Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Chuyên đề thực tập - Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại Công ty Cổ phần Sản xuất – Xuất nhập khẩu Dệt may

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.65 KB, 76 trang )

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ luân chuyển các khoản đầu tư ngắn hạn
Sơ đồ 1.2: Đồ thị biểu diễn các mức biến động tiền mặt theo thời gian
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ cơ cấu và bộ máy tổ chức

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh giai đoạn 2009- 2011
Bảng 2.2: Cơ cấu tài sản ngắn hạn của công ty
Bảng 2.3: Các chỉ tiêu thanh toán
Bảng 2.4: Hệ số khả năng thanh toán lãi vay
Bảng 2.5: Hệ số hoạt động của tài sản ngắn hạn
Bảng 2.6: Hệ số sinh lời của tài sản ngắn hạn
Bảng 2.7: Cơ cấu ngân quỹ của công ty
Bảng 2.8: Cơ cấu các khoản phải thu
Bảng 2.9: Hàng tồn kho của công ty
Bảng 2.10: Hệ số vòng quay hàng tồn kho
Bảng 2.11: Bảng cơ cấu vốn
Bảng 2.12: Cơ cấu vốn vay
Bảng 2.13: Cơ cấu nguồn vốn chờ thanh toán
Bảng 2.14: Vốn lưu động ròng


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ................................................................1
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU.....................................................................1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................76
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp là quá trình hình
thành và sử dụng vốn kinh doanh. Ngày nay, yêu cầu về tài sản ngắn hạn của
các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường là rất lớn.
Để đánh giá quá trình độ quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh của


một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp đó dựa trên hai góc độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Vì thế, việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là yêu cầu mang tính
bắt buộc và thường xuyên đối với doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động với mục tiêu
xuyên suốt là tối đa hóa giá trị doanh nghiệp nên thường xuyên phải đưa ra và
giải quyết tập hợp các quyết định tài chính dài hạn và ngắn hạn. Quản lý và sử
dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn là nội dung trọng tâm trong các quyết định tài
chính ngắn hạn, ảnh hưởng lớn đến mục tiêu tối đa hóa giá trị doanh nghiệp.
Tài sản ngắn hạn là một thành phần quan trọng trong tất cả các khâu
của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong khâu dự trữ và sản xuất, tài sản ngắn
hạn đảm bảo cho sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, đảm bảo
quy trình công nghệ, công đoạn sản xuất. Trong lưu thông, tài sản ngắn hạn
đảm bảo dự trữ thành phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ được liên tục, nhịp
nhàng đồng thời đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Thời gian luân
chuyển tài sản ngắn hạn lớn khiến cho việc quản lý và sử dụng tài sản ngắn
hạn diễn ra một cách thường xuyên hơn, do đó, việc tăng tốc độ luân chuyển

2


tài sản ngắn hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh
nghiệp trở nên vô cùng cấp thiết.
Trên thực tế, có rất nhiều nguyên nhân khiến một doanh nghiệp làm ăn
thiếu hiệu quả thậm chí thất bại trên thương trường. Có thể có các nguyên
nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan, tuy nhiên một nguyên nhân phổ
biến vẫn là việc sử dụng vốn không hiệu quả. Trong việc mua sắm, dự trữ, sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm. Điều này dẫn đến việc sử dụng lãng phí tài sản
ngắn hạn, tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn thấp, mức sinh lợi kém và thậm
chí có doanh nghiệp còn gây thất thoát không kiểm soát được tài sản ngắn hạn

của mình dẫn đến mất khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh, khả năng thanh
toán.
Ở nước ta, để hoàn thành đường lối xây dựng một nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với thành phần kinh tế quốc doanh
giữ vai trò chủ đạo, chúng ta phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp nói chung và các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng. Xét từ góc độ
quản lý tài chính, nâng cao năng lực quản lý tài chính trong đó chú trọng nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là nội dung quan trọng không chỉ đảm
bảo lợi ích riêng doanh nghiệp mà còn có ý nghĩa chung đối với nền kinh tế
quốc dân.
Từ những lý do kể trên, sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác
quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn trong các doanh nghiệp đã trở thành một
điều tất yếu. Trong quá trình thực tập tại Công ty Cổ phần Sản xuất – Xuất
nhập khẩu Dệt may, em đã nhận thấy được những hạn chế của Công ty trong
việc sử dụng tài sản ngắn hạn. Thực trạng Công ty đang gặp khó khăn trong
việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn. Các vấn đề mà Công ty đang
gặp phải trong quá trình quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn có thể kể đến

