Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Đề án GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC NỢ ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI TRONG THỜI GIAN TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.11 KB, 37 trang )

Đề án môn học

MỤC LỤC

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

Từ viết tắt

Nội dung

1

BHXH

Bảo hiểm xã hội

2

NLĐ

Người lao động

3



ASXH

An sinh xã hội

4

TNLĐ

Tai nạn lao động

5

BHYT

Bảo hiểm y tế

6

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học


DANH MỤC BẢNG BIỂU

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
đối với người lao động nhằm từng bước mở rộng và nâng cao đảm bảo vật
chất, góp phần ổn định đời sống cho người lao động khi gặp rủi ro như bị ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sẩy, hết tuổi lao động, qua đời.
Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế đất nước trong thời gian vừa qua ,
chính sách BHXH cũng được điều chỉnh, thay đổi để phối hợp với sự chuyển
đổi của nền kinh tế đất nước, với nguyện vọng của người lao động.
Quỹ BHXH là một bộ phận cốt lõi không thể thiếu được và có thể nói nó
là vai trò quan trọng nhất trong hoạt động BHXH. Việc quản lý sử dụng quỹ
BHXH (thu - chi quỹ BHXH) nó ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại và phát
triển của quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự ổn định của chính sách BHXH. Vậy
vấn đề làm thế nào để có thể nâng cao được hiệu quả trong việc thu -chi quỹ
BHXH đây là câu hỏi được đặt ra đối với mỗi nhà kinh tế, những người quan
tâm nghiên cứu hoạt động BHXH.
Việc đảm bảo một quỹ BHXH bền vững là việc làm hết sức cần thiết,
trong đó yếu tố quan trọng nhất là phải thực hiện tốt khâu quản lý thu BHXH.
Hiện nay, trong công tác quản lý BHXH ở nước ta đang gặp phải những trở
ngại lớn, đặc biệt là tình trạng các doanh nghiệp nợ đóng BHXH đang diễn ra
ở hầu hết các địa phương và trở thành vấn đề nan giải trong khâu quản lý thu
BHXH. Theo thống kê của BHXH Việt Nam, tính đến hết năm 2011 số tiền

nợ đọng BHXH của các doanh nghiệp là 3338 nghìn tỷ đồng. Tình trạng nợ
đọng BHXH tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp thuộc các ngành xây dựng,
cầu đường, cơ khí, giao thông, dệt may,… Đặc biệt, số doanh nghiệp nợ đọng
tiền BHXH trong thời gian dài (hơn 12 tháng) với mức nợ trên 1 tỷ đồng còn
rất nhiều. Tình trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của người
lao động trong cả nước. Theo quy định, khi doanh nghiệp không nộp BHXH
thì người lao động cũng không được hưởng BHXH. Do đó, cần phải có những
biện pháp tích cực để thu hồi khoản tiền nợ đọng này để đảm bảo quyền lợi

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

1 GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
cho người lao động cũng như quyền lợi của cơ quan bảo hiểm. Từ đó đảm bảo
thực hiện tốt chính sách ASXH.
Là sinh viên Khoa Bảo hiểm trường Đại học Kinh tế Quốc dân, để đóng
góp một phần sức lực của mình cho việc đánh giá và đưa ra những giải pháp
nhằm hạn chế tình trạng nợ đọng BHXH – một vấn đề nóng ở Việt Nam hiện
nay. Do còn hạn chế về trình độ kiến thức cũng như các tài liệu tham khảo
nên chắc chắn còn có nhiều thiếu sót, hạn chế. Em rất mong các thầy cô đóng
góp ý kiến chỉ bảo những thiếu sót trong bài viết này để các lần viết sau có
điều kiện nâng cao chất lượng của bài viết.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo Tôn Thị Thanh Huyền đã
tận tình giúp đỡ em trong việc hoàn thành bài viết này đồng thời em xin cảm
ơn các thầy cô giáo khác trong các kiến thức cho em trong khi giảng dạy để
có thể hoàn thành bài viết này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô.


SVTH: Đỗ Anh Tuấn

2 GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học

CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ NỢ
ĐỌNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Tổng quan về BHXH
Con người muốn tồn tại và phát triển được trước hết phải ăn, mặc, ở và
đi lại v..v...Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để
làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời
sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh
hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con
người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế,
con người không chỉ lúc nào cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi
điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn
bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu
nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác.Khi rơi vào những trường hợp này,
các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái
còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới mhư: cần được
khám và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm
sóc nuôi dưỡng v..v...Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người
phải tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau, đi
vay, đi mượn hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v..v... Rõ ràng, những
cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên
phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã
phải cam kết bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định đẻ họ

trang trải những nhu cầu cần thiết khi ốm đau, tai nạn, thai sản...Trong thực
tế, nhiều khi các trưòng hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi
trả một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một lúc phải bỏ

