Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Quy tắc Taylor và chính sách tiền tệ của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
--------------------------

VŨ THỊ HOA

QUY TẮC TAYLOR VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

CỦA VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp.Hồ Chí Minh – Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM
--------------------------

VŨ THỊ HOA

QUY TẮC TAYLOR VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

CỦA VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. NGUYỄN NGỌC ĐỊNH

Tp.Hồ Chí Minh – Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Quy tắc Taylor và chính sách tiền tệ của Việt
Nam” là kết quả nghiên cứu riêng của tôi có sự hỗ trợ từ Thầy hướng dẫn PGS.TS.
Nguyễn Ngọc Định. Các số liệu và thông tin sử dụng trong luận văn đều có nguồn
gốc, trung thực và được phép công bố. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng
các tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và các trang web theo
danh mục tài liệu của luận văn.
Trân trọng.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2015
Tác giả luận văn

Vũ Thị Hoa


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng
TÓM TẮT ............................................................................................................................ 1
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU................................................................................................. 2
1.1.


Lý do chọn đề tài ...............................................................................................2

1.2.

Mục tiêu của nghiên cứu ...................................................................................9

1.3.

Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................10

1.4.

Phương pháp nghiên cứu ................................................................................10

1.5.

Cấu trúc luận văn ............................................................................................11

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VÀ KHUNG LÝ
THUYẾT ............................................................................................................................ 12
2.1. Khung lý thuyết ...............................................................................................12
2.1.1. Quy tắc Taylor tuyến tính ........................................................................12
2.1.2.

Quy tắc Taylor phi tuyến..........................................................................16

2.2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây ..............................................................17
2.2.1. Các nghiên cứu về quy tắc Taylor trên thế giới .......................................17
2.2.2.


Các nghiên cứu về quy tắc Taylor tại Việt Nam ......................................23

CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................... 26

3.1. Giả thuyết nghiên cứu .....................................................................................26
3.2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu ...............................................................27
3.2.1. Sơ lược về dữ liệu ....................................................................................28


3.2.2.

Phương pháp hồi quy GMM (Generalized Method of Moments) ...........35

CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................... 40
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN............................................................................................... 52
5.1. Kết luận ..............................................................................................................52
5.2. Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................54
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Tên tiếng Việt

Tên tiếng Anh

NHTW

Ngân hàng Trung ương.


BOE

Ngân hàng Trung ương Anh.

Bank of England

ECB

Ngân hàng Trung ương Châu Âu.

European Central Bank

FED

Cục dự trữ liên bang Mỹ.

Federal Reserve System

BOJ

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản.

Bank of Japan

SBV

Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

The State Bank of Vietnam


GMM

TSLS

LIML

OLS

Phương pháp hồi quy tuyến tính tổng Generalized method of moments
quát.
Phương pháp bình phương bé nhất hai Two-Stage Least Squares
giai đoạn.
Phương pháp hợp lí cực đại trong điều Limited-information maximum
kiện giới hạn thông tin.

likelihood

Phương pháp ước lượng bình phương Ordinary least squares
nhỏ nhất.

FCI

Chỉ số điều kiện tài chính.

Financial Conditions Index

EFCI

Chỉ số điều kiện tài chính mở rộng.


European Central Bank

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế.

Extended financial conditions

GSO

Tổng cục thống kê Việt Nam.

ADB

Ngân hàng phát triển Châu Á.

HSX

General statistics office of Viet
Nam
Asian Development Bank

Sở giao dịch chứng khoán thành phố Ho Chi Minh Stock Exchange
HCM


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ ĐỒ THỊ.
Bảng 1


Tổng hợp câu hỏi và các giả thuyết nghiên cứu

Bảng 2

Các biến sử dụng trong mô hình

Hình 1

Lãi suất và lạm phát của Việt Nam theo tháng giai đoạn 2001 - 2013

Hình 2

Các biến nghiên cứu chính tại Việt Nam giai đoạn 2008 – 2013

Bảng 3

Thống kê mô tả dữ liệu mẫu

Bảng 4

Kết quả kiểm định NP của các biến

Bảng 5

Kết quả kiểm định KPSS của các biến

Bảng 6

Kiểm định tính dừng của các biến


Bảng 7

Biến công cụ

Bảng 8Kế Kết quả hồi quy thô ước lượng chính sách tiền tệ Việt Nam (1/200812/2013
Bảng 9
Kết quả hồi quy ước lượng chính sách tiền tệ Việt Nam (1/2008 –
12/2013)
Bảng 10

Tóm tắt các kết quả


1

TÓM TẮT
Bài nghiên cứu phân tích liệu rằng chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung
ương Việt Nam có thể được mô tả bằng quy tắc Taylor cơ bản hay quy tắc Taylor
cải tiến. Và xem xét liệu ngân hàng Trung ương Việt Nam có phản ứng với các chỉ
số tài chính chứa đựng thông tin từ giá tài sản.
Kết quả hồi quy OLS chỉ ra rằng việc điều hành chính sách tiền tệ của ngân
hàng Trung ương Việt Nam không tuân theo quy tắc Taylor cơ bản mà tuân theo
quy tắc Taylor cải tiến.
Phương pháp GMM được sử dụng để xem xét chính sách tiền tệ của ngân
hàng Trung ương Việt Nam có phản ứng với biến vĩ mô như: Inflation, OutpGap,
Yield10yr, M2, REER, Rstock, USOuptgap và các biến tài chính: FCI và EFCI. Kết
quả cho thấy ngân hàng Trung ương Việt Nam khi điều hành chính sách tiền tệ bên
cạnh các yếu tố vĩ mô và chu kỳ kinh tế còn xem xét sự biến động của các yếu tố
trên thị trường tài chính và tiền tệ.
Từ khóa: Quy tắc Taylor, chính sách tiền tệ, chỉ số điều kiện tài chính, lãi

suất cơ bản, nguyên tắc điều hành, ngân hàng Trung ương.


