Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Các nhân tố tác động đến thoát nghèo của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------

ĐỖ NGỌC HUỲNH

CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
THOÁT NGHÈO CỦA HỘ GIA ĐÌNH
Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - Năm 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
--------------------------

ĐỖ NGỌC HUỲNH

CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
THOÁT NGHÈO CỦA HỘ GIA ĐÌNH
Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Phát triển
Mã số: 60310105
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀNG BẢO


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - Năm 2015


Lời cam đoan
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các số liệu được rút
trích từ bộ dữ liệu Khảo sát mức sống dân cư 2006 và 2008 của Tổng cục Thống kê Việt
Nam. Kết quả phân tích trong luận văn này là trung thực và không phải là sản phẩm sao
chép của bất kỳ tác giả nào.
Đỗ Ngọc Huỳnh


Mục lục
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục ký hiệu các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, hình vẽ
Tóm tắt
Chƣơng 1. Giới thiệu ......................................................................................................... 1
1.1. Đặt vấn đề ................................................................................................................ 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................ 2
1.3. Dữ liệu và đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 3
1.4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 3
1.5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 3
1.6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ..................................................................................... 3
1.7. Cấu trúc bài nghiên cứu ........................................................................................... 4
Chƣơng 2. Tổng quan lý thuyết và những nghiên cứu liên quan.................................. 5
2.1. Lý thuyết liên quan .................................................................................................. 5
2.2. Các nghiên cứu liên quan ........................................................................................ 6
2.2.1. Thuộc tính vùng miền...................................................................................... 6

2.2.2. Thuộc tính cộng đồng ...................................................................................... 8
2.2.3. Thuộc tính hộ gia đình và cá nhân ................................................................ 11
2.2.3.1. Nhân khẩu học ....................................................................................... 11
2.2.3.2. Yếu tố kinh tế ........................................................................................ 14
2.2.3.3. Yếu tố xã hội ......................................................................................... 17
Chƣơng 3. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 21
3.1. Tổng quan về tình trạng nghèo của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam ............... 21
3.1.1. Nghèo ở nhóm các dân tộc thiểu số .............................................................. 24
3.1.2. Nghèo có liên quan đến học vấn thấp ........................................................... 24
3.1.3. Nghèo và yếu tố nhân khẩu học .................................................................... 25
3.1.4. Nghèo và các chương trình hỗ trợ tín dụng của Chính phủ .......................... 27
3.1.5. Một số yếu tố khác ảnh hưởng đến tình trạng nghèo của hộ gia đình ở nông
thôn Việt Nam ................................................................................................................... 27


3.2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................... 28
3.2.1. Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................................ 28
3.2.2. Xác định ngưỡng nghèo và hộ nghèo ............................................................ 29
3.2.3. Mô hình kinh tế lượng ................................................................................... 33
3.2.4. Khung phân tích ............................................................................................ 35
Chƣơng 4. Kết quả nghiên cứu....................................................................................... 37
4.1. Thống kê mô tả ...................................................................................................... 37
4.1.1. Mô tả các biến định tính ................................................................................ 39
4.1.2. Mô tả các biến định lượng ............................................................................. 41
4.2. Kết quả ước lượng và kiểm định mô hình ............................................................. 43
4.2.1. Hệ số tương quan giữa các biến .................................................................... 43
4.2.2. Kết quả hồi quy và kiểm định mô hình ......................................................... 46
4.2.3. Tác động biên của các nhân tố ...................................................................... 52
Chƣơng 5. Kết luận và kiến nghị ................................................................................... 56
5.1. Kết luận ................................................................................................................. 55

5.2. Kiến nghị ............................................................................................................... 57
5.2.1. Kiến nghị về mặt phương pháp ..................................................................... 57
5.2.2. Kiến nghị về mặt chính sách ......................................................................... 57
5.3. Hạn chế của bài nghiên cứu................................................................................... 60
Tài liệu tham khảo
Phụ lục 1 Bảng thống kê mô tả các biến
Phụ lục 2 Bảng hệ số tương quan
Phụ lục 3 Kết quả hồi quy


Danh mục ký hiệu các chữ viết tắt
AusAID

Cơ quan phát triển quốc tế Australia

GSO

Tổng cục Thống kê Việt Nam

VASS

Viện Khoa học Xã hội Việt Nam

VHLSS

Khảo sát mức sống dân cư

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


UNDP

Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc


Danh mục các bảng, hình vẽ
A. Các bảng

Trang

Bảng 2.1

Các lý thuyết về nghèo đói ............................................................................... 4

Bảng 3.1

Tỷ lệ nghèo tại Việt Nam giai đoạn 1993 - 2008 ........................................... 22

Bảng 3.2

Đặc tính chung của người nghèo ở nông thôn ................................................ 22

Bảng 3.3

Nghèo và chi tiêu của các nhóm dân tộc thiểu số ở nông thôn năm 2006 ..... 24

Bảng 3.4

Trình độ học vấn cao nhất đạt được của hộ gia đình ...................................... 25