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

3 GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
ra trong một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn.Vì thế mâu thuẫn
chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc chủ phải thực hiện cam
kết, nó tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã
phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này buộc các giới
chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng . Số tiền
đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi
quốc gia nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến
cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của
người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ
ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được
bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn
không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng
lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng
đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ
trên được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy,
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người
lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung
nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm an

toàn xã hội
Về cơ bản bản chất của bảo hiểm xã hội là
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan
hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó . Kinh tế càng phát
triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền
tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước .
- Mối quan hệ giữa cái bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

4 GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn trái với chủ
quan của con người như : ốm đau, tai nạnlao động, bệnh nghề nghiệp...Hoặc
cũng có thể lã trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già,
thai sản v..v... Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài lao
động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải
những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tập
trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là
chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của
người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.
Mục tiêu này đã được tổ chức quốc tế ILO cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo

nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu
cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Trong công ước quốc tế Giơ nevơ số 102 tháng 6 năm 1952 BHXH bao
gồm một hệ thống 9 chế độ sau:
o
o
o
o
o
o
o
o
o

Chăm sóc y tế (thực chất là BHYT)
Trợ cấp ốm đau
Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Trợ cấp tuổi già
Trợ cấp gia đình
Trợ cấp sinh đẻ
Trợ cấp khi tàn phế.
Trợ cấp cho người còn sống.

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

5 GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền



Đề án môn học
Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội mà các nước tham gia công ước quốc
tế Giơnevơ có tham gia đầy đủ các chế độ nêu trên hay không. Tuy nhiên
trong đó có một số chế độ quan trọng mà khi xây dựng các chính sách BHXH
các quốc gia đều phải đề cập tới đó là: trợ cấp thai sản, trợ cấp ốm đau, trợ
cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp cho người
còn sống.
- Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia xẻ rủi ro, chia xẻ tài chính.
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyểt toán.
+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư
có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết
sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội.
“Quỹ bảo hiểm xã hội là quỹ tài chính độc lập nằm ngoài ngân sách nhà
nước. Quỹ có, mục đích, và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là
dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các
biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia
đóng góp hình thành quỹ, đó có thể bao gồm cả: NLĐ, NSDLĐ và Nhà
nước.”
Quỹ Bảo hiểm xã hội có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Hoạt động của quỹ không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Vì vậy,
nguyên tắc quản lý của quỹ BHXH chính là: cân bằng thu – chi.
- Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả vừa mang tính chất

không hoàn trả.
- Quỹ BHXH phải đảm bảo tính an toàn
- Quỹ BHXH là khâu tài chính trung gian cùng với NSNN và tài chính
doanh nghiệp hình thàn nên hệ thống tài chính quốc gia.

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

6 GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế, xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kì
của đất nước
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà
nước.
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người lao động đóng góp
- Người sử dụng đóng góp
- Nhà nước bù thiếu
- Các nguồn thu khác (từ các cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi
đầu tư vốn nhàn rỗi).
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau:
- Chi trả vào trợ cấp cho các chế độ BHXH.
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp các ngành.
Quỹ BHXH có mục đích chi trả cho 9 chế độ theo ILO hoặc có thể ít hơn
9 chế độ tùy thuộc vào tình hình cũng như đặc điểm của từng quốc gia
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH quỹ BHXH còn được
chi cho quản lý như: tiền lương cho cán bộ công nhân viên làm việc trong hệ
thống BHXH. Khấu hao TSCĐ, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác.

Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lời nhằm bảo toàn và tăng
trưởng nguồn quỹ. Quá trình đầu tư phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, có lợi
nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế xã hội.

Vấn đề nợ đọng BHXH
BHXH được coi là trụ cột của An sinh xã hội ở hầu khắp các nước trên
thế giới. Vì vậy, vấn đề để làm cho BHXH phát triển mạnh mẽ, đảm bảo, ngày
càng mở rộng luôn được các quốc gia chú trọng. Một trong những vấn đề
được ưu tiên đó là khả năng chi trả cho các chế độ của BHXH, trên cơ sở có

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

7 GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
một quỹ BHXH đủ sức chi trả cho các chế độ đó.
Do đó, việc đảm bảo các nguồn thu BHXH được thu đầy đủ là vấn đề hết
sức quan trọng.
Thế nhưng một thực tại hiện nay vẫn còn tồn tại ở rất nhiều các quốc gia
trên thế giới, đó là vấn đề “nợ đọng bảo hiểm xã hội” của các tổ chức, doanh
nghiệp có sử dụng lao động. Đây là chủ đề rất nhức nhối đối với các cơ quan
quản lý BHXH. Tình trạng này ngày càng diễn ra phức tạp dưới nhiều hình
thức tinh vi, đa dạng càng đòi hỏi một cơ chế quản lý phù hợp. Vậy, “Nợ đọng
Bảo hiểm xã hội” là gì?
Đứng trên góc độ của cơ quan Bảo hiểm xã hội, “Nợ đọng Bảo hiểm xã
hội” là khoản tiền đóng thiếu hoặc chậm đóng của các doanh nghiệp, tổ chức
sử dụng lao động cho các khoản phí của các chế độ Bảo hiểm xã hội đã được
Pháp luật của mỗi quốc gia quy định.
Nợ đọng BHXH tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Có thể kể đến