2

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU
1.1.

Lý do chọn đề tài
Lãi suất là một yếu tố rất quan trọng là một công cụ để đo lường sức khỏe

của nền kinh tế. Người ta có thể dựa vào sự biến động của lãi suất để dự báo các
yếu tố khác của nền kinh tế như: khả năng sinh lời của các cơ hội đầu tư, lạm phát
kì vọng, mức thâm hụt ngân sách. Hơn nữa về phương diện lý thuyết cũng như thực
tiễn các nước đã chứng minh, việc thay đổi lãi suất thực có tác động nhạy cảm đến
sản lượng và giá cả. Vì vậy, ngân hàng Trung ương rất coi trọng việc điều tiết lãi
suất nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là kiềm chế lạm phát
và góp phần tăng trưởng kinh tế. Việc áp dụng một cơ chế lãi suất phù hợp giúp cho
chính sách tiền tệ phát huy tác dụng là một vấn đề khá khó khăn đối với các ngân
hàng Trung ương. Trên thực tế, các nhà kinh tế học đã đưa ra nhiều mô hình cũng
như công cụ để các nhà điều hành chính sách dự báo lãi suất nhằm đưa ra những
quyết định phù hợp với mỗi quốc gia. Tuy nhiên, liệu thật sự có khả năng tính toán
được lãi suất bằng những mô hình như thế để ngân hàng Trung ương có thể dựa vào
đó mà áp dụng được chính sách tiền tệ tốt được hay không? Và nếu như có thì tồn
tại một mô hình như vậy thì sẽ áp dụng như thế nào đối với việc điều hành chính
sách tiền tệ tại Việt Nam trong bối cảnh hiện tại?
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của phần lớn ngân hàng Trung ương
của các nước trên thế giới cũng như ngân hàng Trung ương Việt Nam là ổn định giá
trị đồng tiền của quốc gia thông qua việc kiểm soát lạm phát. Trong đó, lãi suất là
một trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương để

đạt được mục tiêu tôn chỉ đó.
Đối với các nền kinh tế thị trường chưa phát triển như Việt Nam, nhiều quan
hệ kinh tế chưa thực sự mang tính thị trường thì việc vận dụng các nền tảng lý
thuyết để hoạch định chính sách lãi suất cần có sự linh hoạt, bám sát mục tiêu định
hướng phát triển kinh tế xã hội cũng như các diễn biến thực tế của thị trường. Trong
điều kiện như hiện nay, để đạt được mục tiêu định hướng nêu trên, hoạch đinhj
chính sách lãi suất của ngân hàng Trung ương cần phải xem xét đến các yếu tố thực
tế.


3

Lãi suất ở Việt Nam dần dần được tự do hóa vào giữa những năm 1990.
Trước đó thì ngân hàng Trung ương Việt Nam áp dụng quy định mức trần đối với
lãi suất cho vay và mức tối thiểu đối với lãi suất tín dụng. Sau đó ngân hàng Trung
ương quyết định thay thế bằng lãi suất cơ bản được công bố hằng tháng và các ngân
hàng thương mại dựa vào đó mà quy định mức lãi suất cho vay trong một giới hạn
cụ thể.
Dưới đây là đồ thị thể hiện tình hình biến động lãi suất và lạm phát theo
tháng giai đoạn 2001 – 2013 của Việt Nam:

Hình 1: Lãi suất và lạm phát của Việt Nam theo tháng giai đoạn 2001 - 2013
Từ năm 2002, các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể xác định mức lãi
suất cho vay cũng như mức lãi suất tín dụng theo điều kiện thị trường. Suốt thời kì
2000 – 2003 Việt Nam chính thức thóat khỏi cuộc khủng hoảng tài chính tại châu Á
đạt mức tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát được duy trì ở mức thấp. Tuy nhiên từ
năm 2004, SBV lại phải đối mặt với áp lực lạm phát cao do sự gia tăng giá cả tiêu
dùng thế giới và làn sóng đầu tư vào bất động sản từ các nhà đầu tư nước ngoài nên
buộc SBV phải nâng lãi suất. Tương tự với đó là hình ảnh các loại lãi suất tăng
mạnh trong năm 2008 và năm 2011 do chính sách thắt chặt tiền tệ, thắt chặt nhằm



4

kiềm chế đối với sự gia tăng lạm phát quá mức trong 2 năm này của nền kinh tế mà
nguyên nhân sâu xa là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tại Mỹ từ 2008.
Cho đến thời điểm hiện nay có thể thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có
sự phát triển vượt bậc về nhiều mặt, đặc biệt trong việc ứng dụng công nghệ ngân
hàng mới. Tuy nhiên, năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của
các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều.
Tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động trong năm
2008 và những biểu hiện của thị trường những tháng đầu năm 2010 là sự biểu hiện
rõ nét của tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh. Khi ngân hàng Trung ương thực
hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các ngân hàng Thương
mại đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao, khoảng 18%. Mức lãi suất này đã hạn chế
khả năng mở rộng tín dụng của các NHTM (mức tăng trưởng tín dụng quý 1 chỉ đạt
3,34%). Trong quý 1/2010, tăng trưởng tín dụng không cao, nguồn vốn vay của các
NHTM từ NHNN để đáp ứng thanh khoản tăng, điều đó cho thấy vốn của các
NHTM không khan hiếm. Do vậy, với mức lãi suất huy động mà NHNN đã khuyến
cáo các NHTM cần thực hiện theo thỏa thuận của Hiệp hội Ngân hàng là 10,5% và
lạm phát mục tiêu của Chính phủ là 7% thì đã đảm bảo một mức lãi suất thực hợp lý
cho người gửi tiền, nhưng phản ứng của các NHTM là vẫn đua nhau tăng mức lãi
suất huy động cao hơn dưới nhiều hình thức. Những hiện tượng này biểu hiện sự bất
cập lớn của thị trường, nếu không có những biện pháp ngăn chặn sẽ gây ra những
bất ổn của hệ thống ngân hàng, từ đó có thể gây ra khủng hoảng ngân hàng.
Trong cấu trúc thị trường hiện nay, còn có một đặc điểm ảnh hưởng không
nhỏ đến tính hiệu quả của tự do hóa lãi suất, đó là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi
suất chính sách là không nhỏ. Dư nợ tín dụng của ngân hàng chính sách xã hội và
ngân hàng phát triển chiếm khoảng 12,1% tổng dư nợ trong nền kinh tế... Ngoài các
khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có

