cập đến khó khăn này). 4/ Môi trường nơi
trẻ sinh sống với các đặc điểm văn hóa và trình độ nhận thức của phụ huynh còn
hạn chế. Còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa GV và phụ huynh.
2.2.5. Phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính
Kết quả cho thấy: Cả 4 yếu tố (gồm: 1/Kĩ năng tổ chức hoạt động chơi của
GVMN;2/ Tần suất, phương pháp tổ chức HĐ chơi mà GV sử dụng; 3/ Hình thức
giáo dục KNHT mà GV sử dụng; 4/ Môi trường sinh sống của trẻ ở gia đình) đều
ảnh hưởng và có mối tương quan thuận đối với mức độ KNHT của trẻ, trong đó Kĩ
năng tổ chức hoạt động chơi của GVMN là yếu tố có mối tương quan mạnh với
tổng điểm KNHT của trẻ. Như vậy là, nếu tác động vào yếu tố này thì sẽ cải thiện
mức độ KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
Kết luận chương 2
Bước đầu GVMN đã nhận thức đúng về giáo dục KNHT cho trẻ MG 5 – 6
tuổi, tuy nhiên còn chưa đầy đủ về các KNHT cụ thể cũng như ưu thế của HĐ chơi


16
đối với giáo dục KN này cho trẻ MG 5-6 tuổi; còn hạn chế trong việc lập kế hoạch
và tổ chức tốt hoạt động chơi theo một quy trình hợp lý để giáo dục KNHT cho trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi; chưa biết lựa chọn KNHT để giáo dục cho trẻ phù hợp với từng
giai đoạn trong quy trình tổ chức hoạt động chơi; Trong quá trình trẻ tham gia hoạt động
chơi, GVMN chưa biết cách hướng dẫn, gợi mở để “đẩy” trẻ vào tình huống buộc chúng
phải tương tác, phối hợp với nhau. Giáo viên cũng chưa tận dụng tốt và tạo cơ hội cho trẻ
được trải nghiệm, thực hành KNHT trong các hoạt động hằng ngày như là một cách

để củng cố, luyện tập KNHT hướng đến đạt được sự thành thạo, linh hoạt và
chuyển thành một thói quen của trẻ trong cuộc sống.
KNHT của đa số trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi phần lớn đang ở mức trung bình,
một số ở mức khá, không có trẻ đạt mức Tốt. Hầu như toàn bộ các KN có vai trò
hạt nhân, liên quan đến sự hợp tác, tương tác giữa các cá nhân trong quá trình cùng
tham gia hoạt động đang ở mức trung bình và yếu , trong đó yếu nhất là KN điều
chỉnh, tự điều chỉnh và KN giải quyết mâu thuẫn, bất đồng.
Có mối tương quan giữa giới tính của trẻ cũng như môi trường sống của trẻ ở
gia đình đối với mức độ KNHT ở trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi theo xu hướng trẻ gái có
mức độ đạt được ở KNHT cao hơn so với trẻ trai; trẻ sống trong kiểu gia đình gồm
có bố mẹ và họ hàng sẽ có KNHT ở mức phát triển cao hơn hẳn so với trẻ sống ở
kiểu gia đình truyền thống chỉ có bố mẹ (hoặc bố mẹ ly dị nhau) hoặc gia đình chỉ
có bố mẹ và rất ít anh chị em.
Phân tích hồi quy cho thấy: kĩ năng tổ chức hoạt động chơi của GVMN và
hình thức GV sử dụng để giáo dục KNHT là 2 yếu tố có mối tương quan thuận ở
mức độ mạnh với tổng điểm KNHT của trẻ. Có nghĩa là, nếu tác động vào 2 yếu tố
này, thì sẽ cải thiện được mức độ KNHT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
CHƯƠNG 3. TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CHƠI NHẰM GIÁO DỤC KĨ
NĂNG HỢP TÁC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5-6 TUỔI VÀ THỰC NGHIỆM
3.1. Một số yêu cầu tổ chức hoạt động chơi nhằm giáo dục kĩ năng hợp
tác cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
- Đảm bảo các đặc điểm cơ bản của hoạt động chơi ở trẻ mẫu giáo.
- Đảm bảo lựa chọn các kĩ năng hợp tác để giáo dục cho trẻ phù hợp với ưu
thế của mỗi giai đoạn trong quá trình tổ chức hoạt động chơi.
- Đảm bảo sự tham gia của mọi trẻ em, trọng tâm là tạo ra các mối quan hệ
hợp tác giữa trẻ với bạn bè trong quá trình chơi theo hướng: trẻ em có nhiều cơ hội
được trải nghiệm, tập luyện, củng cố kĩ năng hợp tác.
- Đảm bảo tính nhất quán trong giáo dục KNHT cho trẻ.
- Đảm bảo tính phát triển trong quá trình giáo dục KNHT cho trẻ.
3.2. Tổ chức hoạt động chơi nhằm giáo dục kĩ năng hợp tác cho trẻ mẫu