3


như: mặt hàng tồn kho còn nhiều, tài sản ngắn hạn bằng tiền trong công ty
còn chiếm tỷ trọng lớn, các khoản phải thu của khách hàng cũng còn tương
đối nhiều, lượng hàng hóa nhập khẩu cũng chưa đa dạng … điều này đã làm
giảm đáng kể doanh thu bán hàng và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của
Công ty.
Kết cấu của chuyên đề được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
- Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của Công ty
Cổ phần Sản xuất – Xuất nhập khẩu Dệt may

- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại
Công ty Cổ phần Sản xuất – Xuất nhập khẩu Dệt may

4


CHƯƠNG 1
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Trong những thời kỳ khác nhau, mỗi nước đều phải tùy thuộc vào điều
kiện cụ thể của nền kinh tế mà hình thành nên những mô hình tổ chức sản
xuất, kinh doanh khác nhau. Nhà nước tạo lập và vận hành nền kinh tế thị
trường thông qua việc xác định các mô hình cơ bản của tổ chức sản xuất, quy
định địa vị pháp lý của mỗi loại chủ thể kinh doanh phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.
Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền
kinh tế. Tổ chức cá nhân thuộc các thành kinh tế được sản xuất kinh doanh
trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm cùng phát triển lâu dài, hợp
tác, bình đằng và cạnh tranh theo pháp luật.
Có nhiều chủ thế tham gia vào nền kinh tế nhiều thành phần của nước
ta. Nhóm chủ thể kinh doanh quan trọng nhất là đối tượng điều chỉnh chủ yếu
của pháp luật kinh tế đó là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế,
loại chủ thể thứ hai là các hộ kinh doanh cá thể. Hộ kinh doanh cá thể tuy số
lượng lớn nhưng cần thiết trong điều kiện hiện tại của nền kinh tế hiện nay,

5


song quy mô và phạm vi kinh doanh nhỏ, thường là hộ gia đình hoạt động

trong phạm vi quận huyện. Ngoài ra còn có những người kinh doanh nhỏ,
thường là các cá nhân và người kinh doanh lưu động và không ổn định về địa
điểm mặt hàng hay dịch vụ.
Theo luật doanh nghiệp, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh- tức là
thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi.
Như vậy thuật ngữ doanh nghiệp dùng để chỉ một chủ thể kinh doanh
độc lập có đủ những đặc trưng pháp lý và thoả mãn những điều kiện do pháp
luật quyđịnh.Trong thực tế doanh nghiệp được thành lập và hoạt động dưới
nhiều mô hình cụ thể với nhiều tên gọi khác nhau.
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
1.1.2.1.Phân loại theo bản chất kinh tế của chủ sở hữu
Bộ môn Kinh tế vi mô chia các tổ chức doanh nghiệp ra làm 3 loại hình
chính dựa trên hình thức và giới hạn trách nhiệm của chủ sở hữu:
- Doanh nghiệp tư nhân (Proprietorship).
- Doanh nghiệp hợp danh (Partnership).
- Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn (Corporation).
Thông thường doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng
số các doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn lại chiếm tỷ
trọng lớn nhất về doanh thu, đặc biệt trong các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn như
sản xuất hàng hóa, tài chính ...

6


Số liệu thống kê ở Việt Nam từ năm 2005 đến 2008 cho thấy số lượng
doanh nghiệp tăng nhanh từ khoảng 11 vạn lên hơn 20 vạn, trong đó tỷ trọng

doanh nghiệp tư nhân giảm dần từ khoảng hơn 30% xuống hơn 20%, trong
khi tỷ trọng doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần tăng từ
hơn 57% lên 67%. Tỷ trọng doanh nghiệp hợp danh không đáng kể.
1.1.2.2.Phân loại theo chế độ trách nhiệm
Căn cứ vào chế độ trách nhiệm có thể phân loại các doanh nghiệp thành
có chế độ trách nhiệm vô hạn và chế độ trách nhiệm hữu hạn:
- Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn
Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là loại hình doanh nghiệp
mà ở đó chủ sở hữu doanh nghiệp có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh
nghiệp bằng tất cả tài sản của mình, khi doanh nghiệp không đủ tài sản để
thực hiện các nghĩa vụ tài chính của nó. Theo pháp luật Việt Nam, có hai loại
doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn là doanh nghiệp tư nhân và công
ty hợp danh.
Thực chất chế độ trách nhiệm vô hạn của loại doanh nghiệp này là chế
độ trách nhiệm vô hạn của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và của thành
viên hợp danh công ty hợp danh. Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân và thành
viên hợp danh sẽ chịu trách nhiệm đến cùng về mọi nghĩa vụ tài sản của
doanh nghiệp mà không giới hạn ở phần tài sản chủ doanh nghiệp, các thành
viên hợp dan đã bỏ vào đầu tư kinh doanh tại doanh nghiệp tư nhân và công
ty hợp danh. Điều này có nghĩa là nếu tài sản của doanh nghiệp tư nhân và
công ty hợp danh không đủ để thực hện các nghĩa vụ về tài chính của doanh
nghiệp khi các doanh nghiệp này phải áp dụng thủ tục thanh lý trong thủ
tục phá sản, chủ sở hữu doanh nghiệp và các thành viên hợp danh phải sử