không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực
hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng Chính sách xã hội, các dự án đầu
tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa... Các chính sách
ưu đãi này là cần thiết trong quá trình phát triển nền kinh tế hiện nay, nhưng ở
chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó


5

lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân
bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó.
Thực tế cho thấy các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ,
dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn”- là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của
VN hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ
một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào, tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là
chính sách tiền tệ - một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột.
Về lý thuyết, khi cân nhắc lợi ích thu được từ các quyết định đầu tư, kinh
doanh, các chủ thể trong nền kinh tế thường quan tâm đến mức lãi suất thực mà
mình được nhận được là bao nhiêu. Nhìn vào thực tế của VN hiện tại, mức lãi suất
thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình trong 3
tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến mãi khác.
Tuy nhiên lãi suất thực đang có xu hướng giảm bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng của
tốc độ gia tăng CPI. Và trong trường hợp này, thường để theo đuổi mục tiêu lãi suất
thực dương thì lãi suất danh nghĩa sẽ được tăng dần. Như vậy có nghĩa là các
NHTM vẫn có thể tăng lãi suất huy động để cạnh tranh thu hút vốn nếu như NHNN
dỡ bỏ trần lãi suất huy động vào thời điểm này. Hơn nữa, với xu hướng này, một tín
hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát.
Mặt khác, xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì
hiện nay các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương
đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả

ước lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo
phương pháp OLS (41 quan sát từ quý 1/2000 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa
10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh
tế giảm 0,04% so với quý trước. Điều này là hoàn toàn phù hợp với lý thuyết về mối
quan hệ ngược chiều giữa lãi suất, đầu tư và tổng sản lượng trong nền kinh tế. Tuy
nhiên ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế. Vì
vậy mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động
của tăng trưởng kinh tế.
Là một nền kinh tế USD hóa, lãi suất nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi


6

suất ngoại tệ cộng (+) với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ
giữa nội tệ và ngoại tệ của các thành viên trong thị trường. Điều này sẽ gây ra
những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền
đồng cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá
nổi lên như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng
hàng loạt chính sách khác (như yêu cầu các Công ty lớn bán ngoại tệ cho NHNN,
điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, quy định trần
lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các DN...) đã phải hướng tới sự ổn định này.
Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT. Vì vậy mục tiêu theo đuổi của
chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của CSTT, quá trình hoàn thiện cơ chế
điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của
CSTT là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định
kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được
gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu
kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định
chính sách lãi suất từng thời kỳ.

Trên nguyên tắc đó, trong năm 2010 hai vấn đề nổi lên mà chính sách lãi
suất cần hướng tới nhiều hơn. Đó là áp lực lạm phát gắn với hỗ trợ tăng trưởng kinh
tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, chính sách này phải giải quyết được những
mối quan hệ ràng buộc và bất cập hiện nay trên thị trường tiền tệ, nhưng đồng thời
cùng với các công cụ chính sách khác thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. Do vậy,
tự do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường
về cơ bản tuân theo quy luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song với thực
trạng nền kinh tế đang phải đối mặt với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp
dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết, và từng bước tạo dựng những
điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi suất.
Trước mắt, phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất
thị trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy
được tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân NHTƯ của quốc gia đó
phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về
lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái


7

cân bằng.Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản – làm cơ sở định
hướng chuẩn cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc
cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.
Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo,
như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất
nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi
cho vay, đi vay của các thành viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ
được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.
Tuy nhiên thực tế là Ngân hàng Trung ương cùng với Bộ Tài chính tiếp tục
điều chỉnh lãi suất trực tiếp hơn là thông qua cơ chế chính sách tiền tệ gián tiếp. Ví
dụ, ngân hàng Trung ương tiến hành công bố mức lãi suất cơ bản, bộ tài chính cũng

tiếp tục đưa ra các mức lãi suất tham khảo nhưng mức độ hiệu lực rất giới hạn. Năm
2000, thị trường mở đi vào hoạt động và cho thấy tín hiệu đầu tiên của những công
cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Trong giai đoạn này cơ bản đã hình thành thị
trường tiền tệ và thị trường tài chính từ đó tạo ra những yếu tố cơ bản để hình thành
một hệ thống tài chính ngân hàng dựa trên cơ chế thị trường. Tuy nhiên lúc này việc
điều hành chính sách tiền tệ vẫn gặp nhiều khó khăn nguyên nhân là do:
Sự thay đổi liên tục về cấu trúc của hệ thống tài chính Việt Nam dẫn tới việc
rất khó để xác định mối quan hệ ổn định giữa các biến số kinh tế vĩ mô với
việc thực hiện chính sách tiền tệ hiệu quả trong một môi trường với sự tồn tại
quá nhiều yếu tố biến đổi.
Sự nghèo nàn của hệ thống thị trường tiền tệ và thiếu hụt các công cụ tài
chính cần thiết và sự giới hạn trong phạm vi hoạt động của thị trường mở.
Kênh cho vay của ngân hàng là một trong những kênh chính sách hiệu quả
mặc dù vấn đề về bảng cân đối của báo cáo tài chính của ngân hàng và các
doanh nghiệp đã giới hạn sự hiệu quả của kênh này.
Thị trường tài chính chưa hoàn thiện cũng là nguyên nhân dẫn đến giới hạn
tính hiệu quả của chính sách tiền tệ thông qua kênh lãi suất.
Với thực tiễn chính sách tiền tệ Việt Nam hiện tại đang phải đối mặt với vô
số các vấn đề như lạm phát, đô la hóa nền kinh tế, tỉ giá, hoạt động thị trường mở
không hiệu quả và những yếu tố vĩ mô không ổn định. Chính vì thế phải có quy tắc