Bảng 3.5

Tỷ lệ thay đổi số con trong hộ gia đình ở Việt Nam năm 2006 và 2008 ....... 26

Bảng 3.6

Biến động diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người theo vùng ........... 28

Bảng 3.7

Mô tả các biến có tác động đến khả năng thoát nghèo của hộ ....................... 31

Bảng 4.1

Bảng thống kê mô tả các biến độc lập phân chia theo tình trạng nghèo ........ 37

Bảng 4.2

Bảng tần số các nhân tố phân chia theo tình trạng nghèo .............................. 38

Bảng 4.3

Bảng tần số một số biến định tính .................................................................. 40

Bảng 4.4

Bảng tần số các biến vùng miền ..................................................................... 41

Bảng 4.5


Bảng tần số số người phụ thuộc của hộ gia đình ............................................ 41

Bảng 4.6

Kỳ vọng ảnh hưởng của các nhân tố đến khả năng thoát nghèo .................... 44

Bảng 4.7

Kết quả ước lượng mô hình hồi quy lần thứ nhất.......................................... 46

Bảng 4.8

Kết quả ước lượng mô hình hồi quy lần thứ hai............................................. 47

Bảng 4.9

Kết quả thực tế và dự báo của mô hình hồi quy ............................................. 48

Bảng 4.10 Sự thay đổi xác suất do tác động biên ............................................................ 52
B. Các hình

Trang

Hình 3.1

Tốc độ giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1993 - 2008 ................................. 21

Hình 3.2


Khung phân tích đề nghị................................................................................. 35

Hình 4.1

Số lao động trong hộ gia đình......................................................................... 42

Hình 4.2

Tuổi của chủ hộ .............................................................................................. 43

Hình 4.3

Độ lớn của tác động biên ................................................................................ 54


Tóm tắt
Bài nghiên cứu này sử dụng phương pháp định lượng để xác định các nhân tố tác
động đến khả năng thoát nghèo của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam. Từ bộ dữ
liệu Khảo sát mức sống dân cư năm 2006 và 2008 của Tổng cục Thống kê Việt
Nam cùng với kỹ thuật hồi quy mô hình binary logit, bài nghiên cứu xác định được
tám nhân tố có tác động đến khả năng thoát nghèo của hộ gia đình bao gồm (1) dân
tộc của chủ hộ; (2) số người phụ thuộc; (3) số năm đi học trung bình của hộ; (4) số
lao động; (5) hộ kinh doanh sản xuất phi nông nghiệp; (6) diện tích đất nông nghiệp
bình quân đầu người; (7) hộ được hưởng tín dụng ưu đãi năm 2006 và (8) hộ sinh
sống ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài sáu nhân tố có chiều hướng tương
quan với khả năng thoát nghèo của hộ gia đình đúng như kỳ vọng ban đầu, có hai
nhân tố có chiều tương quan trái với kỳ vọng là số lao động và hộ được hưởng tín
dụng ưu đãi năm 2006. Dân tộc của chủ hộ là nhân tố có tác động tích cực mạnh
nhất đến xác suất thoát nghèo của hộ gia đình và nhân tố có tác động mạnh nhất
trong nhóm tiêu cực là hộ được hưởng tín dụng ưu đãi năm 2006. Với những nhân

tố xác định được, bài nghiên cứu đưa ra một số gợi ý về mặt chính sách nhằm giúp
hộ gia đình nghèo ở nông thôn thoát nghèo.


1

Chương 1. Giới thiệu
1.1. Đặt vấn đề
Trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng về giảm
nghèo được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Từ một quốc gia thuộc diện nghèo trên
thế giới, Việt Nam đã có những bước tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo đáng kể
trong những năm gần đây. Năm 1998 có đến 58,1% dân số thuộc diện nghèo nhưng
đến năm 2008 tỷ lệ này đã giảm xuống còn 14,5% tính theo chuẩn nghèo chi tiêu
của Tổng cục Thống kê Việt Nam - Ngân hàng Thế giới (Tổng cục Thống kê,
2010). Trong đó, khu vực nông thôn có tốc độ giảm nghèo nhanh hơn so với khu
vực thành thị nhưng tỷ lệ nghèo ở nông thôn vẫn cao hơn tỷ lệ nghèo của cả nước.
Điều này là do người nghèo sống tập trung ở các vùng nông thôn, nơi có sinh kế
chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, trình độ học vấn thấp và kỹ năng lao động hạn
chế, hạ tầng xã hội kém phát triển (Ngân hàng Thế giới, 2012). Vì thế giảm nghèo ở
nông thôn là một vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà làm chính sách ở Việt
Nam. Đã có rất nhiều nghiên cứu về nghèo và động thái nghèo ở Việt Nam mà đối
tượng nghiên cứu là hộ gia đình ở Việt Nam, hộ gia đình ở thành thị và hộ gia đình
dân tộc thiểu số (Baulch và Datt, 2010; Cường và cộng sự, 2010; Cường, 2012)
nhưng chưa có nghiên cứu nào đánh giá các nhân tố có ảnh hưởng đến thoát nghèo
của hộ gia đình ở nông thôn.
Hầu hết các nghiên cứu về nghèo ở nhiều quốc gia trên thế giới đều cho thấy những
hộ gia đình không nghèo ở nông thôn là những hộ có quy mô nhỏ, tỷ lệ người sống
phụ thuộc thấp, chủ hộ là đàn ông, số thành viên biết chữ hoặc có trình độ trong hộ
cao, diện tích đất canh tác và số lượng gia súc lớn, tiền gửi về từ người thân cao
hơn, hộ có vốn xã hội lớn và nơi sinh sống không quá cách biệt về mặt địa lý