giáo 5-6 tuổi
3.2.1. Giai đoạn 1- Chuẩn bị cho trẻ chơi: Thiết lập các nhóm hoạt động và
khuyến khích trẻ tham gia vào các hoạt động theo nhóm ngay trong giai đoạn
chuẩn bị cho trẻ chơi


17
Hoạt động của Giáo viên
1. Lập kế hoạch hoạt động chơi
nhằm giáo dục KNHT:
- Xác định mục tiêu giáo dục
của hoạt động chơi, đồng thời
xác định mục tiêu về giáo dục
KNHT
- Xác định được mức độ KNHT
của trẻ cũng như một số đặc
điểm cá nhân nổi bật để lựa
chọn nội dung và có tác động
giáo dục phù hợp:
- Lựa chọn các KNHT cần giáo
dục cho trẻ phù hợp với hoạt
động chơi, phù hợp với mỗi giai
đoạn của quá trình tổ chức hoạt
động chơi:
- Xây dựng nội dung HĐ chơi
để giáo dục KNHT cho trẻ: Trẻ
5 tuổi đã có tính độc lập trong
khi chơi, vì thế GV có thể
không phải luôn luôn xây dựng
nội dung chơi cho trẻ, mà tận

dụng chính nội dung mà trẻ
chơi, hướng dẫn trẻ phát triển
nội dung chơi đó, theo hướng
tăng tính ràng buộc và sự phối
hợp giữa trẻ trong khi chơi.
- Xác định (hoặc dự kiến trước)
các “kịch bản” về quy mô và
thành phần nhóm trẻ khi chơi,
lựa chọn hình thức tổ chức hoạt
động chơi:
- Lựa chọn phương pháp tổ chức
hoạt động chơi phù hợp để qua đó
giáo dục KNHT cho trẻ.
- Xây dựng tiến trình của hoạt
động chơi (hoặc dự kiến trước) các
“kịch bản” về tiến trình của hoạt
động chơi, thời gian tương ứng

Hoạt động của trẻ

Trẻ tham gia đề xuất nội
dung chơi, cách chơi,
cách mở rộng và phát
triển trò chơi

KNHT mà trẻ
“học” được


18

2. Tổ chức cho trẻ cùng tham
gia vào quá trình chuẩn bị
không gian diễn ra hoạt động
chơi và các điều kiện vật chất
(chỗ chơi, đồ chơi, bối cảnh
chơi...) cũng như chuẩn bị tâm
thế cho trẻ bước vào hoạt động
chơi

3. Làm giàu vốn biểu tượng cho
trẻ về cuộc sống xung quanh
4. Gây hứng thú cho trẻ bước
vào hoạt động chơi
5. Thiết lập các nhóm hoạt động
Hướng dẫn trẻ chọn nhóm,
chọn bạn chơi; thỏa thuận, phân
công công việc cho mỗi thành
viên trong nhóm và thống nhất
về mục tiêu, quy tắc hoạt động
của nhóm.