8

chính sách tiền tệ hợp lý để đưa ra quyết định sử dụng những thông tin theo cách
nhất quán và có thể dự đoán được. Để xây dựng được quy tắc và thực hiện nó một
cách hiệu quả, trước tiên ngân hàng Trung ương phải xác định mục tiêu hợp lý và
cam kết theo đuổi mục tiêu đó. Các quy tắc chính sách được sử dụng phổ biến bởi
ngân hàng Trung ương các nước bao gồm:
(1) Mục tiêu cung tiền: Quy tắc này được ủng hộ bởi các nhà kinh tế tiền tệ,

điển hình là Milton Friedman. Các nhà kinh tế tiền tệ tin rằng nguyên nhân chính
gây ra các biến động của nền kinh tế là biến động của cung tiền. Với quy tắc này,
ngân hàng Trung ương sẽ ấn định mức tăng trưởng cung tiền hàng năm ở mức thấp
và ổn định nhằm duy trì sự ổn định của sản lượng, việc làm, và giá cả. Thông
thường tốc độ tăng trưởng cung tiền được ấn định ở mức lớn hơn đôi chút so với tốc
độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Ví dụ như Milton Friedman đề xuất mức tăng
trưởng cung tiền hàng năm là 3% cho nền kinh tế Mĩ. Mặc dù quy tắc chính sách
tiền tệ này đáng lẽ có thể giúp cho nền kinh tế tránh khỏi nhiều biến động trong quá
khứ tuy nhiên hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng nó không phải là tối ưu. Sự ổn
định của cung tiền chỉ giúp ổn định tổng cầu nếu như tốc độ lưu chuyển của tiền là
không đổi. Trong thực tế, nhiều cú sốc kinh tế gây ra sự biến động của cầu tiền và
do vậy là tốc độ lưu chuyển. Các nhà kinh tế tin rằng tăng trưởng cung tiền cần phải
được điều chỉnh linh hoạt, chứ không nên cố định, để trung hòa các cú sốc này.
(2) Mục tiêu GDP danh nghĩa: Đây là quy tắc được các nhà kinh tế ủng hộ
rộng rãi, đặc biệt là ở Mĩ. Theo quy tắc này, ngân hàng Trung ương sẽ công bố mức
mục tiêu của GDP danh nghĩa – tức là GDP tính theo giá hiện hành. Nếu GDP danh
nghĩa thấp hơn mức mục tiêu này, ngân hàng Trung ương sẽ tăng cung tiền nhằm
kích thích tổng cầu và ngược lại. Do mục tiêu GDP danh nghĩa cho phép chính sách
tiền tệ phản ứng với những thay đổi của tốc độ lưu chuyển tiền tệ nên hầu hết các
nhà kinh tế tin rằng nó có thể mang lại sự ổn định về sản lượng và giá cả tốt hơn so
với quy tắc của các nhà kinh tế tiền tệ.
(3) Mục tiêu lạm phát: Đây cũng là quy tắc được nhiều nhà kinh tế ủng hộ và
được sử dụng phổ biến nhất bởi ngân hàng Trung ương nhiều nước trên thế giới như
Anh, Úc, Canada, Thụy Điển,… Theo quy tắc này, ngân hàng Trung ương sẽ công
bố một mức mục tiêu đối với tỉ lệ lạm phát và điều chỉnh cung tiền, do vậy là lãi
suất, khi tỉ lệ lạm phát thực tế lệch khỏi tỉ lệ lạm phát mục tiêu. Giống như quy tắc


9


mục tiêu GDP danh nghĩa, quy tắc này cũng giúp nền kinh tế trung hòa được các cú
sốc về cầu tiền. Ngoài ra, quy tắc mục tiêu lạm phát có lợi thế thêm nữa về tính
minh bạch đối với công chúng.
(4) Quy tắc Taylor: Ngoài việc theo đuổi mục tiêu lạm phát ngân hàng Trung
ương các nước còn có thể đồng thời theo đuổi mục tiêu đối với GDP thực – GDP
tính theo giá so sánh. Đây chính là quy tắc đề xuất bởi nhà kinh tế John Taylor và
được ngân hàng Trung ương Mĩ thực hiện trong nhiều năm qua. Theo quy tắc này,
ngân hàng Trung ương sẽ điều chỉnh cung tiền và lãi suất bất cứ khi nào lạm phát
lệch khỏi mức mục tiêu và/hoặc GDP lệch khỏi mức GDP tiềm năng trong dài hạn.
Do mối quan hệ ngược chiều giữa lạm phát và GDP, nên điều quan trọng đối với
các nhà hoạch định chính sách là phải kết hợp hài hòa được giữa hai mục tiêu này
một cách đồng thời.
Tác giả sẽ xem xét nghiên cứu chính sách tiền tệ của Việt Nam và quy tắc
Taylor để từ đó đưa ra được những khuyến nghị và những giải pháp phù hợp để cải
thiện hệ thống ngân hàng của Việt Nam.
Việc điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam dường như thiếu hiệu quả,
ngay cả lãi suất cơ bản là công cụ chính của ngân hàng Trung ương cũng được xây
dựng một cách định tính không sát với thực tế thị trường và mang tính “ấn định”
nhiều hơn. Vậy làm thế nào để các nhà hoạch định chính sách sử dụng công cụ lãi
suất hữu hiệu hơn, chính sách tiền tệ linh hoạt hơn thì đây chính là nguyên nhân
thôi thúc tác giả thực hiện đề tài “Quy tắc Taylor và chính sách tiền tệ của Việt
Nam”.
1.2.