(Lanjouw, 1998; Jalan và Ravallion, 1998; Bogale và cộng sự, 2005; Aref, 2011;
Kimsun, 2011; Arif và Farooq, 2012). Vậy, trong trường hợp ở nông thôn Việt
Nam, những nhân tố này có đóng góp cho sự thoát nghèo của hộ gia đình hay không
và mức độ tác động của những nhân tố này như thế nào?


2

Việc nhận diện đúng những nhân tố có khả năng tác động đến sự thoát nghèo của hộ
gia đình và nhân tố nào là nhân tố tác động mạnh nhất giúp cho các nhà làm chính
sách đưa ra chính sách tập trung hơn, đồng thời ưu tiên thiết kế những chính sách có
khả năng phát huy tối đa vai trò của các nhân tố có tác động mạnh này. Trong nhiều
năm qua, Chính phủ đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ cho các gia đình nghèo ở
nông thôn nhằm giúp họ cải thiện đời sống và thoát nghèo như chính sách tín dụng
ưu đãi cho hộ nghèo, chính sách miễn giảm học phí cho trẻ em gia đình khó khăn,
chính sách đào tạo nghề miễn phí cho thanh niên ở vùng nông thôn và nhiều chính
sách khác. Việc mô hình hóa các nhân tố tác động đến thoát nghèo của hộ gia đình
ở nông thôn bao gồm cả những nhân tố đại diện cho các chính sách hỗ trợ của
Chính phủ sẽ góp phần đánh giá sự hiệu quả của các chính sách này, cụ thể bài
nghiên cứu đưa chính sách hỗ trợ tín dụng cho hộ nghèo vào mô hình như một biến
giải thích cho xác suất thoát nghèo của hộ gia đình và phát hiện ra rằng chính sách
này chưa thực sự mang lại hiệu quả giảm nghèo ở nông thôn khi biến giải thích này
có xu hướng làm giảm xác suất thoát nghèo của hộ gia đình.
Bài nghiên cứu này sẽ tập trung nhận biết các nhân tố có ảnh hưởng đến sự thoát
nghèo của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam và đánh giá tác động của các nhân tố
này bằng phương pháp định lượng. Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị về mặt
chính sách nhằm giúp hộ gia đình ở nông thôn thoát nghèo. Tuy nhiên, cũng cần nói
rõ rằng, để có thể đưa ra chính sách hữu ích và có khả năng áp dụng vào thực tiễn ở
một địa phương cụ thể cần có những nghiên cứu chuyên sâu với những biến số đặc
trưng cho địa phương đó. Bài nghiên cứu này chỉ dừng lại ở mức độ mô hình hóa

các nhân tố tác động đến sự thoát nghèo của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam với
hy vọng bổ sung thêm một góc nhìn làm nền tảng cho những nghiên cứu sau này.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nhận biết các nhân tố tác động đến sự thoát nghèo của hộ gia đình ở nông thôn
Việt Nam;
- Đưa ra những gợi ý về mặt chính sách nhằm mục tiêu giảm nghèo cho các hộ gia
đình ở nông thôn Việt Nam.


3

1.3. Dữ liệu và đối tượng nghiên cứu
Dữ liệu đưa vào mô hình nghiên cứu định lượng được rút trích từ bộ dữ liệu Khảo
sát mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS) của Tổng cục Thống kê Việt Nam
trong năm 2006 và 2008.
Đối tượng của bài nghiên cứu này là những hộ gia đình được cho là nghèo trong
năm 2006 và được điều tra lại trong năm 2008 để tìm ra những nhân tố tác động đến
sự thoát nghèo của hộ gia đình.
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Bài nghiên cứu tập trung chủ yếu vào các hộ gia đình hiện đang sinh sống ở vùng
nông thôn trên cả nước Việt Nam, cụ thể là những hộ gia đình ở nông thôn rút trích
từ bộ dữ liệu Khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006 và 2008. Những hộ gia đình
ở nông thôn đưa vào mẫu nghiên cứu được lọc lại bằng cách chọn ra những hộ gia
đình được đánh giá là nghèo trong năm 2006 (theo chuẩn nghèo chi tiêu bình quân
đầu người do Tổng cục Thống kê - Ngân hàng Thế giới công bố) và được phỏng
vấn lại trong năm 2008 để tạo thành một mẫu nghiên cứu gồm 573 quan sát.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để phân tích một số đặc điểm hộ gia
đình có ảnh hưởng đến sự thoát nghèo của hộ như dân tộc của chủ hộ, tỷ lệ phụ
thuộc, tuổi chủ hộ, giới tính của chủ hộ, số lao động trong hộ gia đình và số năm đi