7


dụng cả tài sản riêng không đầu tư vào doanh nghiệp để thanh toán cho các
khoản nợ của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn

Theo pháp luật Việt Nam, các doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu
hạn cụ thể gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp
liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không tiến hành
đăng ký lại theo Nghị định 101/2006/NĐ-CP.
Những doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn là những doanh
nghiệp mà ở đó chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm về mọi khoản nợ và
nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp trong phạm vi sốp vốn đã góp vào doanh
nghiệp. Điều đó có nghĩa là khi số tài sản của doanh nghiệp không đủ để trả
nợ thì chủ sở hữu không có nghĩa vụ phải trả nợ thay cho doanh nghiệp.
Chế độ trách nhiệm hữu hạn của các loại doanh nghiệp trên thực chất là
chế độ trách nhiệm hữu hạn của các nhà đầu tư - thành viên/chủ sở hữu công
ty.
1.1.2.3.Phân loại theo hình thức pháp lý
Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp 2005 thì hình thức pháp lý của các loại
hình doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
-

Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên): là doanh nghiệp mà các thành viên trong công ty chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn điều lệ của công ty.

-

Công ty cổ phần: là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được
chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức

8



sở hữu cổ phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số
vốn đã góp vào doanh nghiệp.
-

Công ty hợp doanh: là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên
là chủ sở hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi
là thành viên hợp danh). Thành viên hợp doanh phải là cá nhân và chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.
Ngoài ra trong công ty hợp danh còn có các thành viên góp vốn.

-

Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của
doanh nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp
tư nhân.

-

Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: được thành lập theo
Luật đầu tư nước ngoài 1996 chưa đăng kí lại hay chuyển đổi theo quy
định.

1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.2.1. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm tài sản ngắn hạn
Để đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải có tư liệu
sản xuất mà nó bao gồm hai bộ phận là tư liệu lao động và đối tượng lao

động.
Nếu như tư liệu lao động tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, hình thái
vật chất không thay đổi từ chu kỳ đầu tiên cho tới khi bị sa thải khỏi quá trình
sản xuất thì đối tượng lao động lại khác, nó chỉ tham gia vào một chu kỳ sản
xuất đến chu kỳ sản xuất sau lại phải sử dụng các đối tượng lao động khác.

9


Phần lớn các đối tượng lao động thông qua quá trình chế biến để hợp
thành thực thể của sản phẩm như bông thành sợi, cát thành thuỷ tinh, một số
khác bị mất đi như các loại nhiên liệu. Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh
nào cũng cần phải có các đối tượng lao động. Lượng tiền ứng trước để thoả
mãn nhu cầu về các đối tượng lao động gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
Tài sản ngắn hạn là những tài sản thường xuyên luân chuyển trong quá
trình kinh doanh. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tài sản ngắn
hạn được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao,
phải thu và dự trữ tồn kho.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thì giá trị các loại tài sản
ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, thường chiếm từ 25% đến 50% tổng giá trị tài
sản của chúng.
Việc quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản ngắn hạn có ảnh hưởng
rất quan trọng đối với việc hoàn thành các nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp phải biết rõ số lượng, giá trị
mỗi loại tài sản ngắn hạn là bao nhiêu cho hợp lý và đạt hiệu quả sử dụng cao.
Tài sản ngắn hạn được phân bố đủ trong tất cả các khâu, các công đoạn
nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, ổn
định tránh lãng phí và tổn thất vốn do ngừng sản xuất, không làm ảnh hưởng
đến khả năng thanh toán và đảm bảo khả năng sinh lời của tài sản. Do đó, tài
sản ngắn hạn trong doanh nghiệp có các đặc điểm sau:

- Tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao nên đáp ứng khả năng thanh
toán của doanh nghiệp.