Mục tiêu của nghiên cứu
Mục tiêu chính của nghiên cứu là xem xét chính sách tiền tệ của ngân hàng

Trung ương Việt Nam có thể được mô tả bằng quy tắc Taylor cải tiến hay không.
Bài nghiên cứu kiểm chứng mối quan hệ giữa thay đổi lãi suất cơ bản và tỷ lệ lạm
phát, chênh lệch sản lượng, lãi suất cho vay, tỷ giá hối đoái, tăng trưởng cung tiền,

giá chứng khoái, lãi suất liên ngân hàng và lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10
năm.
Bên cạnh đó bài nghiên cứu còn tìm hiểu ngân hàng Trung ương Việt Nam
có phản ứng với các biến tài chính: FCI và EFCI.


10

Như vậy từ mục tiêu nghiên cứu thì tác giả đưa ra các câu hỏi nghiên cứu
như sau:
-

Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương Việt Nam được
mô tả theo quy tắc Taylor cơ bản hay cải tiến?

 Nhằm kiểm tra khi xây dựng chính sách tiền tệ thì ngân hàng Trung ương
Việt Nam dựa trên giá trị quá khứ, hiện tại hay là giá trị kỳ vọng trong tương
lai.
-

Bên cạnh lạm phát mục tiêu và chênh lệch sản lượng, ngân hàng Trung
ương có phản ứng với các thông tin tài chính hay không?

 Xem xét phản ứng với các điều kiện tài chính là một cách để NHTW gián
tiếp nhắm đến lạm phát mục tiêu và tránh sự mất cân bằng tài chính có thể
gây bất ổn định kinh tế.
1.3.

Phạm vi nghiên cứu
Chuỗi dữ liệu từ năm 2008-2013 lấy theo tháng được sử dụng để thực hiện


nghiên cứu lấy từ: IMF, GSO, ADB, HSX, SBV. Bài nghiên cứu gồm 72 quan sát ,
với các biến vĩ mô và các biến tài chính được nghiên cứu qua các thời kỳ để thấy
được chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương Việt Nam.
1.4.

Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn bắt đầu bằng những lý

thuyết và bằng chứng thực nghiệm về điều hành chính sách tiền tệ tuân theo quy tắc
Taylor ở các nước phát triển và đang phát triển. Phần tiếp theo trình bày nguồn dữ
liệu cũng như phương pháp nghiên cứu làm cơ sở cho việc xác định chính sách tiền
tệ của ngân hàng Trung ương Việt Nam tuân theo quy tắc Taylor cơ bản hay cải
tiến. Sau đó là kết quả nghiên cứu định tính và các chính sách hàm ý từ nghiên cứu.
Cụ thể trong bài nghiên cứu này tác giả sử dụng các phương pháp sau:
-

Phương pháp hồi quy OLS và GMM.

-

Phương pháp mô tả: Đưa ra nhận định về mối quan hệ trên cơ sở thông tin,
dữ liệu đã được xử lý.

-

Phương pháp thống kê: Tập hợp tất cả các số liệu nghiên cứu có liên quan,
phân tích và xử lý các mối quan hệ giữa chúng.



11

1.5.

Cấu trúc luận văn
Cấu trúc luận văn như sau. Chương I bắt đầu với việc giới thiệu về chủ đề

này, bao gồm mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, phương pháp
nghiên cứu. Trong chương II, tác giả giới thiệu khuôn khổ lý thuyết Taylor và
những nghiên cứu thực nghiệm có liên quan đến nghiên cứu của tác giả. Chương III
trình bày các câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết, sẽ được kiểm định trong nghiên cứu.
Giới thiệu các phương pháp và dữ liệu, mà sẽ được sử dụng trong các kiểm định.
Trong chương IV tác giả sẽ phân tích và thảo luận các kết quả thực nghiệm. Cuối
cùng chương V tác giả sẽ tóm tắt các kết luận của nghiên cứu.


12

CHƯƠNG II: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VÀ KHUNG
LÝ THUYẾT
2.1.

Khung lý thuyết

2.1.1. Quy tắc Taylor tuyến tính
2.1.1.1.

Quy tắc Taylor cơ bản

Taylor (1993) tiến hành nghiên cứu thực nghiệm đối với chính sách lãi suất

của Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ (FED) trong giai đoạn 1980 – 1990, phát hiện ra
rằng biến động lãi suất điều hành của FED tuân theo một quy tắc nhất định trong
mối tương quan với lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Từ đó, Taylor đã mở rộng
nghiên cứu và khái quát hóa thành một quy tắc điều hành lãi suất của NHTW được
gọi là quy tắc Taylor.
Quy tắc Taylor cho rằng, lãi suất điều hành cần điều chỉnh phù hợp với thay
đổi của chênh lệch sản lượng và chênh lệch lạm phát. Và được biểu thị bằng hàm
phản ứng chính sách như sau:
(1)
Trong đó

là lãi suất danh nghĩa ngắn hạn là một công cụ của chính sách

tiền tệ và giả định rằng nó sẽ tăng nếu lạm phát (

lớn hơn mức mục tiêu (

) hay

sản lượng (y) tăng cao hơn đường xu hướng của nó hay là giá trị sản lượng tiềm
năng (y*).

là độ nhạy cảm của lãi suất cơ bản đối với độ chệch trong lạm phát đối

với mức mục tiêu.