Trẻ tham gia (theo cá
nhân hoặc nhóm) cùng
với GV để chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để chơi

* KN trọng tâm:
KN tham gia vào
nhóm; các KN
thuộc nhóm KN

tương tác giữa các
cá nhân, điển hình
như: KN phân
công nhiệm vụ và
nhận nhiệm vụ cá
nhân; KN phối hợp
hành động; KN
điều chỉnh và tự
điều chỉnh…
* KN bổ trợ: KN
nhận nhiệm vụ cá
nhân, KN trình bày ý
kiến trong nhóm…

- Trẻ hình thành nhóm
hoạt động: tự chọn bạn
chơi, nhóm chơi, nội dung
chơi và cách chơi
- Trẻ có thẻ trao đổi với
nhau để tự đề xuất ý
tưởng chơi
- Trẻ liên kết, hợp tác với
nhau trong khi chơi: Cùng
thỏa thuận/ phân công
công việc cho mỗi thành viên
trong nhóm chơi và thống
nhất về mục tiêu, quy tắc hoạt
động của nhóm, nhiệm vụ
của mỗi cá nhân, nhóm.
Nhiệm vụ nào của cá nhân,

nhiệm vụ nào của nhóm
- Trẻ có thể trao đổi về cách
cùng nhau tự phát triển nội
dung chơi, cách chơi

* KN trọng tâm:
KN tham gia vào
nhóm; các KN
thuộc Nhóm KN
tương tác giữa các
cá nhân, điển hình
như: KN phân
công nhiệm vụ và
nhận nhiệm vụ cá
nhân; KN lắng
nghe tích cực; KN
trình bày ý kiến
trong nhóm; KN
đối thoại hợp tác
trong nhóm…
* KN bổ trợ: KN
nêu nhận xét và
phản hồi ý kiến


19
3.2.2. Giai đoạn 2 – Hướng dẫn trẻ chơi: Thúc đẩy các hoạt động tương tác
giữa trẻ trên nền tảng củng cố các kĩ năng hợp tác đã có và mở rộng kĩ năng
mới, coi kĩ năng hợp tác như là đích cần hướng đến, đồng thời là điểm tựa của
quá trình liên kết trẻ trong khi chơi

Hoạt động của Giáo viên
- Tiếp tục hướng dẫn trẻ thoả thuận, phân công
công việc cho mỗi thành viên trong nhóm chơi và
cùng nhắc lại quy tắc hoạt động của nhóm sau khi
trẻ đã về từng nhóm chơi;
- Giúp trẻ hình thành các nhóm chơi: tự
chọn bạn chơi, nhóm chơi, nội dung chơi và
cách chơi
- Khuyến khích trẻ trao đổi với nhau để tự
đề xuất ý tưởng chơi.
- Tổ chức quá trình trẻ chơi một cách tự
nhiên, hứng thú, đảm bảo các đặc điểm hoạt
động chơi của trẻ đồng thời khéo léo dẫn
dắt, gợi mở để làm nảy sinh ở trẻ nhu cầu và hành
vi thực hiện hành động chơi mang tính hợp tác;
thiết lập các mối quan hệ (giữa cá nhân trẻ, giữa
nhóm trẻ với nhau) trong khi chơi, giúp trẻ tích
cực giao tiếp với nhau.
- Chơi cùng trẻ; lồng yêu cầu giáo dục
KNHT vào động cơ chơi của trẻ để điều
chỉnh các mối quan hệ trong nhóm hướng
đến sự hợp tác tích cực
- Quan sát các biểu hiện của trẻ về khả năng
thiết lập mối quan hệ với bạn chơi; thay đổi
để trò chơi luôn mới mẻ và có sự hấp dẫn,
đồng thời luôn tạo cơ hội cho trẻ được
luyện tập các KNHT một cách tích cực
trong khi chơi
Củng cố các nhóm chơi, hướng dẫn trẻ biết
liên kết giữa một số nhóm chơi với nhau

theo chủ đề chơi hoặc nội dung chơi có liên
quan. Hướng dẫn trẻ mở rộng chủ đề và nội
dung chơi. Chỉ cho trẻ biết cách phối hợp
hành động cùng nhau, biết cách tìm bạn để
chơi bằng cách tạo ra những tình huống
buộc trẻ thấy cần phải có sự phối hợp hành
động.