10


- Tài sản ngắn hạn là một bộ phận của vốn sản xuất nên nó vận động và
luân chuyển không ngừng trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất
kinh doanh.
- Tài sản ngắn hạn có thể dễ dàng chuyển hóa từ dạng vật chất sang tiền
tệ nên cũng vận động rất phức tạp và khó quản lý.
1.2.1.2. Phân loại tài sản ngắn hạn
Trong quá trình quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nói chung và quản lý tài chính nói riêng, tuỳ theo yêu cầu quản lý và
dựa trên tính chất vận động của tài sản ngắn hạn, người ta có thể phân loại tài
sản ngắn hạn như sau:
a. Phân loại theo quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn:
Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn, tài sản ngắn hạn
được chia thành:
- Tài sản ngắn hạn dự trữ : là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong
khâu dự trữ của doanh nghiệp mà không tính đến hình thái biểu hiện
của chúng, bao gồm: tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang
chuyển, hàng mua đang đi đường, nguyên nhiên vật liệu tồn kho, công
cụ dụng cụ trong kho, hàng gửi gia công, trả trước cho người bán.
- Tài sản ngắn hạn sản xuất: là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong
khâu sản xuất của doanh nghiệp, bao gồm: giá trị bán thành phẩm, các
chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, chi phí trả trước, chi phí chờ kết
chuyển, các khoản chi phí khác phục vụ cho quá trình sản xuất…
- Tài sản ngắn hạn lưu thông: là toàn bộ tài sản ngắn hạn tồn tại trong
khâu lưu thông của doanh nghiệp, bao gồm: thành phẩm tồn kho, hàng

gửi bán, các khoản nợ phải thu của khách hàng.

11


Theo cách phân loại này giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp xác
định được các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình luân chuyển của tài sản ngắn
hạn để đưa ra biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
chúng một cách cao nhất.
b. Phân loại theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán:
Căn cứ vào các khoản mục trong bảng cân đối kế toán tài sản ngắn hạn
bao gồm: tiền, các khoản đầu tư ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho
và tài sản ngắn hạn khác.
- Tiền mặt:
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của
doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật
liệu, mua tài sản cố định, trả tiền thuế, trả nợ. Tiền mặt bản thân nó là loại tài
sản không sinh lãi, do vậy trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hoá lượng tiền
mặt phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất.
- Các khoản đầu tư ngắn hạn:
Mục tiêu của các doanh nghiệp là việc sử dụng các loại tài sản sao cho
hiệu quả nhất. Các loại chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một
“bước đệm” cho tiền mặt vì nếu số dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu
tư vào chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng
có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí.
Các chứng khoán thanh
Do đó trong quản trị tài chính người ta sử dụng chứng khoán có khả năng
khoản cao
thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn. Ta có thể thấy điều
này qua sơ đồ luân chuyển sau:

Đầu tư tạm thời
bằng cách mua
chứng khoán có
tính thanh khoản
cao

Bán những chứng
khoán thanh khoản
cao để bổ sung cho
tiền mặt.

12
Dòng thu tiền
mặt

Tiền mặt

Dòng chi tiền
mặt


Sơ đồ 1.1: Sơ đồ luân chuyển các khoản đầu tư ngắn hạn
Ta thấy tiền mặt là một hàng hóa nhưng đây là hàng hóa đặc biệt - một
tài sản có tính lỏng nhất. Trong kinh doanh, doanh nghiệp cần một lượng tiền
mặt và phải dùng nó để trả cho các hóa đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền
mặt này hết, doanh nghiệp phải bán các chứng khoán có khả năng thanh
khoản cao để có lượng tiền như ban đầu.
- Các khoản phải thu:
Trong nền kinh tế thị trường việc mua bán chịu là một việc không thể
thiếu. Các doanh nghiệp bán hàng song có thể không nhận được ngay tiền

hàng lúc bán mà nhận sau một thời gian xác định mà hai bên thoả thuận hình
thành nên các khoản phải thu của doanh nghiệp.
Việc cho các doanh nghiệp khác nợ như vậy chính là hình thức tín dụng
thương mại. Với hình thức này có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên
thị trường và trở nên giàu có nhưng cũng không tránh khỏi những rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