là độ nhạy cảm của lãi suất đối với chênh lệch sản lượng. Khi

cân bằng, mức chênh lệch của lạm phát và sản lượng so với mức mục tiêu bằng 0 và
do đó dẫn tới lãi suất (i*) mong đợi là bằng tổng của lãi suất thực cân bằng


) và

mức lạm phát mục tiêu.
Theo Taylor, kể từ đầu những năm 1980, lãi suất điều hành (federal funds
rate) của FED biến động cùng xu hướng và bám sát với lãi suất khuyến nghị của lãi
suất Taylor. Quy tắc Taylor được cả thế giới nghiên cứu và NHTW quan tâm và dần
trở thành một chỉ báo được quan tâm đối với việc phân tích và điều hành chính sách
tiền tệ. Tại FED, các thành viên Ủy ban nghiệp vụ thị trường mở liên bang
(FOMCs), trong đó có cựu chủ tịch Greenspan và một số chủ tịch FED địa phương


13

cũng thường đề cập đến quy tắc Taylor trong các đề xuất lãi suất. Theo Mishkin
(2004) lãi suất Taylor phản ánh tương đối đối với chính sách tiền tệ của FED trong
khoảng 4 thập kỷ qua.
Dưới thời chủ tịch Arthur Bums (1970 – 1979) lãi suất của FED liên tục thấp
hơn lãi suất Taylor khiến lạm phát trong thời kỳ này tăng cao. Dưới thời chủ tịch
Paul Volcker (1979 - 1987), FED đặt trọng tâm là kiềm chế lạm phát, vì vậy lãi suất
của FED nhìn chung luôn cao hơn lãi suất Taylor. Đến thời chủ tịch Greenspan
(1987 – 2003), lãi suất điều hành bám sát lãi suất Taylor hơn, độ biến động của lạm
phát và tăng trưởng kinh tế của Mỹ cũng thấp hơn các thời kỳ trước.
Ưu điểm chính của quy tắc Taylor là tính toán đơn giản, dễ hiểu, dễ tính
toán, do đó, giúp tăng cường tính minh bạch và khả năng giải trình cho NHTW, quy
tắc Taylor cho phép điểu chỉnh linh hoạt trọng số của sản lượng và lạm phát phù
hợp với mục tiêu trọng tâm của NHTW trong việc quyết định lãi suất điều hành.
Điều này có ý nghĩa với các NHTW sử dụng cơ chế điều hành CSTT theo mục tiêu
lạm phát so với mục tiêu tăng trưởng trong từng thời kỳ.
2.1.1.2.


Quy tắc Taylor cải tiến

Quy tắc Taylor cơ bản xem xét độ chệch của lạm phát đối với mức lạm phát
mục tiêu trong 4 quý liền kề trong quá khứ. Tuy nhiên trong thực tế ngân hàng
Trung ương có xu hướng không sử dụng lạm phát trong quá khứ hay lạm phát hiện
tại mà thường nhắm tới mức lạm phát kì vọng. Vì lí do này mà Clarida & cộng sự
(1998) đã đề nghị sử dụng phiên bản cải tiến của quy tắc Taylor. Phiên bản này cho
phép ngân hàng Trung ương có thể lấy nhiều biến liên quan để xem xét khi tạo lập
mức lạm phát dự báo. Do đó, theo bài nghiên cứu này thì mức lãi suất mà ngân
hàng Trung ương mong đợi phụ thuộc vào độ lệch của lạm phát kì vọng trong k thời
kì (lãi suất theo năm) so với mức mục tiêu và mức chênh lệch sản lượng kì vọng
trong p thời kì, sau đây là phương trình của quy tắc Taylor cải tiến:
, (2)
Trong đó E là kì vọng của nhà điều hành và

là một vecto tổng hợp tất cả

các thông tin sẵn có để ngân hàng Trung ương xác định mức lãi suất cơ bản.


14

Theo quy tắc Taylor, đối với chính sách tiền tệ ổn định thì hệ số
hơn 1 và hệ số

nên dương.

nên lớn


>1 có nghĩa là ngân hàng Trung ương gia tăng lãi

suất thực để kiềm chế lạm phát cao hơn nhằm tạo nên tính ổn định trong lạm phát,
mặt khác

< 1 thì cho thấy một động thái điều tiết lãi suất đối với lạm phát gây ra

hiện tượng tự đáp ứng của lạm phát và sản lượng. Hệ số

> 0 có nghĩa là khi mà

sản lượng thực thấp hơn mức sản lượng tiềm năng nếu giảm lãi suất sẽ tạo ra một
tác động ổn định đối với nền kinh tế trở lại.
Bình thường khi tiến hành ước lượng hàm phản ứng của chính sách tiền tệ
mục đích là để kiểm soát các quan sát có chứa hiện tượng tự tương quan trong lãi
suất. Điều này thường được thực hiện bằng cách giả định ngân hàng Trung ương
không hiệu chỉnh lãi suất một cách trực tiếp đối với mức mục tiêu nhưng phải quan
tâm về kĩ thuật làm trơn lãi suất. Nhiều lí thuyết điều chỉnh cải tiến trong các nghiên
cứu về kĩ thuật làm trơn lãi suất trong quy tắc Taylor, như mối lo ngại về sự sụp đổ
của thị trường tài chính, sự tồn tại của lãi suất danh nghĩa bằng 0 thấp hơn ngưỡng
giới hạn hay thậm chí là những tác động từ các cú sốc kinh tế. Do đó, nếu ngân
hàng Trung ương từ từ điều chỉnh lãi suất theo mức mục tiêu, động cơ của việc điều
chỉnh mức lãi suất hiện tại tới mức mục tiêu được đưa ra khái quát như sau.
(3)
Trong đó

là mức độ làm trơn lãi suất và j là số độ trễ. Số độ trễ trong

phương trình này được chọn dựa trên nền tảng thực nghiệm để loại bỏ sự tự tương
quan trong phần dư. Đặt α=