Hoạt động của
Trẻ
- Thoả thuận
chơi với nhau
(nếu có) sau khi
trẻ đã về từng
nhóm chơi;
- Thiết lập các
mối quan hệ
(giữa cá nhân
trẻ, giữa nhóm
trẻ với nhau)
trong khi chơi
- Chơi cùng nhau
trong nhóm; có
thể thay đổi về
nội dung, cách
chơi, đồ chơi,
bạn
cùng
chơi...theo
ý

thích của trẻ,
dưới sự tổ chức
của GV
- Chơi tự nhiên,
vui vẻ; phối hợp
hành động cùng
nhau trong khi
chơi, liên kết với
nhau trong một
nhóm
chơi
và/hoặc giữa các
nhóm chơi với
nhau

KNHT mà trẻ
“học” được
* KN trọng
tâm:
Nhóm
KN thực hiện
nhiệm vụ và
Nhóm
KN
tương tác giữa
các cá nhân,
điển hình như:
KN thực hiện
nhiệm vụ cá
nhân

trong
mối quan hệ
với nhiệm vụ
chung
của
nhóm;
KN
quản lí thời
gian; KN phối
hợp
hành
động; KN giải
quyết
mâu
thuẫn,
bất
đồng,
xung
đột xảy ra khi
làm việc cùng
nhau
trong
nhóm;
KN
giúp đỡ người
khác và yêu
cầu sự giúp đỡ
khi cần thiết…
* KN bổ trợ:
KN nêu nhận

xét và phản
hồi ý kiến…


20
Từng loại trò chơi (đóng vai theo chủ đề, đóng kịch, xây dựng-lắp ráp-ghép
hình, học tập, vận động) được hướng dẫn tổ chức theo cách thức tạo ra các mối
quan hệ hợp tác, liên kết, gắn bó giữa trẻ với người khác, đảm bảo cho trẻ có nhiều
cơ hội được trải nghiệm, tập luyện, thực hành KNHT trong những điều kiện, tình
huống chơi khác nhau.
3.2.3. Giai đoạn 3- Kết thúc hoạt động chơi - GV đánh giá, nhận xét quá
trình chơi của trẻ và hướng dẫn trẻ đánh giá, nhận xét quá trình chơi: Lôi cuốn trẻ
tham gia vào quá trình cùng nhau đánh giá quá trình chơi, trong đó hướng sự chú ý của
trẻ đến lợi ích của các hành vi hợp tác giữa trẻ mang lại cho hoạt động chơi
Hoạt động của Giáo viên
- Đưa ra những câu hỏi gợi mở nhằm lôi cuốn trẻ tham
gia vào quá trình cùng nhau đánh giá quá trình chơi
của mình và của các bạn, trong đó hướng sự chú ý của
trẻ đến lợi ích của các hành vi hợp tác giữa trẻ mang lại
cho hoạt động.
- Nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò của sự phối hợp cùng
nhau giữa các thành viên, giúp cho mỗi trẻ thấy được
sức mạnh của tình đoàn kết, sự hợp tác với nhau khi
cùng thực hiện một nhiệm vụ chung.
- Khuyến khích trẻ chia sẻ kinh nghiệm về cách làm thế
nào trẻ hợp tác được với các bạn; cùng trẻ đúc rút kinh
nghiệm và khuyến khích trẻ vận dụng kinh nghiệm
cũng như KNHT đã có vào các tình huống khác trong
khi chơi và trong cuộc sống thực.
- Hướng dẫn trẻ cách thức (về lời nói, ngữ điệu giọng