như:
- Theo thời gian có nợ đọng BHXH ngắn hạn và nợ đọng BHXH dài hạn.
Nợ đọng BHXH ngắn hạn là chậm đóng BHXH dưới 3 tháng so với thời gian
quy định; Nợ đọng BHXH dài hạn là chậm đóng BHXH từ 3 tháng trở lên so
với thời gian quy định.
- Theo quy mô có nợ BHXH ít (nợ dưới 100 triệu đồng) và nợ BHXH
nhiều (nợ trên 100 triệu đồng).
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, thì “Nợ đọng Bảo hiểm xã
hội” là do các nguyên nhân chủ yếu sau:
a. Khuôn khổ pháp lý thiếu sự minh bạch; chưa thuận lợi cho NLĐ và
NSDLĐ; chế tài còn chưa đủ mạnh; sự phối hợp của các cơ quan chức năng
chưa hiệu quả, đồng bộ.
- Tính minh bạch của các chính sách về thu BHXH: người tham gia
BHXH gặp khó khăn trong việc tiếp cận các thông tin, tài liệu của cơ quan

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

8 GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
BHXH: về quy trình, biểu mẫu, hồ sơ… sẽ kéo dài thời gian đăng ký tham gia
BHXH và gián đoạn công tác đóng BHXH định kỳ, nguyên nhân làm cho tình
trạng nợ BHXH gia tăng.
- Mức độ thuận lợi của việc tham gia đóng BHXH cho đơn vị sử dụng
lao động và người lao động: thủ tục hành chính rườm rà là nguyên nhân đầu
tiên mà ngành BHXH “tự đẩy” doanh nghiệp vào xu hướng không tuân thủ
pháp luật về BHXH và lao động bởi tâm lý không sẵn sàng thực hiện do thủ
tục rắc rồi, phiền hà.
- Chế tài xử phạt đối với các đơn vị nợ BHXH chưa đủ mạnh, mức xử

phạt còn thấp, tính khả thi của các biện pháp chưa cao dẫn tới các doanh
nghiệp còn trốn tránh lách luật, cố tình chây ỳ, chậm đóng BHXH. Ngoài ra
hiên mức lãi suất đầu tư quỹ BHXH trong năm thấp hơn so với lãi suất tiền
vay của các ngân hàng thương mại do đó nhiều doanh nghiệp chấp nhận chịu
phạt để chiếm dụng vốn của cơ quan BHXH.
- Sự phối hợp của các cơ quan chức năng chưa được thực hiện đồng bộ
và hiệu quả: thực tế thời gian qua ở Việt Nam do sự phối hợp thiếu đồng bộ
giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành nên dẫn đến tình trạng tạo ra nhiều kẻ
hở, tạo thuận lời cho việc nợ đọng BHXH của các chủ lao động.
b.
Do các cơ quan chức năng, cơ quan quản lý bảo hiểm xã hội
chưa quản lý, quan sát chặt chẽ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.
- Nhận thức , thái độ phục vụ của các nhân viên ngành BHXH: Hiện nay,
không ít cán bộ thu trong cơ quan BHXH ngồi chờ người sử dụng lao động
mang tiền đến đóng ,chuyển khoản vào tài khoản của cơ quan BHXH. Cán bộ
BHXH không chủ động đôn đốc, tìm đến người tham gia BHXH nên cơ quan
BHXH hầu như không phát hiện được ra các lỗ hổng, bất cập trong công tác
thu nộp BHXH.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý công tác thu.
Kiểu quản lý thu cũ không thể kiểm soát hết được dữ liệu của người
tham gia BHXH. Theo đó, việc quản lý thu nộp BHXH chưa được chặt chẽ.
c.
Do các đơn vị sử dụng lao động và người lao động chưa nhận

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

9 GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học

thức hết vai trò của bảo hiểm xã hội.
Do phương thức trả lương hai kỳ của doanh nghiệp thường kéo dài đến
đầu tháng sau cho nên đa số các doanh nghiệp đóng BHXH thường chậm.
+
Một số đơn vị thật sự khó khăn trong kinh doanh sản xuất nhất là
các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực xây dựng cơ bản, giao thông vận tải do chủ
đầu tư chậm thanh toán, đơn vị không dủ chi phí trả lương và đóng BHXH
cho người lao động.
Doanh nghiệp cố tình chậm đóng BHXH, chiếm dụng vốn để đầu tư, sản
xuất kinh doanh.
Hậu quả.
- Đối với người lao động:
Yếu tố con người ngày càng đóng vai trò quan trọng trọng mọi hoạt động
của đất nước, để phát huy vai trò này các doing nghiệp cần có những chính
sách quan tâm đến họ và BHXH là yếu tố quan trọng tiên quyết. BHXH có
vai trò quan trọng, có tác dụng làm đòn bẩy kinh tế tác động trực tiếp đến
người lao động. Khi người lao động có động lực, họ sẽ phát huy được sức
mạnh, cũng như khả năng làm việc của mình, hang say công tác và cống hiến
hết mình cho tổ chức. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tăng cường quan tâm
đến người lao động khi doanh nghiệp không nộp BHXH cho người lao động
thì quyền lợi thụ hưởng của họ sẽ bị tước đoạt. Đo đôi với số lượng doah
nghiệp nợ BHXH là số lượng lớn lao động không được đóng BHXH.Điều này
đồng nghĩa với việc lợi ích của hàng nghìn người lao động bị xâm phạm. Mọi
chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp… của người lao
động đều không được giải quyết.
- Đối với người sử dụng lao động:
Đơn vị sử dụng lao động có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế,
là bộ phận chủ yếu tạo ra tống sản phẩm trong nước (GDP), góp phần giải
phóng và phát triến sức sản xuất, huy động và phát triển nội lực vào phát triển
kinh tế xã hội góp phần quyết dịnh vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng


SVTH: Đỗ Anh Tuấn

10GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và giải quyết có hiệu quả các vấn đề
xã hội như: Tạo viêc làm, xóa đói, giảm nghèo… là yếu tố quan trọng, quyết
đinh đến chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: cơ cấu
nhiều thành phần kinh tế. cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế của các vùng,
địa phương; đơn vị sử dụng lao động là nhân tố đảm bảo cho mục tiêu thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ
vững ổn định và tọa thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nên kinh tế
trong quá trình hội nhập.
Đơn vị sử dụng lao động nợ đọng BHXH đồng nghĩa với việc các đơn vị
này đã vi phạm pháp luật về BHXH, pháp luật về lao động. Người lao động
mất niềm tin và doanh nghiệp, khi quyền lợi của họ không được đảm bảo thì
năng suất lao động của đơn vị cụng giảm, ảnh hưởng đến cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường.
- Đối với hệ thống an sinh xã hội của đất nước: Bảo hiểm xã hội là trụ
cột trong hệ thống an sinh xã hội: vì BHXH có đối tượng người lao động
tham gia rất lớn, đây là những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất và dịch
vụ cho xã hội. Khi rủi ro ốm đau, tai nạn, mất việc làm và già yếu..sẽ đe dọa
đến cuộc sống bản thân người lao động và gia đình họ,làm ảnh hưởng xấu tới
tâm lý của người lao động từ đó ảnh hưởng tới xã hội. Yếu tố tâm lý của con
người luôn đóng vai trò là động lực thúc đẩy phát triển trí tuệ và khả năng
khai thác nguồn chất xám trong mỗi con người. Nếu như trong công việc, thu
nhập là mục đích chính, là yếu tố kích thích hoạt động sản xuất thì yếu tố tâm
lý sẽ nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất. Do vậy sự vững chắc của hệ

thống an sinh xã hội ở một quốc gia được phản ánh qua chính sách BHXH
của quốc gia đó. Vì vậy, việc các đơn vị nợ đọng BHXH cũng đồng nghĩa với
việc không ổn định của Tài chính BHXH, nguy cơ phân hóa giàu nghèo lớn,
gây bất bình đẳng xã hội, tiềm ẩn bất ổn định xã hôi.

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

11 GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG NỢ ĐỌNG BHXH
NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Khái quát về BHXH nước ta
Sau cách mạng tháng 8 thành công, trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính Phủ đã ban hành một loạt sắc lệnh
quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên
chức Nhà nước. Cơ sở pháp lí tiếp theo của BHXH được quy định trong Hiến
pháp năm 1959. Quyền này được cụ thể hóa trong điểu lệ tạm thời về BHXH
đối với công nhân viên chức Nhà nước, ban hành kèm theo Nghị định 218/CP
ngày 27-12-1961 và Điều lệ đãi ngộ công quân nhân ban hành kèm theo Nghị
định 161/CP ngày 30-10-1964 của Chình Phủ
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi từ cơ
chế kinh tế kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi mới về cơ chế
kinh tế đòi hỏi có những chính sách thay đổi tương ứng về chính sách xã hội
nói chung và chính sách BHXH nói riêng và được quy định tương đối đầy đủ
trong hiến pháp 1992 và Văn kiện Đại hội VII của Đảng Cộng sản VIệt Nam
Ngày 26-9-2006, Quốc hội nước ta chính thức thông qua Luật BHXH.
Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 1-1-2007. Theo Luật BHXH hiện hành, nước

ta thực hiện các loại hình BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, và BHTN.
Nhưng BHXH tự nguyện được thực hiện từ 1-1-2008 với 2 chế độ là hưu trí
và tử tuất. Còn BHTN được thực hiên từ 1-1-2009. BHXH bắt buộc thực hiện
với 5 chế độ

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

12GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học

2. Công tác thu BHXH
Bảng 1: Bảng số liệu thống kê tốc độ tăng trưởng liên hoàn về số thu
BHXH từ năm 2007-2011
Số thu
Lượng
Số thu BHXH

Năm

(Tỷ đồng)

tăng

(giảm)
tuyệt

đối


liên

hoàn

(Tỷ đồng)
2,007.0
0

237,754.6
0

2,008.0
0

30,810.2
0

2,009.0
0
2,010.0

6,544.9
0

49,549.2
2

2,011.00

7,055.6


37,355.1

11,566.40

độ

tăng
(giảm)
tuyệt
liên

đối
hoàn

(%)
...