- (β-1)

,

=

và thế phương trình (2)

vào phương trình (3) giả định rằng ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát lãi suất
dựa trên sai số ngẫu nhiên (u) đạt được phương trình dưới đây:
+

,

(4)
Lí thuyết được ước lượng trong bài nghiên cứu. Quy tắc này được mở rộng
để thêm vào vectơ bổ sung của m biến giải thích (x) nó có thể ảnh hưởng đến quá
trình xác định lãi suất. Để làm được điều đó chúng ta chỉ cần thêm vào
dấu ngoặc vuông trong phương trình (4) trong đó

là vecto của hệ


15

số liên kết đối với các biến bổ sung. Loại trừ những biến dự báo không quan sát
được phương trình được viết lại như sau:
5)
Trong đó sai số


là một sự kết hợp tuyến tính của sai số trong dự báo của

lạm phát, sản lượng, vetơ biến ngoại sinh bổ sung và biến nhiễu

.

Phương trình số (5) sẽ được ước lượng bằng GMM. Theo Clarida & cộng sự
(1998, 2000) phương pháp này khá phù hợp đối với phân tích kinh tế lượng về quy
tắc xác định lãi suất mà trong đó việc hồi quy dựa trên các biến không thể xác định
được chính xác tại thời điểm ra quyết định ở hiện tại của ngân hàng Trung ương. Để
thực hiện phương pháp này, tập hợp các tình trạng trực giao được áp dụng:
= 0, (6)
Trong đó

là một vectơ biến công cụ trong phạm vi các thông tin của ngân

hàng Trung ương trong khoảng thời gian nó xác định lãi suất cơ bản và nó trực giao
với

. Trong số những biến này chúng ta có thể có một tập hợp các biến trễ giúp dự

đoán lạm phát, chênh lệch sản lượng và biến ngoại sinh bổ sung, cùng với các biến
thời kì không bị tương quan đối với các biến nhiễu hiện tại

. Một ma trận có trọng

số tối ưu có thể giải thích cho hiệp phương sai không đồng nhất và tương quan dạng
chuỗi trong


được dùng trong ước lượng. Xem xét độ lớn của vectơ biến công cụ

lớn hơn số lượng các tham số đã được ước lượng, kiểm định Hansen phải được thực
hiện để đánh giá giá trị của các tiêu chuẩn và dùng để thiết lập các biến công
cụ.Trong tình huống này, kiểm định Hansen sẽ được áp dụng với giả thiết H0 là tập
hợp các biến công cụ là có ý nghĩa; sự bác bỏ tính trực giao chỉ ra rằng ngân hàng
Trung ương sẽ không điều chỉnh hành vi đối với các thông tin về lạm phát và sản
lượng trong tương lai đối với các biến công cụ. Trong một số trường hợp một số
biến công cụ có thể tương quan với

, thì tình trạng trực giao sẽ bị vi phạm, dẫn tới

bác bỏ mô hình.
Trong thực tế, để ước lượng phương trình số (5) chúng ta thường xem xét
dạng rút gọn dưới đây:


16

+ , (7)
Trong đó vectơ của tham số mới có mối quan hệ với vectơ cũ như sau:

Do đó, với ước lượng thông số đạt được từ (7), chúng ta có thể tìm lại được
những ước lượng của hệ số α, β, γ, ϕ và sai số chuẩn bằng cách sử dụng phương
pháp delta. Theo Clarida & cộng sự (1998) chúng ta xem trung bình các quan sát về
lãi suất thực trong thời kì nghiên cứu như là lãi suất thực cân bằng. Do đó, chúng ta
có thể ước lượng được mức lạm phát mục tiêu tuyệt đối được theo đuổi bởi ngân
hàng Trung ương như sau:

/


.

2.1.2. Quy tắc Taylor phi tuyến
Quy tắc Taylor trình bày ở trên là một quy tắc lãi suất tuyến tính đơn giản,
đại diện cho một khuôn khổ chính sách với điều kiện NHTW là một hàm tối thiểu
hóa thua lỗ bậc hai bất đối xứng và hàm tổng cung là tuyến tính. Tuy nhiên, trong
thực tế, điều này có thể không khả thi và NHTW có thể phản ứng khác nhau với các
sai lệch tổng thể so với mức mục tiêu. Nếu NHTW ấn định các trọng số khác nhau
đối với lạm phát và chênh lệch sản lượng âm và dương trong hàm lỗ, thì quy tắc
Taylor phi tuyến tính giải thích đầy đủ hơn các hành vi của CSTT. Hơn nữa, lạm
phát và chênh lệch sản lượng có xu hướng thể hiện sự điều chỉnh bất đối xứng với
chu kỳ kinh tế: chênh lệch sản lượng có xu hướng biểu hiện sự suy thoái đột ngột và
ngắn hơn so với chu kỳ kinh tế, trái ngược với sự phục hồi dần dần và kéo dài hơn;
lạm phát cũng tăng nhanh hơn và giảm chậm hơn so với chu kỳ kinh tế. Trong
những trường hợp này, NHTW phải có những phản ứng khác nhau với các mức độ
lạm phát và chênh lệch sản lượng trên, dưới hoặc xung quanh mục tiêu yêu cầu.
Những lập luận này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xem xét quy tắc Taylor phi
tuyến tính trong việc phân tích hành vi của các NHTW.
Để giải thích cho hành vi phi tuyến này, các tác giả sử dụng một mô hình hồi
quy chuyển tiếp trơn (smooth transition regression - STR). Mô hình này cho phép
chuyển tiếp các cơ chế nội sinh, vì thế nó có thể giải thích khi nào NHTW thay đổi
khuôn khổ chính sách của mình.