13


Khoản phải thu giữ một vai trò quan trọng bởi nếu các nhà quản lý
không cân đối giữa các khoản phải thu thì doanh nghiệp sẽ gặp phải những
khó khăn thâm chí dễ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán.
- Hàng tồn kho:
Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất,
kinh doanh thì việc tồn tại vật tư hàng hoá dự trữ, tồn kho là những bước đệm
cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
Hàng hoá tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình
sản xuất, kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm. Các doanh nghiệp
không thể tiến hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có
nguyên vật liệu dự trữ.
Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai
trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành được bình thường. Tuy
nhiên nếu doanh nghiệp dự trữ quá nhiều sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn thậm
chí nếu sản phẩm khó bảo quản có thể bị hư hỏng, ngược lại nếu dự trữ quá ít sẽ
làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, các khâu tiếp theo sẽ không
thể tiếp tục được nữa đồng thời với việc không hoàn thành được kế hoạch sản
xuất.
Tồn kho trong quá trình sản xuất là các loại nguyên liệu nằm tại từng
công đoạn của dây truyền sản xuất. Thông thường quá trình sản xuất của các

doanh nghiệp được chia thành nhiều công đoạn, giữa những công đoạn này
bao giờ cũng tồn tại những bán thành phẩm.
Đây là những bước đệm nhỏ để quá trình sản xuất được liên tục. Nếu
dây truyền sản xuất càng dài và càng có nhiều công đoạn thì tồn kho trong
quá trình sản xuất sẽ càng lớn.

14


Khi tiến hành sản xuất xong hầu hết các doanh nghiệp chưa thể tiêu thụ
hết sản phẩm. Phần thì do có “độ trễ” nhất định giữa các sản xuất và tiêu
dùng, phần phải có đủ lô hàng mới xuất được... Những doanh nghiệp mà sản
xuất mang tính thời vụ và có quy trình chế tạo tốn nhiều thời gian thì dự trữ,
tồn kho sản phẩm sẽ lớn.
Do đó để đảm bảo cho sự ổn định sản xuất, doanh nghiệp phải duy trì
một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn và tuỳ thuộc vào loại hình doanh
nghiệp mà mức dự trữ an toàn khác nhau.
1.2.2. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay thì việc nâng cao hiệu
quả sử dụng tài sản ngắn hạn có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý
tài chính doanh nghiệp. Thực tiễn nhiều năm trở lại đây cho thấy tài sản ngắn hạn
ở một số doanh nghiệp được sử dụng còn tùy tiện, kém hiệu quả đặc biệt là ở các
doanh nghiệp nhà nước. Do đó, việc sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn hiện nay
luôn là yêu cầu mang tính cấp thiết đối với sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
1.2.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp
Hiệu quả sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề mà các doanh nghiệp quan
tâm, quản trị kinh doanh sản xuất có hiệu quả thì doanh nghiệp mới có thể tồn
tại trên thị trường. Để đạt được hiệu quả đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có

nhiều cố gắng và có những chiến lược sách lược hợp lý từ khâu sản xuất cho
đến khi sản phẩm được đến tay người tiêu dùng.
Mục đích cuối cùng của họ bao giờ cũng là đạt được những mục tiêu
mà họ đề ra . Chính vì vậy quan niệm hiệu quả của mỗi doanh nghiệp là khác
nhau. Tuy nhiên để đi đến mục đích cuối cùng thì vấn đề chung mà các doanh

15


nghiệp đều phải quan tâm chú trọng đến đó chính là hiệu quả sử dụng vốn và
tài sản trong doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng tài sản của doanh nghiệp vào
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích và tối thiểu
hoá chi phí.
Với mỗi doanh nghiệp có một sự cân đối về tài sản riêng mỗi loại tài
sản cũng phải khác nhau, nếu như các doanh nghiệp về lĩnh vực chế biến hay
công nghiệp nặng thì (tỷ lệ) tài sản cố định chiếm một tỷ lệ rất cao trong tổng
giá trị tài sản, ngược lại với các doanh nghiệp lĩnh vực thương mại thì tài sản
ngắn hạn lại chiếm đa số.
Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thì tài sản ngắn hạn đóng một
vai trò hết sức quan trọng, các nhà quản lý luôn phải cân nhắc làm sao sử
dụng các loại tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả.
Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là kết quả đạt được cao nhất với mục
tiêu mà doanh nghiệp đã đặt ra. Nghĩa là phải làm sao có được nhiều lợi
nhuận từ việc khai thác và sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp vào
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tối đa hoa lợi ích và tối thiểu hóa chi
phí.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ta sử dụng các nhóm chỉ
tiêu dưới đây:

1.2.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một phạm trù rộng, bao hàm
nhiều mặt tác động khác nhau. Vì vậy, khi phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử
dụng tài sản ngắn hạn ta cần xem xét trên nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau.