nói, cử chỉ, thái độ…) khi nêu nhận xét, ý kiến của bản
thân, hoặc phản hồi lại ý kiến của người khác cần chú
trọng vào điểm mạnh và những đóng góp của mỗi
người, quá trình tham gia của họ đối với thành quả
chung của nhóm, hơn là nhấn mạnh vào một vài lỗi
lầm hay hành vi không tốt của họ.
* Hoạt động tiếp nối quá trình: Từ giai đoạn 3 này,
GV phát hiện mức độ của mỗi KNHT ở mỗi trẻ để lưu
ý tiếp tục điều chỉnh kế hoạch và biện pháp giáo dục
KNHT cho trẻ trong các hoạt động chơi tiếp theo hoặc
trong các hoạt động khác (lao động, “học”, ăn ngủ vệ
sinh…) sao cho phù hợp, hiệu quả với trẻ.

Hoạt
động
của Trẻ
Thể
hiện ý
kiến của
bản
thân khi
tự đánh
giá
mình và
đánh
giá các
thành
viên của
nhóm
về KN

chơi và
KNHT.

KNHT mà
trẻ học được
* KN trọng
tâm: Các KN
thuộc nhóm
KN đánh giá,
phản hồi: KN
đánh giá, tự
đánh giá; KN
nêu nhận xét
và phản hồi ý
kiến.
* KN bổ trợ:
KN
lắng
nghe
tích
cực, KN thể
hiện thái độ
hợp tác


21
3.3. Thực nghiệm sư phạm
3.3.1. Khái quát về quá trình thực nghiệm
3.3.1.1. Mục đích thực nghiệm: kiểm nghiệm tính hiệu quả và tính khả thi quy
trình, cách thức tổ chức hoạt động chơi nhằm giáo dục KNHT cho trẻ 5-6 tuổi, qua

đó xác định sự phù hợp giữa kết quả nghiên cứu với giả thuyết khoa học đã đề ra.
3.3.1.2. Nội dung thực nghiệm: Quy trình, cách thức tổ chức hoạt động chơi
(theo 3 giai đoạn) nhằm giáo dục KNHT cho trẻ 5-6 tuổi
3.3.1.3. Đối tượng thực nghiệm: Thực nghiệm thăm dò (4 tuần): tiến hành trên
20 trẻ lớp MG 5-6 tuổi – trường MN thực hành Hoa Hồng - Hà Nội. Thực nghiệm
chính thức (16 tuần): trên 120 trẻ ở 4 lớp MGL thuộc các trường: MN Di Trạchhuyện Hoài Đức, MN Quang Trung- quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (tại mỗi trường: 30
trẻ ở nhóm thực nghiệm, 30 trẻ ở nhóm đối chứng). Các lớp thực nghiệm (TN) và
đối chứng (ĐC) đều có điều kiện tương đồng nhau (về số trẻ, giới tính của trẻ, tuổi
và năng lực của giáo viên, chất lượng đầu vào trước thực nghiệm của trẻ, cơ sở vật
chất…). Nhóm ĐC thực hiện tổ chức hoạt động chơi với cách thức mà các cô giáo
đang triển khai. Nhóm TN tổ chức hoạt động chơi với cách thức và các điều kiện
như trong nghiên cứu này đã xây dựng.
3.3.1.4. Tiến trình thực nghiệm
- Chọn mẫu TN và ĐC tương đồng nhau (về giới tính, số lượng và mức độ
KNHT của trẻ, tuổi đời và năng lực sư phạm của GV, điều kiện cơ sở vật chất...).
- Hướng dẫn, trao đổi với GV ở nhóm TN về mục đích, nội dung, cách tiến
hành tổ chức hoạt động chơi theo ý tưởng của nghiên cứu này.
- Chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho thực nghiệm (công cụ, phương tiện…).
- Thực nghiệm vòng 1 (thăm dò): Nhằm thử các công cụ, kiểm tra độ tin cậy
của thang đánh giá, tính phù hợp của toàn bộ quá trình. Kết quả thực nghiệm để
phục vụ cho điều chỉnh công cụ và cách triển khai, giúp cho kết quả nghiên cứu đạt
được tính khoa học, chính xác khi TN chính thức.
- Thực nghiệm vòng 2 (chính thức): Tiến hành đo đầu vào và đầu ra (trước TN
và sau TN) về mức độ KNHT của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở cả hai nhóm ĐC và TN.
- Thu thập thông tin, số liệu và tiến hành xử lý (về định lượng và định tính);
so sánh, đối chiếu và phân tích kết quả.
3.3.1.5. Cách đánh giá, phân tích kết quả thực nghiệm
- Đánh giá mức độ KNHT của trẻ theo các tiêu chí và thang đánh giá; Sử dụng
đồng thời các kết quả của trẻ khi thực hiện các bài tập đo với kết quả quan sát các
biểu hiện của trẻ trong các tình huống.