0

0

0

...

Tốc

29.70
21.24


12,194.10

32.64

11,566.40

23.34

Từ số liệu bảng 2 cho ta thấy
Số thu BHXH liên tục tăng lên trong các năm với số thu năm sau cao
hơn năm trước. Tổng số thu trong vòng 5 năm từ 2007 đến năm 2011 đạt
153,035.52 tỷ đồng nếu so với thời gian trước đó thì số thu này tương đối lớn,
nó gấp 2.5 lần tổng số thu của giai đoạn chưa có luật BHXH từ năm 19962004. Nguyên nhân đạt được những thành công trên là do:


Nhà nước tăng lương tối thiểu liên tiếp trong những năm

2009,2010,2011 cụ thể tăng lên đến 830.000 vào năm 2011. Đồng thời là điều
chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH và trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã
nghỉ việc

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

13GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
• Việc ban hành và thực hiện luật BHXH đã đóng vai trò to lớn trong


quá trình quản lý cũng như thực hiện chính sách BHXH được đảm bảo số thu
đạt hiệu quả tốt nhất có thể
• Cùng với đó là các văn bản, các nghị định dược ban hành cũng là căn

cứ quan trọng để hỗ trợ cà bổ sung vào những điểm chưa chặt chẽ của luật
BHXH gặp phải trước đó đảm bảo số thu đạt hiệu quả tốt nhất có thể
• Các văn bản về thực hiện chính sách BHXH đã dần được thực hiện và

phổ biến rộng rãi đến những người là động, các đơn vị, doanh nghiệp trong và
ngoài quốc doanh. Do đó nhận thức của người lao động về BHXH đã được
nâng cao
• Số thu cao như vậy là do công tác tuyên truyền phổ biến và các văn

bản quy định bắt buộc đối với BHXH (bao gồm cả BHYT bắt buộc và BHYT
tự nguyện) được kết hợp với các chế tài xử lý vi phạm BHXH đã được ban
hành đến từng đơn vị làm cho số lượng người tham gia tăng lên nhanh chóng,
do đó góp phần vào tăng trưởng quỹ và giảm bớt gánh nặng của NSNN chi
cho BHXH.
Bảng 2: Kế hoạch thu qua các năm giai đoạn 1995-2004

Năm

Kế

hoạch

(Tỷ đồng)

thu


Kế

Tỷ

hoạch

thực
(Tỷ đồng)

hiện

lệ

hoàn thành
kế

hoạch

(%)
2007
22,536.000
23,754.600
105.41
2008
28,491.000
30,810.200
108.14
2009
36,178.000
37,355.100

103.25
2010
49,663.000
49,549.200
99.77
2011
57,819.000
76,143.000
131.69
Nguồn: Báo cáo thường kì BHXH Việt Nam giai đoạn 1995-2011
•Thông qua bảng 3 cho thấy, số tiền BHXH Việt nam dự toán thu tăng
dần qua các năm và kết quả thực hiện của công tác thu BHXH của cơ quan
BHXH Việt nam từ năm 2007 đến nay luôn vuợt chỉ tiêu so với kế hoạch đề

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

14GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
ra. Điều này cho thấy trách nhiệm, sự nỗ lực quyết tâm phấn đấu của ban thu
BHXH nói chung và cán bộ chuyên thu của ngành BHXH Việt nam nói riêng
ngày một tăng, luôn tận tình với công việc nhằm đảm bảo cho nguồn quỹ
BHXH được tăng trưởng. Đồng thời thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà
nước, các cơ quan ban ngành chức năng liên quan đã phối hợp với cơ quan
BHXH Việt Nam và tạo điều kiện để cán bộ chuyên thu của cơ quan BHXH
hoàn thành tốt kế hoạch đã đề ra.
•Qua 5 năm 2007-2011 đã đạt được những kết quả rất tốt luôn hoàn
thành trên 100% kế hoạch hàng năm đề ra. Trong đó có những năm ban thu
BHXH Việt nam đạt tỷ lệ hoàn thành về số thu so với kế hoạch đề ra rất cao

như. Qua đó cho thấy, công tác thu BHXH đã được quan tâm và chú trọng
hơn nhằm đảm bảo cho nguồn quỹ BHXH tránh được những thất thu, thất
thoát đáng tiếc xảy ra.
Điều này nói nên chính sách của Đảng và Nhà nước đã và đang đi đúng
hướng và mục tiêu chính sách BHXH đã và đang được mở rộng đến với NLĐ.
Tuy nhiên số thu này hoàn thành kế hoạch nhưng không hẳn đã khẳng định
được rằng công tác thu đang thực hiện tốt bởi còn nhiều yếu tố tác động tới
kết quả thu như mặt bằng tiền lương tăng nhanh,số lượng người tham gia
tăng, tỷ lệ đóng góp tăng…Dù có tăng về số thu cũng như tỷ lệ hoàn thành kế
hoạch nhưng đó là số tăng chưa đảm bảo đúng so với tỷ lệ tăng đúng so với
tình hình thực tế