16


a. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán:
Do đặc điểm của tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao, cho nên
việc sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn là sự lựa chọn đánh đổi giữa khả năng
sinh lời với tính thanh khoản. Do đó, khi phân tích khả năng thanh toán của
doanh nghiệp thì người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây:
- Hệ số thanh toán hiện hành:
Đây là một trong những thước đo khả năng thanh toán của một doanh
nghiệp, được sử dụng rộng rãi nhất là hệ số thanh toán hiện hành.
Tài sản ngắn hạn
Hệ số thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán hiện hành cho thấy doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản
có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn
hạn. Hệ số này đo lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Nếu hệ số thanh toán hiện hành giảm cho thấy khả năng thanh toán
giảm, đó là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra. Nếu hệ
số này cao, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp luôn sẵn sàng thanh toán các
khoản nợ. Tuy nhiên, nếu hệ số này cao quá sẽ giảm hiệu quả hoạt động vì
doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào tài sản ngắn hạn.
- Hệ số thanh toán nhanh:
Tài sản ngắn hạn - Hàng tồn kho
Hệ số thanh toán nhanh


=
Nợ ngắn hạn

Hệ số thanh toán nhanh được tính toán trên cơ sở những tài sản lưu
ngắn hạn có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, đôi khi chúng còn được

17


gọi là tài sản có tính thanh khoản, tài sản có tính thanh khoản bao gồm tất cả
tài sản ngắn hạn trừ hàng tồn kho. Do đó, hệ số thanh toán nhanh cho biết khả
năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào hàng tồn kho.
b. Nhóm các chỉ tiêu hoạt động:
Là các hệ số đo lường khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Để nâng cao
hệ số hoạt động, các nhà quản trị phải biết những tài sản nào chưa sử dụng, không
sử dụng hoặc không tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp. Vì thế doanh nghiệp cần
phải biết cách sử dụng chúng sao cho có hiệu quả hoặc loại bỏ chúng đi. Hệ số
hoạt động đôi khi còn gọi là hệ số hiệu quả hoặc hệ số luân chuyển. Do đó, khi
phân tích các chỉ tiêu hoạt động thì người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây:
- Vòng quay các khoản phải thu:
Các khoản phải thu là các khoản bán chịu mà doanh nghiệp chưa thu
tiền do thực hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán
các khoản trả trước cho người bán …
Doanh thu thuần
Vòng quay các khoản phải thu =
Các khoản phải thu bình quân
Vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc
khách hàng thanh toán các khoản nợ cho doanh nghiệp. Khi khách hàng thanh
toán các khoản nợ đã đến hạn thì lúc đó các khoản phải thu đã quay được một

vòng.
- Kì thu tiền bình quân:
Kì thu tiền bình quân cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách bán chịu
của doanh nghiệp. Nếu vòng quay các khoản phải thu cao quá thì sẽ làm giảm
sức cạnh tranh, làm giảm doanh thu.

18


Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân

=
Doanh thu bình quân 1 ngày

Khi phân tích hệ số này, ngoài việc so sánh các năm, so sánh với các
doanh nghiệp cùng ngành, doanh nghiệp cần xem xét kỹ lưỡng tong khoản
phải thu để phát hiện những khoản nợ đã quá hạn để có biện pháp xử lý kịp
thời.
- Chu kỳ thu tiền:
360
Chu kỳ thu tiền =
Vòng quay các khoản phải thu
Chỉ tiêu này cho ta biết tốc độ chuyển đổi nợ phải thu từ khách hàng
thành tiền trong quỹ của doanh nghiệp là bao lâu. Chỉ tiêu này càng nho thì
tình hình kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại.
- Vòng quay hàng tồn kho:
Vòng quay hàng tồn kho là một tiêu chuẩn để đánh giá doanh nghiệp sử
dụng hàng tồn kho của mình hiệu quả như thế nào.
Doanh thu thuần

Vòng quay của hàng tồn kho

=
Hàng tồn kho bình quân

Hàng tồn kho bình quân là bình quân số học của vật tư hàng hoá dự trữ
đầu và cuối kỳ.
Các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất luôn phải tính đến mức dự trữ
bởi doanh nghiệp không thể nào đến lúc sản xuất mới mua nguyên vật liệu.

19


Để tránh trường hợp bị ứ đọng thì doanh nghiệp phải có trước một
lượng vật tư hàng hoá vừa phải bởi nếu quá nhiều doanh nghiệp sẽ mất khoản
chi phí để bảo quản vật liệu. Nếu lượng vật tư quá ít không đủ cho sản xuất sẽ
dẫn đến tình trạng tắc nghẽn ở các khâu tiếp theo.
Như vậy chỉ tiêu này rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nó quyết
định thời điểm đặt hàng cũng như mức dự trữ an toàn cho doanh nghiệp.
Vòng quay càng cao thể hiện khả năng sử dụng tài sản lưu động cao.
Vòng quay dự trữ, tồn kho cao thể hiện được khả năng sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp tốt, có như vậy mới đạt được mục tiêu mà doanh
nghiệp đặt ra. Chỉ tiêu này cao phản ánh được lượng vật tư, hàng hóa được
đưa vào sử dụng cũng như được bán ra nhiều, như vậy là doanh thu sẽ tăng và
đồng thời lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được cũng tăng lên.Vòng quay hàng
tồn kho cao hay thấp phụ thuộc vào đặc điểm của tong ngành nghề kinh
doanh, phụ thuộc vào mặt hàng kinh doanh.
- Chu kỳ lưu kho:
360
Vòng quay của hàng tồn kho