- Sử dụng phần mềm SPSS 22.0 để xử lý số liệu, phân tích kết quả thực nghiệm
3.3.2. Phân tích kết quả thực nghiệm
3.3.2.1. Kết quả thực nghiệm vòng 1 (thực nghiệm thăm dò)
Kết quả thực nghiệm thăm dò cho thấy: Các công cụ và thang đánh giá cơ bản
là phù hợp, đảm bảo độ tin cậy và tính hiệu quả để có thể đánh giá được mức độ
KNHT của trẻ theo các tiêu chí đo. Mức độ KNHT ở trẻ cả hai nhóm TN và ĐC
phổ biến ở mức trung bình. Tuy nhiên, cần lưu ý một số vấn đề sau đây khi triển
khai thực nghiệm chính thức: (+) chú ý đến kết quả của phương pháp quan sát hành


22
vi tự nhiên của trẻ trong các hoạt động giáo dục ở trường MN để xác định chính
xác, khách quan mức độ KNHT của trẻ; (+) chú ý đến sự khác biệt về giới tính, các
đặc điểm về văn hóa, xã hội, cộng đồng dân cư, gia đình của trẻ; (+) điều chỉnh
hình thức của một số công cụ để quá trình ghi chép, tổng hợp kết quả được khoa
học hơn; lược bỏ một số câu hỏi trong phiếu phỏng vấn sâu dành cho GVMN
không thực sự giúp cho việc lấy được các thông tin cần thiết.
3.3.2.2. Kết quả thực nghiệm vòng 2 (thực nghiệm chính thức)
a) Kết quả của nhóm TN và ĐC trước và sau thực nghiệm: Có sự khác biệt về
mức độ KNHT của trẻ trong nhóm TN và đối chứng về kết quả ở mỗi nhóm trước và
sau khi thực nghiệm. Tuy nhiên, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê, chứng tỏ mức độ
tăng thực sự về KNHT chỉ diễn ra với trẻ ở nhóm TN. Sau khi thực nghiệm, điểm
trung bình của tất cả các KNHT của trẻ ở lớp thực nghiệm đều cao hơn so với của
lớp đối chứng và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0.05).
b) Mức độ KN hợp tác của trẻ (theo khu vực): Có sự khác biệt về KNHT giữa
nhóm trẻ ở khu vực nội thành và ngoại thành. Điều này chỉ xảy ra với một số KNHT
cụ thể (KN tham gia vào nhóm) còn nhìn chung sự khác biệt này là không đáng kể.