học trung bình của hộ gia đình.
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích định lượng, cụ thể là sử dụng mô
hình hồi quy binary logistic, để đánh giá các nhân tố tác động đến sự thoát nghèo
của hộ gia đình sống tại nông thôn Việt Nam.
1.6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Luận văn tập trung phân tích các nhân tố liên quan đến thuộc tính vùng miền, thuộc
tính cộng đồng, thuộc tính hộ gia đình và cá nhân tác động đến xác suất thoát nghèo
của hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam để từ đó có những định hướng và hoạch định
chính sách liên quan đến các nhân tố giúp hộ thoát nghèo, đồng thời rà soát và điều


4

chỉnh chính sách liên quan đến những nhân tố có tác động tiêu cực đến sự thoát
nghèo của hộ gia đình.
1.7. Cấu trúc bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu được chia thành năm chương. Chương một là phần giới thiệu đã
được trình bày bên trên. Tổng quan các nghiên cứu về những nhân tố tác động đến
nghèo đói đã được thực hiện trong nước cũng như các nước trên thế giới được trình
bày trong chương hai. Chương ba nêu lên phương pháp nghiên cứu mà tác giả sẽ
thực hiện. Phần kết quả nghiên cứu được trình bày trong chương bốn. Cuối cùng
chương năm là phần kết luận và đưa ra các kiến nghị về mặt chính sách nhằm giảm
nghèo dựa trên kết quả nghiên cứu được.


5

Chương 2. Tổng quan lý thuyết và những nghiên cứu liên quan
Chương hai khái quát cơ sở lý luận và các kết quả nghiên cứu đã được công bố về
các nhân tố tác động đến tình trạng nghèo đói cũng như là sự thay đổi trong tình

trạng nghèo đói của hộ gia đình ở nhiều quốc gia trên thế giới. Chương này được
chia thành hai phần. Phần một trình bày các lý thuyết liên quan và phần hai tổng
hợp các nghiên cứu đã được thực hiện theo thuộc tính vùng miền, thuộc tính cộng
đồng, thuộc tính hộ gia đình và cá nhân.
2.1. Lý thuyết liên quan
Nghèo đói là một hiện tượng kinh tế xã hội. Nó không chỉ tồn tại ở các nước kém
phát triển mà nó hiện diện trong cả thành phố lớn của các quốc gia phát triển. Trong
suốt nhiều thế kỷ, các nhà kinh tế học cũng như các nhà xã hội học đã nghiên cứu
để làm rõ bản chất của nghèo. Các tài liệu về nghèo đói công nhận các lý thuyết
khác nhau về nghèo đói nhưng lại được phân loại theo nhiều cách. Theo Bradshaw
(2005), tất cả các tác giả phân biệt giữa các lý thuyết mà nguyên nhân gốc rễ của
nghèo đói do khiếm khuyết cá nhân và các lý thuyết dựa vào căn nguyên trên các
hiện tượng xã hội. Bradshaw (2006) đã tập hợp các tài liệu và phân chia thành năm
nhóm lý thuyết chính về nghèo. Tất cả các lý thuyết, các biến có liên quan đến khả
năng gây ra nghèo đói và cơ chế của nó được tác giả tóm lược trong bảng sau:
Bảng 2.1. Các lý thuyết về nghèo đói
Lý thuyết
Nghèo do những khiếm
khuyết cá nhân của
người nghèo.

Nguyên nhân của nghèo đói

Cơ chế gây ra nghèo đói

Do lười biếng, lựa chọn tồi, thiếu Cạnh tranh đem lại phần
trình độ, bị tàn tật của các cá thưởng cho người chiến
nhân.
thắng và trừng phạt những
ai không làm việc chăm chỉ

và đưa ra lựa chọn tồi.

Nghèo do hệ thống văn Văn hóa phụ chấp nhận các giá trị Những nhóm cùng địa vị
hóa, tín ngưỡng.
không hữu ích và đi ngược lại thiết lập những giá trị sai
những quy tắc của thành công.
và củng cố thêm các hành
vi sai trái.
Nghèo do sự méo mó
kinh tế - chính trị - xã
hội hoặc sự phân biệt
đối xử.

Những giới hạn có hệ thống ngăn
cản người nghèo tiếp cận và đạt
được thành tựu trong các thể chế
xã hội quan trọng bao gồm việc
làm, giáo dục, chăm sóc sức khỏe,

Tiêu chuẩn lựa chọn trực
tiếp hay gián tiếp loại trừ
những nhóm người dựa
trên những tiêu chuẩn


6

an ninh, đại diện chính trị.

không thích hợp.