3. Thực trạng nợ đọng BHXH ở Việt Nam (2007-2011)
Trong quá trình thực hiện Thu BHXH, các cơ quan BHXH trên toàn
quốc đều có những khó khăn và thuận lợi nhất định:
Về mặt thuận lợi: Từ khi hình thành, sau thời gian xây dựng và phát triển
BHXH nước ta đã có những bài học kinh nghiệm trong công tác Thu BHXH.
Đặc biệt từ sau khi Luật BHXH chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2007. Đội
ngũ cán bộ công chức, viên chức, luôn được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng để

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

15GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
đáp ứng yêu cầu trong những tình huống mới.
Trên phạm vi toàn quốc, ở các Tỉnh, Thành phố, các địa phương luôn có
chủ trương và tạo điều kiện tổ chức các lớp tập huấn giúp các cán bộ công
chức nắm bắt có hệ thống các nghiệp vụ BHXH, cử cán bộ chủ chốt tham gia

học tập các lớp học chính trị.
Cơ quan BHXH từ Trung ương luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao công tác
Thu BHXH. Các văn bản quy phạm Pháp luật cũng được dần bổ sung cho phù
hợp với tình hình thực tế. Gần đây nhất là Nghị định số 86/2010 NĐ-CP ngày
13/8/2010 quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BHXH.
Về mặt khó khăn: Trong khi cơ chế Thu, chi quản lý quỹ BHXH thường
xuyên được điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện thì cơ chế
quy định xử phạt các vi phạm cá nhân còn chậm hoặc ít được sửa đổi, bổ sung
sao cho phù hợp. Các cơ quan có thẩm quyền xử phạt còn không tích cực và
thiếu chủ động.
Chính vì vậy mà các đơn vị doanh nghiệp sử dụng lao động vi phạm việc
nợ đọng BHXH sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người lao động, làm
ách tắc quá trình giải quyết chế độ của cơ quan BHXH. Tạo thói quen xấu về
hành vi chiếm dụng Quỹ BHXH của các doanh nghiệp. Nhiều vụ vi phạm ở
các địa phương như Hà Nội, Tp HCM, Bình Dương đã gây ra các cuộc đình
công phức tạp, kéo dài, từ đó tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội.
Cho đến hiện nay, vấn đề Nợ đọng BHXH đã trở thành mối quan tâm,
bức xúc của dư luận xã hội. Điều đó đòi hỏi phải có các giải pháp, cơ chế kịp
thời giải quyết các vi phạm này.
Từ nhiều năm nay, nợ đọng BHXH đã trở thành "thông lệ" và luôn ở
mức cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người lao động cũng
như tính an toàn của quỹ BHXH. Nhiều giải pháp đã được thực hiện, nhưng

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

16GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học

vẫn chưa mang lại hiệu quả hữu hiệu và số tiền nợ đọng còn có chiều hướng
gia tăng.
Theo thống kê của BHXH Việt Nam, năm 2011 cả nước có hơn 9.5 triệu
người tham gia BHXH. Tuy nhiên, số tiền nợ đọng của các doanh nghiệp
hàng năm cũng lên đến gần 2.000 tỷ đồng. Đến năm 2011, con số nợ đọng
đến tháng 10 đã là gần 5.000 tỷ đồng. Tình trạng doanh nghiệp nợ đọng tiền
BHXH kéo dài đã lâu nhưng chưa có giải pháp nào xử lý dứt điểm.
Cũng theo báo cáo của BHXH Việt Nam, tình trạng nợ đọng BHXH
đang diễn ra ở hầu hết các địa phương và số nợ BHXH hiện nay lên tới hàng
nghìn tỷ đồng, chủ yếu tập trung ở khu vực doanh nghiệp (DN). Trong đó, TP
Hà Nội là một trong những địa phương đứng đầu cả nước về nợ đọng BHXH.
Từ cuối năm 2010, trước tình trạng nợ đọng BHXH của các doanh
nghiệp kéo dài, cơ quan này đã tiến hành khởi kiện 11 doanh nghiệp ra tòa.
Đây là những doanh nghiệp có thời gian nợ từ 12 tháng trở lên, với tổng số nợ
lên tới gần 5 tỷ đồng. Kết quả sau khi khởi kiện, cơ quan này đã truy thu được
4 tỷ đồng từ 9 doanh nghiệp. Tính riêng đến đầu tháng 6-2011, dư nợ BHXH
trên địa bàn thành phố lên tới 788 tỷ đồng. Trong đó, có 88 doanh nghiệp nợ
từ 1 tỷ đồng trở lên, với tổng số tiền nợ lên tới gần 203 tỷ đồng. Tổng số tiền
nợ BHXH, bảo hiểm y tế của các đơn vị với BHXH thành phố Hà Nội đã lên
tới 542,6 tỷ đồng, chiếm 5,2% tổng số thu năm 2011, trong đó nợ từ 12 tháng
trở lên chiếm tới 245,3 tỷ đồng. Đáng chú ý là trong số các đơn vị nợ BHXH
có nhiều DN Nhà nước, có thương hiệu trên thị trường như Dệt Minh Khai,
một số công ty thành viên của Tổng công ty lắp máy Việt Nam, Tập đoàn
công nghiệp tàu thủy Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà, Licogi...
Không chỉ riêng ở Hà Nội, ở các địa phương khác cũng xảy ra tình trạng
chậm đóng, nợ đọng kéo dài, vi phạm luật. Các DN ở các địa phương đã lách
luật, trốn đóng BHXH cho người lao động, hoặc cố tình nộp chậm BHXH để