Biểu đồ 3.1. Mức độ KNHT của trẻ sau TN (theo khu vực)
c) Mức độ KN hợp tác của trẻ (theo giới tính): Trẻ gái có điểm trung bình ở

các KN cao hơn trẻ trai (Điểm TB của trẻ gái là 51.8 , của trẻ trai là 47.78). Các
KN mà ở trẻ gái có xu hướng phát triển tốt hơn hẳn so với trẻ trai đó là “KN nhận
nhiệm vụ cá nhân”, “KN trình bày ý kiến trong nhóm”, “KN thể hiện thái độ hợp
tác”, “KN giúp đỡ người khác và yêu cầu sự giúp đỡ”, “KN đánh giá, tự đánh giá”,
“KN nêu nhận xét và phản hồi ý kiến”. Ngược lại, trẻ trai mặc dù có khó khăn ở KN
đưa ra lời đề nghị để được giúp đỡ khi cần thiết nhưng lại có xu hướng phát triển
tốt ở KN giúp đỡ người khác
d) Mức độ KN hợp tác của trẻ (theo môi trường sống của trẻ ở gia đình)
Trẻ sống trong gia đình lớn (gia đình có anh chị em, bố mẹ và một số người
họ hàng như cô,dì, chú, bác…) có điểm ở các KN thành phần và cả KNHT đều cao
hơn hẳn so với trẻ sống trong kiểu gia đình nhỏ (gia đình chỉ có trẻ với bố, mẹ hoặc
trẻ, 1 người anh chị em của trẻ và bố, mẹ).


23

Biểu đồ 3.2. Mức độ KNHT của trẻ ở nhóm TN trước và sau thực nghiệm
Kết quả thực nghiệm cho thấy:
- Sau thực nghiệm chính thức, kết quả của nhóm TN tăng hơn rõ rệt so với
trước tác động ở tất cả các KNHT và mức tăng đó là có giá trị và đảm bảo độ tin
cậy. Trong khi đó ở nhóm ĐC mặc dù có những thay đổi theo hướng cao hơn trước
TN nhưng sự thay đổi đó là không đáng kể, sự phát triển ở các KNHT chưa rõ nét,
chưa có sự chuyển biến đồng bộ. Điều này cho phép khẳng định cách tổ chức hoạt
động chơi được đề xuất là có tính khả thi, hiệu quả và giả thuyết khoa học đưa ra là
đúng đắn.
- Có sự khác biệt về mức độ KNHT của trẻ trong nhóm TN và ĐC về kết quả
ở mỗi nhóm trước và sau khi thực nghiệm. Tuy nhiên, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê, chứng tỏ mức độ tăng thực sự về KNHT chỉ diễn ra với trẻ ở nhóm TN.
- Phân tích kết quả định tính qua nghiên cứu 02 trường hợp điển hình (1 trẻ
trai, có KNHT ở mức khá, hiện sống trong gia đình có 3 thế hệ, mẹ làm nội trợ, bố

làm kinh doanh; 1 trẻ gái, có KNHT ở mức yếu, sống cùng với mẹ làm kinh doanh,
hiện đã ly hôn) cũng cho thấy sự chuyển biến tích cực về KNHT của trẻ dưới tác
động của chương trình thực nghiệm, đồng thời tiếp tục một lần nữa cho thấy rõ mối
quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển KNHT của trẻ.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
1.1.KNHT là một phần của năng lực, cho phép cá nhân thực hiện có kết quả
các hành động phối hợp với nhau dựa trên cơ sở sự phụ thuộc, sự tương tác tích
cực và trách nhiệm cá nhân để giải quyết vấn đề, nhằm đạt được mục tiêu chung
trong những điều kiện nhất định. Giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi có ý
nghĩa quan trọng cả ở góc độ lý luận và thực tiễn. Chơi là hoạt động có ưu thế nổi
trội trong giáo dục KNHT cho trẻ. Quá trình giáo dục này chịu ảnh hưởng của một
số yếu tố, trong đó năng lực và KN của người GVMN trong tổ chức hoạt động cho
trẻ chơi là yếu tố có ảnh hưởng mạnh nhất. Giáo dục KNHT cho trẻ mẫu giáo 5-6
tuổi thông qua tổ chức hoạt động chơi cần đảm bảo tính thống nhất trong các khâu:
xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và đánh giá kết quả.


×