Nghèo do sự chênh lệch Những thuận lợi và bất lợi xã hội Sự quần tụ, khoảng cách,
về địa lý.
tập trung vào các vùng riêng biệt. các nền kinh tế theo quy
mô và phân phối nguồn lực
củng cố những khác biệt.
Nghèo do sự phụ thuộc Những đường xoắn ốc nghèo đói,
lẫn nhau tích lũy theo những vấn đề cá nhân (thu nhập,
chu kỳ.
nhà ở, sức khỏe, giáo dục, tự tin)
phụ thuộc lẫn nhau và có liên kết
mạnh mẽ với các khiếm khuyết
cộng đồng (phá sản và mất việc,
trường học không đầy đủ, không
có khả năng cung cấp các dịch vụ
xã hội).

Các nhân tố tương tác theo
những cách thức phức tạp.
Khủng hoảng ở cấp độ
cộng đồng dẫn đến khủng
hoảng cá nhân và ngược
lại, cuối cùng chúng tích
lũy lại để tạo ra những
đường xoắn ốc nghèo đói.

Nguồn: Bradshaw (2006)
2.2. Các nghiên cứu liên quan
Nghèo đói là một hiện tượng kinh tế xã hội và mang tính toàn cầu. Giảm nghèo là
một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của chính phủ ở nhiều quốc gia trên thế

giới. Trong hơn hai thập niên qua, đã có rất nhiều nghiên cứu về nghèo đói để trả lời
cho câu hỏi cái gì gây ra nghèo đói. Theo Haughton và Khandker (2009), nghèo đói
có thể do các thuộc tính vùng miền, thuộc tính cộng đồng, thuộc tính hộ gia đình và
cá nhân gây ra.
2.2.1. Thuộc tính vùng miền
Có rất nhiều yếu tố của thuộc tính vùng miền liên quan đến nghèo đói. Tỷ lệ nghèo
đói cao ở các khu vực có đặc điểm cách biệt về địa lý như vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa, vùng đồi núi cao, khu vực có nguồn tài nguyên ít, vùng có lượng mưa
thấp và các điều kiện khí hậu khắc nghiệt.
Arif và Bilquees (2006) đã sử dụng mô hình logit đa thức (multinomial logit model)
để phân tích tình trạng nghèo đói ở Pakistan từ hai bộ dữ liệu do Viện Kinh tế Phát
triển Pakistan thực hiện với số lượng mẫu lớn, 3.564 hộ gia đình được phỏng vấn
trong năm 1998 - 1999 và được phỏng vấn lại trong năm 2000 - 2001. Kết quả hồi
quy từ mô hình logit đa thức cho thấy nghèo đói là hiện tượng ở nông thôn, đặc biệt
là nghèo kinh niên. Hệ số hồi quy của biến hộ gia đình sinh sống ở thành thị đối với


7

tình trạng nghèo kinh niên và nghèo tạm thời đều âm ở mức ý nghĩa 5%. Điều này
cũng có nghĩa là hộ gia đình ở thành thị ít có khả năng rơi vào nghèo đói.
Runsinarith (2007) khảo sát tình trạng nghèo đói của các hộ gia đình ở vùng biên
giới của Campuchia để xem việc sinh sống tại các tỉnh biên giới có giúp các hộ gia
đình giảm nghèo hay rơi vào nghèo đói. Biến giả vùng biên giới được sử dụng nhận
giá trị 1 nếu hộ gia đình sinh sống ở vùng biên giới và được kỳ vọng là có tác động
tích cực đến tiêu dùng bình quân đầu người của hộ gia đình. Theo tác giả hoạt động
kinh tế ở vùng biên giới sôi động hơn các vùng khác ở Campuchia. Nhiều hộ gia
đình di cư đến khu vực biên giới để sinh sống bằng cách hoạt động giao thương và
làm việc qua biên giới. Hệ số biến biên giới cho biết nếu hộ gia đình sinh sống ở
gần biên giới làm tăng tiêu dùng bình quân đầu người lên 7% ở mức ý nghĩa 1%.

Ngoài ra, khi so sánh mức độ nghèo bằng ba thang đo Foster - Geer - Thorbecke,
khu vực thành thị của vùng biên giới sẽ ít nghèo hơn khu vực nông thôn biên giới,
khu vực nông thôn ở vùng biên giới sẽ giàu có hơn khu vực nông thôn không thuộc
vùng biên giới.
Trong một nghiên cứu về xu hướng nghèo đói và bất công ở Việt Nam của Glewwe
và cộng sự (2002) sử dụng hai bộ dữ liệu khảo sát mức sống Việt Nam năm 1992 1993 và 1997 - 1998. Với chi tiêu bình quân đầu người là thước đo giàu có của hộ
gia đình, Glewwe P. và cộng sự (2002) đã đưa sáu biến đại diện cho sáu vùng miền
vào mô hình hồi quy bao gồm vùng núi phía Bắc, châu thổ sông Hồng, duyên hải
miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và châu thổ sông Mê Kông. Biến vùng
Đông Nam Bộ có tác động dương lớn nhất lên chi tiêu bình quân đầu người của các
hộ gia đình, tiếp đến là biến vùng châu thổ sông Cửu Long, cả hai hệ số đều có ý
nghĩa thống kê ở mức 1%. Trong khi đó, biến vùng núi phía Bắc có tác động nhỏ
nhất, thậm chí âm trong năm 1997 - 1998. Ngoài ra, Glewwe P. và cộng sự (2002)
còn chỉ ra sự khác biệt trong nghèo đói giữa thành thị và nông thôn. Theo đó, trong
năm 1997 - 1998, hộ gia đình ở thành thị sẽ có tiêu dùng bình quân đầu người cao
hơn ở nông thôn khoảng 31,37% ở mức ý nghĩa 1%.