SVTH: Đỗ Anh Tuấn


17GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
chiếm dụng vốn kinh doanh, làm ảnh hưởng đến quyền lợi và gây bức xúc
cho người lao động.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh theo số liệu Cục Thuế TP cho biết, đến hết
năm 2011Thành phố có khoảng 80.000 doanh nghiệp đang hoạt động nhưng
chỉ có 40.000 trong số đó tham gia BHXH. Có trên 30.000 đơn vị nợ đọng
BHXH với tổng số nợ là 3.922 tỷ đồng.
Theo BHXH tỉnh Thanh Hóa, tỉnh có trên 763 đơn vị nợ BHXH từ 3
tháng trở lên, chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, với số nợ lên tới
67.926 triệu đồng. Điển hình là Công ty Công nghiệp tàu thủy nợ trên 3,7 tỷ
đồng; Công ty cổ phần Licogi 15 nợ trên 3,7 tỷ đồng; Công ty cổ phần Bỉm
Sơn Vigracera nợ trên 2,3 tỷ đồng; Công ty Cổ phần Công nghiệp tàu thủy
Hoàng Long Vinashin nợ trên 1,2 tỷ đồng
Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, toàn tỉnh hiện có hơn 250 doanh nghiệp, tổ
chức còn nợ tiền BHXH với tổng số hơn 54 tỷ đồng, trong đó các doanh
nghiệp nợ hơn 41 tỷ đồng.
Theo BHXH tỉnh Đồng Nai, đến thời điểm này, tỉnh có trên 600 đơn vị
nợ BHXH từ 3 tháng trở lên, với tổng số tiền hơn 60 tỷ đồng. Đặc biệt, có 61
doanh nghiệp nợ BHXH với số tiền 6,3 tỷ đồng và chủ doanh nghiệp đã bỏ
trốn.
Bảng 3: Số tiền Nợ đọng BHXH Việt Nam 2007-2011
(đơn vị: tỷ đồng)
Năm
2007
2008
2009
2010

2011
Nợ đọng
1,733.90
2,286.20
2,093.74
2,548.10
3,338
Nguồn: Báo cáo thường kì BHXH Việt Nam giai đoạn 2007-2011
Qua bảng số liệu trên cho thấy rằng số tiền nợ đọng BHXH trên cả nước
tăng trong cả giai đoạn từ năm 2007-2011. Năm 2007, cả nước có 1,733.9 (tỷ
đồng) tiền nợ BHXH, đến năm 2011 số tiền nợ tăng gấp 1.92 lần lên 3,338 (tỷ

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

18GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
đồng).
Biểu đồ 1: Biểu đồ tình hình nợ đọng BHXH từ năm 2007-2011

Nguồn: Báo cáo thường kì BHXH Việt Nam giai đoạn 2000-2011 và tính toán
Dựa vào đồ thị ta có thể dễ dàng nhận ra xu hướng tình hình nợ đọng
BHXH ở nước ra. Qua các năm thì số tiền nợ đọng ngày càng tăng và số tiền
ngày càng lớn hơn, mức độ tăng cũng ngày một lớn hơn. So với năm 2000 thì
qua hơn 10 năm số tiền nợ đọng đã gấp 7 lần. So với giai đoạn 2000-2004 thì
giai đoạn 2005-2011 số nợ đọng đã tăng lên đáng kể, số nợ tăng lên gấp đôi
trong những năm 2005 và tiếp tục tăng nhanh trong những năm tiếp theo và
ngày càng tăng nhanh hơn. Tuy có những thời gian số tiền có giảm nhưng
lương giảm không đáng kể, ví dụ như so với năm 2008 thì số nợ đọng năm

2009 đã giảm đi 192.46 tỷ đồng nhưng ngay sau đó số nợ đã tăng lên quá
lượng đã giảm đó ngay trong năm 2010 với lượng 454.36 tỷ đồng. Có sự thay
đổi có phần nhanh chóng này một phần là do công tác thu chưa tốt, chế tài xử
lý chưa nghiêm đồng thời là sự buông lỏng quản lý ngay sau khi đạt được một
số thành tích, đồng thời là tác phong làm việc theo phong trào, theo đợt vận
động của một địa phương hay của nghành mà chưa có sự đồng bộ cũng như

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

19GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
sâu rộng với thời gian kéo dài.