17

Một mô hình STR chuẩn cho quy tắc phi tuyến tính Taylor được xác định
như sau:


Quy tắc Taylor phi tuyến hướng đến tương lai với lãi suất được làm mượt.
2.2.

Tổng quan các nghiên cứu trước đây

2.2.1. Các nghiên cứu về quy tắc Taylor trên thế giới
Phần này cung cấp một cách tóm lược các nghiên cứu trước đây về quy tắc
Taylor, nhấn mạnh vai trò đóng góp những nghiên cứu đó giúp tác giả phân tích tìm
hiểu sâu hơn về quy tắc Taylor.
Taylor (1993b) đề xuất quy tắc Taylor dựa trên sự thay đổi trong lãi suất do
sự thay đổi của lạm phát và chênh lệch sản lượng. Quy tắc này chỉ ra rằng hệ số
càng lớn thì mức độ ảnh hưởng của chính sách tiền tệ càng lớn. Quy tắc Taylor mô
tả gần đúng lãi suất hằng quý của FED trong giai đoạn: 1987Q1 – 1992Q3.
Taylor (2000) làm cho sáng tỏ quy tắc điều hành chính sách tiền tệ bằng cách
thay đổi công cụ của chính sách tiền tệ đối với một số trường hợp cụ thể có thể xảy
ra.
Taylor (1993a, 1993b) chỉ ra nhiều trường hợp tổng quát có thể làm những
quy tắc này khá nhạy cảm và phức tạp. Ông đưa ra bằng chứng về việc ước lượng
lạm phát kì vọng sẽ cần phải dùng tới dữ liệu từ thị trường tương lai, cấu trúc kì hạn
của lãi suất và nhiều biến khác nữa. Vấn đề hiện hữu trong việc đo lường chênh
lệch sản lượng như việc dự báo về năng suất, lượng lao động và thay đổi trong tỉ lệ
thất nghiệp tự nhiên. Cuối cùng ông cho rằng nên giữ quy tắc Taylor ở dạng đơn
giản nguyên gốc ban đầu.
Sử dụng cách tiếp cận khác, Moura & Carvalho (2010) dự báo những đặc
điểm mô tả lại và dự báo của mô hình Taylor bằng cách sử dụng hồi quy xuyên
quốc gia của 7 nước Nam Mỹ, 5 trong số đó áp dụng lạm phát mục tiêu (Brazil,
Chile, Colombia, Peru và Mexico) và 2 nước không áp dụng (Argentina và
Venezuela), kết luận những nước áp dụng lạm phát mục tiêu thì có chính sách tiền
tệ khắt khe hơn so với các nước không áp dụng. Sự khác nhau này trở nên ấn tượng



18

nếu có sự so sánh những tác động tích cực của chính sách lãi suất tới lạm phát trong
quá khứ hay lạm phát kỳ vọng.
Mehrotra & Sanchez Fung (2011) dự đoán quy tắc Taylor, những nghiên cứu
gần đây chủ yếu dựa vào kiểm soát tập hợp tiền tệ, đối với 20 nước mới nổi. Chỉ có
Brazil và Romania thì có trong mẫu của bài nghiên cứu nhưng không có trong bài
nghiên cứu của Mehrotra & Sanchez-Fung, những tranh cãi rằng thay đổi trong cơ
sở tiền tệ phản ứng với giá trị trong quá khứ, độ lệch lạm phát hàng năm từ trung
bình trượt và đo lường của lỗ hổng sản lượng thực tế.
Quy tắc Taylor cơ bản giả định ngân hàng Trung ương sử dụng giá trị quá
khứ và hiện tại của lạm phát và chênh lệch sản lượng để xác định lãi suất cơ bản.
Tuy nhiên, trong thực tế xu hướng sử dụng những thông tin có sẵn liên quan đến
quá trình phát triển của giá khi xác lập lãi suất. Clarida & cộng sự (1998, 2000) sử
dụng quy tắc Taylor với phiên bản cải tiến khi ngân hàng Trung ương nhắm tới mức
kì vọng của lạm phát và chênh lệch sản lượng thay vì giá trị quá khứ và giá trị kì
vọng, chứng minh những điểm lợi thế trong phân tích điều hành chính sách của Fed
và các ngân hàng Trung ương có ảnh hưởng khác.
Fourcans & Vranceanu (2004), Sauer & Sturm (2007) cũng nhấn mạnh tầm
quan trọng trong việc xem xét quy tắc Taylor cải tiến trong phân tích chính sách
tiền tệ ECB. Bernanke & cộng sự (2005) nghiên cứu chính sách tiền tệ của Mỹ bằng
việc sử dụng phương pháp Taylor phiên bản cải tiến trên nền tảng hệ thống dữ liệu
lớn các biến công cụ, tìm thấy kết quả từ việc sử dụng phiên bản cải tiến của quy tắc
Taylor là đúng đắn.
Hong & đồng sự (2013) nghiên cứu thực nghiệm phương thức điều hành
chính sách tiền tệ tại của ngân hàng Trung ương Malaysia dưới góc nhìn của quá
khứ hiện tại hay tương lai. Kết quả thực nghiệm cho thấy khi điều hành chính sách
tiền tệ tại Malaysia ngân hàng Trung ương nước này sử dụng các yếu tố tại cả ba
góc nhìn là quá khứ, hiện tại và tương lai đối với hai biến lạm phát và chênh lệch

sản lượng. Bên cạnh đó họ còn tìm thấy bằng chứng cho thấy ngân hàng Trung
ương Malaysia chú trọng đối với các biến động của lạm phát trong việc xây dựng và
điều chỉnh lãi suất.
Wang & Zou (2006) sử dụng quy tắc Taylor mở rộng trong điều kiện nền
kinh tế đang mở cửa để kiểm định quy tắc điều hành chính sách tiền tệ của Trung


×