8

2.2.2. Thuộc tính cộng đồng
Đối với thuộc tính cộng đồng, hạ tầng là một nhân tố chính ảnh hưởng đến nghèo
đói. Theo Haughton và Khandker (2009), chỉ số phát triển hạ tầng thường được sử
dụng trong kinh tế lượng bao gồm khả năng tiếp cận đường nhựa, có nguồn điện
hay không, gần chợ, có trường học và bệnh viện hay phòng khám không và khoảng
cách đến trung tâm hành chính địa phương. Ngoài ra, còn có một vài chỉ số khác
như khả năng tiếp cận việc làm và phân phối đất đai.
Andersson và cộng sự (2006), trong một nghiên cứu về các nhân tố của nghèo đói ở
Lào, đã xem xét khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng có đem lại tác động có lợi lên thu
nhập và tiêu dùng giữa các hộ gia đình ở nông thôn hay không. Các biến phản ánh

khả năng tiếp cận cơ sở hạ tầng và dịch vụ của hộ gia đình ở nông thôn được lấy từ
bộ số liệu Khảo sát chi tiêu và tiêu dùng ở Lào 2002-2003 (LECS03) ở cấp độ làng
xã bao gồm khả năng tiếp cận đường sá trong mùa khô và tất cả các mùa trong năm,
khả năng tiếp cận điện và khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Kết quả hồi
quy cho thấy hầu hết các biến trên đều tác động có ý nghĩa đến tiêu dùng bình quân
của hộ gia đình với các hệ số có dấu như kỳ vọng. Tác giả cho rằng khả năng tiếp
cận điện và dịch vụ chăm sóc sức khỏe đóng góp tích cực vào năng suất sản xuất.
Điện thúc đẩy việc sử dụng trang thiết bị điện tử và chiếu sáng, làm tăng năng suất
sản xuất; dịch vụ chăm sóc sức khỏe làm giảm rủi ro mất năng suất sản xuất do
bệnh tật gây ra. Khả năng tiếp cận điện làm tăng tiêu dùng bình quân lên 12,7% ở
mức ý nghĩa 1% đối với mô hình cho cả nước và làm tăng 20,4% và 18,7% ở mức ý
nghĩa 1% lần lượt đối với mô hình cho thành thị và vùng đất thấp. Khả năng tiếp
cận chợ tác động tích cực làm tăng tiêu dùng bình quân vùng thành thị lên 14,3% và
vùng đồi núi cao lên 9,6%. Tác giả dành nhiều giải thích cho tác động của khả năng
tiếp cận đường sá đến sự giàu có của hộ gia đình vì theo tác giả mối quan hệ này
khá phức tạp. Những hộ gia đình bị giới hạn khả năng tiếp cận đường sá làm giảm
khả năng tiếp cận chợ và từ đó làm giảm thu nhập. Do khả năng tiếp cận chợ kém sẽ
giới hạn việc tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp, làm tăng chi phí đầu vào và làm
giảm giá bán sản phẩm. Cả hai biến tiếp cận đường sá chủ yếu có tác động đến vùng


9

thành thị, vùng nông thôn và vùng đồi núi cao. Biến khả năng tiếp cận đường sá vào
mùa khô làm giảm tiêu dùng bình quân của hộ gia đình ở thành thị 40,6% và đối với
vùng nông thôn chưa có đường là 12,4%. Biến khả năng tiếp cận đường sá tất cả
các mùa làm tăng tiêu dùng bình quân của hộ gia đình ở ba vùng trên lần lượt là
26,8%, 10,7% và 13,4%. Chiều hướng tác động tương tự của các yếu tố cơ sở hạ
tầng này cũng được tìm thấy trong nhiều tài liệu nghiên cứu về nghèo đói cấp độ hộ
gia đình ở nhiều quốc gia khác như các nghiên cứu của Gounder (2012),