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

20GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học

CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC NỢ ĐỌNG
BẢO HIỂM XÃ HỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Tăng cường sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đến sự nghiệp
bảo hiểm xã hội
Mọi hoạt động của các lĩnh vực kinh tế xã hội đều cần đến sự chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước. Vì thế, để chính sách BHXH ở Việt nam được hoàn
thiện hơn đáp ứng được yêu cầu của người tham gia BHXH thì cũng không
thể nằm ngoài phương hướng hoạt động của Nhà nước và sự chỉ đạo của

Đảng. Tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta đến sự
nghiệp BHXH ở Việt nam là một trong những nhân tố đáp ứng được mục tiêu
của ngành BHXH. Mục tiêu của BHXH là phục vụ con người, vì lợi ích của
số đông người lao động, từ đó góp phần tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội
giữa vững thể chế chính trị của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt BHXH ở Việt
nam còn là một ngành mới còn non trẻ, các chế độ chính sách về BHXH
chưa được hoàn chỉnh vẫn đang trong quá trình hoàn thiện từng bước, cơ chế
quản lý tài chính BHXH cũng còn nhiều vấn đề chưa hợp lý, chế tài xử phạt
còn lỏng lẻo và nhẹ. Theo Nghị định số 138/CP về xử phạt hành chính đối với
lĩnh vực BHXH, mức phạt 2 triệu đồng cho tất cả các hành vi vi phạm pháp
luật, đội ngũ cán bộ còn yếu về chuyên môn nghiệp vụ, các văn bản quy phạm
pháp luật và Luật BHXH còn rườm rà chưa sâu sát cao, chưa đưa ra một số
hành vi vi phạm cụ thể… chính vì lý do đó mà BHXH Việt nam rất cần có sự
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước để ngành BHXH phát triển đúng hướng, thực
hiện được mục tiêu lâu dài của toàn ngành.
Để công tác thu BHXH có thể thực hiện được tốt hơn nữa: không có tình
trạng thất thu, không có tình trạng chiếm dụng quỹ hoặc sử dụng sai mục đích
hoặc giảm tỷ lệ nợ đọng trốn đóng nộp tiền BHXH… thì cần được các cấp uỷ
Đảng chính quyền đưa vào nghị quyết, được cụ thể hoá vào nội dung nhiệm

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

21GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền


Đề án môn học
vụ cùng với phương hướng sản xuất kinh doanh tại đơn vị, đồng thời tạo mọi
điều kiện để công tác thu BHXH được tiến hành một cách thuận tiện, trước
hết mỗi cán bộ Đảng viên phải gương mẫu thực hiện chính sách, chế độ
BHXH. Bởi chính sách BHXH khó có thể thực hiện tốt nếu chỉ có sự nỗ lực

từ phía cơ quan BHXH mà cần phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ
đảng chính quyền, cơ quan quản lý Nhà nước.

2. Hoàn thiện Luật bảo hiểm xã hội
3. Với các cơ quan bảo hiểm xã hội
Cơ quan BHXH Việt nam cần phối hợp với một số cơ quan ban ngành có
chức năng nhằm tăng cường công tác thông tin tuyên truyền rộng rãi hơn nữa
về quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, trước hết đối với
các đơn vị sử dụng lao động, để có sự nhận thức đúng đắn khi tham gia
BHXH của cả chủ sử dụng lao động và người lao động.
Cơ quan BHXH Việt nam cần đổi mới công tác thu BHXH trong đó tăng
cường công tác đốc thu của cơ quan BHXH ở các địa phương; Quản lý chặt
chẽ và đầy đủ các đơn vị thuộc diện đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo
quy đinh của pháp luật. Thực hiện đầy đủ kịp thời chế độ báo cáo và đề xuất
được các giải pháp để xử lý có hiệu quả tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH.
Cần có những biện pháp mạnh cho những trường hợp cố tình trốn đóng
BHXH nhằm đảm bảo hiệu quả của công tác thu BHXH.
Cơ quan BHXH cần có quan điểm mềm dẻo xong cũng phải kiên quyết
đối với những doanh nghiệp nợ đọng, chậm nộp BHXH trong điều kiện các
văn bản pháp quy của Nhà nước về triển khai cũng như thực hiện chính sách
BHXH chưa thành Luật và những điều đã thành luật thì lại chưa được mạnh
mẽ do đó biện pháp xử lý sai phạm trong trường hợp này chưa triệt để. Xuất
phát từ thực tế để có thể giảm bớt số nợ đọng trên tổng số quỹ và đôn đốc
được các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động có thể nhanh chóng đóng

SVTH: Đỗ Anh Tuấn

22GVHD: Th.s Tôn Thị Thanh Huyền



×