=
Vòng quay hàng tồn kho

Chỉ tiêu này cho ta biết số ngày lượng hàng hàng tồn kho được chuyển
đổi thành doanh thu. Từ chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết cho việc luân
chuyển kho vì hàng tồn kho có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn ở khâu dự trữ. Hệ số này chứng tỏ công tác quản lý hàng tồn
kho càng tốt, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao và ngược lại.
- Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn:

20


Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn trong kỳ đem lại bao
nhiêu đơn vị doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử
dụng tài sản ngắn hạn càng cao.
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng TSNH

=
TSNH bình quân trong kỳ

Tài sản ngắn hạn bình quân trong kỳ là bình quân số học của tài sản
ngắn hạn có ở đầu kỳ và cuối kỳ.
- Hệ số khả năng thanh toán lãi vay:

Lợi nhuận trước thuế + Lãi vay
Hệ số khả năng thanh toán lãi vay =
Lãi vay bình quân

Hệ số nay cho biết lợi nhuận trước thuế bao gồm lãi vay của doanh
nghiệp có đảm bảo khả năng thanh toán lãi vay hay không.
c. Chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời:
- Hệ số sinh lời của tài sản ngắn hạn:
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn. Nó cho biết
mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau
thuế.
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lời của TSNH =
TSNH bình quân trong kỳ
Tài sản ngắn hạn bình quân trong kỳ là bình quân số học của tài sản
ngắn hạn có ở đầu và cuối kỳ. Chỉ tiêu này cao phản ánh lợi nhuận sau thuế

21


của doanh nghiệp cao, các doanh nghiệp đều mong muốn chỉ số này càng cao
càng tốt vì như vậy đã sử dụng được hết giá trị của tài sản ngắn hạn. Hiệu quả
của việc sử dụng tài sản ngắn hạn thể hiện ở lợi nhuận của doanh nghiệp, đây
chính là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được. Kết quả này phản ánh
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản
ngắn hạn nói riêng. Với công thưc trên ta thấy, nếu tài sản ngắn hạn sử dụng
bình quân trong kỳ thấp mà lợi nhuận sau thuế cao thì hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn cao.
1.2.2.3. Chính sách quản lý tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
Tài sản ngắn hạn là những tài sản thường xuyên luân chuyển trong quá
trình sản xuất kinh doanh. Do đó, quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản ngắn
hạn có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của
doanh nghiệp. Chính sách quản lý tài chính doanh nghiệp được thể hiện như
sau:

a.Chính sách quản lý hàng tồn kho
Dự trữ, tồn kho là một bộ phận quan trọng của tài sản lưu động, là
những bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không thể tiến
hành sản xuất đến đâu mua hàng đến đó mà cần phải có nguyên vật liệu dự
trữ. Nguyên vật liệu dự trữ không trực tiếp tạo ra lợi nhuận nhưng nó có vai
trò rất lớn để cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành được bình thường.
Quản lý vật liệu dự trữ hiệu quả sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài
sản lưu động. Do vậy, doanh nghiệp tính toán dự trữ một lượng hợp lý vật
liệu, nếu dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá ít
sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn gây ra hàng loạt các
hậu quả như mất thị trường, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp …

22


Tồn kho trong quá trình sản xuất là các nguyên vật liệu nằm ở các công
đoạn của dây chuyền sản xuất. Nếu dây chuyền sản xuất càng dài và càng có
nhiều công đoạn sản xuất thì tồn kho trong quá trình sản xuất sẽ càng lớn.
Đây là những bước đệm nhỏ để quá trình sản xuất được liên tục.
Khi tiến hành sản xuất xong, do có độ trễ nhất định giữa sản xuất và
tiêu thụ, do những chính sách thị trường của doanh nghiệp … đã hình thành
nên bộ phận thành phẩm tồn kho.
Hàng hoá dự trữ đối với các doanh nghiệp gồm 3 bộ phận như trên
nhưng thông thường trong quản lý chúng ta tập trung vào bộ phận thứ nhất,
tức là nguyên vật liệu dự trữ cho sản xuất kinh doanh.
Có nhiều phương pháp được đưa ra nhằm xác định mức dự trữ tối ưu:
- Quản lý dự trữ theo phương pháp cổ điển hay mô hình đặt hàng hiệu
quả nhất - EOQ (Economic odering Quan tity):
Mô hình được dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là

bằng nhau. Theo mô hình này, mức dự trữ tối ưu là:

Trong đó:
Q*: Mức dự trữ tối ưu
D: toàn bộ lượng hàng hoá cần sử dụng
C2: chi phí mỗi lần đặt hàng (chi phí quản lý giao dịch và vận chuyển hàng
hoá).
C1: chi phí lưu kho đơn vị hàng hoá (chi phí bốc xếp, bảo hiểm, bảo quản …).

23


Điểm đặt hàng mới: Về mặt lý thuyết ta giả định khi nào lượng hàng kỳ
trước hết mới nhập kho lượng hàng mới nhưng trên thực tế hầu như không
bao giờ như vậy. Nhưng nếu mặt hàng quá sớm sẽ làm tăng lượng nguyên liệu
tồn kho. Do vậy các doanh nghiệp cần phải xác định thời điểm đặt hàng mới.
Thời điểm; đặt hàng mới = Số lượng nguyên liệu; Sử dụng mỗi ngày x Độ dài
thời gian; giao hàng
Lượng dự trữ an toàn: Nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là
số cố định mà chúng biến động không ngừng. Do đó để đảm bảo cho sự ổn
định của sản xuất, doanh nghiệp cần phải duy trì một lượng hàng tồn kho dự
trữ an toàn. Lượng dự trữ an toàn tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh
nghiệp. Lượng dự trữ an toàn là lượng hàng hoá dự trữ thêm vào lượng dự trữ
tại thời điểm đặt hàng.
Ngoài phương pháp quản lý dự trữ theo mô hình đặt hàng hiệu quả nhất
(EOQ) nhiều doanh nghiệp còn sử dụng phương pháp sau đây:
- Phương pháp cung cấp đúng lúc hay dự trữ bằng 0.
Theo phương pháp này các doanh nghiệp trong một số ngành nghề có
liên quan chặt chẽ với nhau hình thành nên những mối quan hệ, khi có một
đơn đặt hàng nào đó họ sẽ tiến hành huy động những loại hàng hoá và sản

phẩm dở dang của các đơn vị khác mà họ không cần phải dự trữ. Sử dụng
phương pháp này tạo ra sự ràng buộc các doanh nghiệp với nhau, khiến các
doanh nghiệp đôi khi mất sự chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
b. Chính sách quản lý tiền mặt
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của
doanh nghiệp ở ngân hàng. Tiền mặt bản thân nó là tài sản không sinh lãi, tuy
nhiên việc giữ tiền mặt trong kinh doanh rất quan trọng xuất phát từ những lý

24


do sau: Đảm bảo giao dịch hàng ngày, bù đắp cho ngân hàng về việc ngân
hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu dự phòng trong
trường hợp biến động không lường trước của các luồng tiềm vào và ra, hưởng
lợi thế trong thương lượng mua hàng.
Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân
hàng. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại tài sản gắn
liền với tiền mặt như các loại chứng khoán khả năng thanh khoản cao.
Trong kinh doanh, doanh nghiệp phải lưu giữ tiền mặt cần thiết cho các
hoá đơn thanh toán khi tiền mặt xuống thấp doanh nghiệp sẽ phải bổ sung tiền
mặt bằng cách bán các chứng khoán thanh khoản cao. Chi phí cho việc lưu
giữ tiền mặt ở đây chính là chi phí cơ hội; là lãi suất mà doanh nghiệp bị mất
đi. Chi phí đặt hàng chính là chi phí cho việc bán các chứng khoán. Khi đó áp
dụng mô hình EOQ ta có lượng dự trữ tiền mặt tối ưu M* là:

Trong đó:
M*: tổng mức tiền mặt giải ngân hàng năm
Mn: tiền mặt thanh toán hàng năm
Cb: chi phí một lần bán chứng khoán thanh khoản
i : lãi suất

Từ công thức trên cho thấy nếu lãi suất càng cao thì doanh nghiệp càng
giữ ít tiền mặt và ngược lại, nếu chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao
thì họ lại càng giữ nhiều tiền mặt. Mô hình số dư tiền mặt không thực tiễn ở
chỗ giả định rằng doanh nghiệp chi trả tiền mặt một cách ổn định, điều này
không luôn luôn đúng trong thực tế.

25


×