Runsinarith (2007), Gaiha và cộng sự (2007), Warr (2005), Gibson và Rozelle
(2003), Glewwe và cộng sự (2002).
Bên cạnh các yếu tố trên, khả năng tiếp cận hệ thống tưới tiêu cũng là một yếu tố để
giảm nghèo cho các hộ gia đình ở vùng nông thôn, đặc biệt là những vùng nông
thôn sản xuất nông nghiệp. Runsinarith (2007) cho rằng tưới tiêu được kỳ vọng là
thúc đẩy tăng trưởng và giảm nghèo. Đầu tư vào hệ thống tưới tiêu sẽ mang lại lợi
ích to lớn cho người nghèo do người nghèo ở nông thôn phụ thuộc phần lớn vào
việc trồng trọt và canh tác. Các ước lượng hồi quy theo phương pháp bình phương
bé nhất thông thường của tác giả cho thấy, tiếp cận được với hệ thống tưới tiêu làm
tăng chi tiêu bình quân hộ gia đình từ 6,3% đến 7,7% ở mức ý nghĩa 1%.
Một nhân tố khác cũng có tác động đến nghèo đói của hộ gia đình hiện nay được
các nhà kinh tế quan tâm phân tích. Đó là vốn xã hội. Nghiên cứu của Grootaert
(1999) chỉ ra rằng vốn xã hội có tương quan dương với sự giàu có của hộ gia đình,
tức là hộ gia đình có vốn xã hội cao sẽ có chi tiêu bình quân đầu người cao hơn,
nhiều tài sản hơn, tiết kiệm cao hơn và khả năng tiếp cận tín dụng tốt hơn. Tác động
này xảy ra thông qua ba cơ chế chia sẻ thông tin giữa các thành viên, giảm những
hành vi cơ hội và nâng cao việc đưa ra quyết định tập thể. Vốn xã hội làm giảm xác
suất rơi vào nghèo đói và đầu tư vào vốn xã hội sẽ mang lại lợi ích cho người nghèo
cao hơn. Khi nghiên cứu cho trường hợp của Indonesia, Grootaert (1999) đo lường
vốn xã hội qua sáu phương diện: mật độ thành viên, sự đa dạng nội bộ của các tổ
chức (về mặt giới tính, tuổi tác, giáo dục và tôn giáo), tham gia gặp gỡ, tham gia
đưa ra quyết định tích cực, trả hội phí (bằng tiền hoặc sức lao động) và định hướng


10

cộng đồng. Ba trong sáu phương diện nêu trên có ảnh hưởng mạnh nhất đến chi tiêu
bình quân hộ gia đình là số thành viên, sự đa dạng hóa nội bộ và tham gia tích cực
vào việc đưa ra quyết định.
Johannes (2009) cũng thực hiện kiểm tra tác động của vốn xã hội lên nghèo đói của

hộ gia đình sử dụng số liệu Khảo sát hộ gia đình Cameroon năm 2001. Tác giả sử
dụng ba chỉ báo cho vốn xã hội gồm mật độ thành viên, chỉ số ra quyết định và
mạng lưới hỗ trợ. Kỹ thuật hồi quy bình phương bé nhất thông thường được sử
dụng để đánh giá tác động của vốn xã hội lên chi tiêu bình quân đầu người của hộ
gia đình. Kết quả cho thấy mật độ thành viên và chỉ số ra quyết định có tương quan
dương với chi tiêu bình quân.
Vốn xã hội không chỉ có tác động tích cực lên chi tiêu bình quân đầu người mà còn
dẫn đến giảm xác suất rơi vào nghèo đói (Okinmadewa và cộng sự, 2005). Xem xét
sáu phương diện khác của vốn xã hội (chỉ số mật độ thành viên, chỉ số đa dạng, chỉ
số tham gia hội nghị, điểm số đóng góp tiền, điểm số đóng góp sức lao động và chỉ
số tham gia thảo luận) trong một nghiên cứu dành cho Nigeria, Okinmadewa và
cộng sự (2005) không chỉ tập trung vào phân tích ảnh hưởng của vốn xã hội lên sự
giàu có mà còn phân tích tác động khác nhau của yếu tố này đối với người nghèo và
không nghèo. Theo nhóm tác giả biến phụ thuộc - xác suất rơi vào nghèo đói của hộ
gia đình - là biến không liên tục khi hộ gia đình không nghèo và là biến liên tục khi
hộ nghèo nên mô hình Tobit được sử dụng để ước lượng, đồng thời tính toán tác
động biên để thấy sự ảnh hưởng của sáu phương diện vốn xã hội lên xác suất rơi
vào nghèo đói của hộ gia đình. Trong khi chỉ số vốn xã hội nói chung làm giảm xác
suất nghèo đói thì ba trong sáu phương diện của vốn xã hội làm giảm xác suất
nghèo đói một cách có ý nghĩa và độ lớn khác nhau. Biến tham gia thảo luận có tác
động mạnh nhất khi 1 đơn vị tăng lên làm giảm xác suất xuống 1,2%, tiếp theo là
chỉ số đa dạng và đóng góp lao động với xác suất rơi vào nghèo đói giảm xuống lần
lượt là 0,8% và 0,4%.


11

2.2.3. Thuộc tính hộ gia đình và cá nhân
Trong khi các nhân tố như địa lý, tiếp cận cơ sở hạ tầng, vốn xã hội là những yếu tố
bên ngoài thì đặc điểm của hộ gia đình hay cá nhân lại là những yếu tố bên trong

quyết định hộ gia đình hay cá nhân đó có rơi vào nghèo hay không. Haughton và
Khandker (2009) chia thuộc tính hộ gia đình và cá nhân ra thành ba nhóm nhỏ gồm
nhân khẩu học, các yếu tố kinh tế và các yếu tố xã hội.
2.2.3.1. Nhân khẩu học
Theo Lanjouw và Ravallion (1994) giữa quy mô hộ gia đình và tiêu dùng (hoặc thu
nhập) bình quân đầu người ở các quốc gia đang phát triển có mối tương quan âm.
Những người sống trong hộ gia đình có quy mô lớn hơn và trẻ hơn có xu hướng
nghèo hơn. Ở Nigeria, khi quy mô hộ gia đình tăng lên làm tăng xác suất rơi vào
nghèo đói 8,24% (Ogwumike và Akinnibosun, 2013). Theo Ogwumike và
Akinnibosun (2013), điều này có thể giải thích là do hộ gia đình lớn hơn có khả
năng có nhiều con hơn, chúng chưa có khả năng lao động nhưng lại lấy đi một phần
lớn thu nhập cho học phí, khám sức khỏe, thực phẩm và quần áo.
Trái ngược với những nghiên cứu cho rằng quy mô hộ gia đình có mối quan hệ
đồng biến với khả năng rơi vào nghèo đói của hộ gia đình, nghiên cứu của Bogale
và cộng sự (2005) lại cho thấy sự tương quan âm giữa mối quan hệ này. Bogale và
cộng sự (2005) sử dụng hai cách tiếp cận lượng thực phẩm tiêu dùng và chi phí nhu
cầu cơ bản để xác định ngưỡng nghèo của hộ gia đình ở nông thôn Ethiopia. Quy
mô hộ gia đình có tác động dương đến cả hai tiêu chuẩn. Nhưng chỉ có hệ số của
mô hình hồi quy với cách tiếp cận chi phí nhu cầu cơ bản có ý nghĩa thống kê. Kết
quả này được tác giả giải thích là do ở nông thôn Ethiopia, trẻ em cũng phải tham
gia lao động để tạo thu nhập cho gia đình, kể cả những đứa trẻ chỉ sáu tuổi.
Gounder (2012) xem xét cả hai biến quy mô hộ và quy mô hộ bình phương vào mô
hình hồi quy. Nghiên cứu cho thấy hệ số lên quy mô hộ gia đình âm và có ý nghĩa
thống kê ở mức 1%. Có một điểm thú vị đối với biến quy mô hộ bình phương, hệ số
của biến này dương và có ý nghĩa thống kê. Tác giả đã tranh luận rằng quy mô hộ
gia đình có tính kinh tế theo quy mô, tức là hộ gia đình càng có nhiều thành viên


12


càng giàu có hơn hộ gia đình có ít thành viên, và tác giả cũng đề nghị rằng nên có
những nghiên cứu xa hơn để xem xét giá trị tới hạn của độ co giãn chi phí sinh hoạt
theo quy mô hộ gia đình mà tại đó mối quan hệ giữa nghèo và quy mô hộ đổi dấu.
Hệ số phụ thuộc có tác động tiêu cực đến sự giàu có của hộ gia đình. Hệ số này cho
biết gánh nặng đối với các thành viên đang làm việc để kiếm thu nhập cho gia đình.
Hệ số phụ thuộc càng cao, khả năng nghèo càng lớn. Mức độ ảnh hưởng của hệ số
này lên tình trạng nghèo của hộ gia đình cũng khác nhau. Nó được kỳ vọng sẽ tác
động mạnh nhất đến nhóm nghèo kinh niên. Nghiên cứu của McCulloch và Baulch
(1999) về nghèo ở nông thôn Pakistan cho thấy hệ số phụ thuộc làm tăng xác suất
hộ gia đình rơi vào nghèo kinh niên hoặc nghèo tạm thời và làm giảm xác suất
không bao giờ nghèo khi so sánh dấu và độ lớn của tác động biên. Cứ 1% tăng lên
của hệ số phụ thuộc làm tăng xác suất hộ gia đình rơi vào nhóm nghèo kinh niên là
2,3% và nghèo tạm thời là 1,5% ở mức ý nghĩa 5%.
Nghiên cứu về nghèo ở nông thôn Trung Quốc, Jalan và Ravallion (1998) không chỉ
xem xét tác động biến quy mô hộ gia đình đến xác suất rơi vào nghèo kinh niên hay
nghèo tạm thời của hộ gia đình mà còn đưa thêm ba biến giả theo số con (trẻ dưới
15 tuổi) là hộ gia đình có một con, hộ gia đình có hai con và hộ gia đình có từ ba
con trở lên vào mô hình. Quy mô hộ gia đình tương quan dương với xác suất hộ gia
đình rơi vào nghèo kinh niên ở mức ý nghĩa 5%. Cả ba biến giả theo số con trong
hộ gia đình cũng có mối quan hệ cùng chiều với xác suất nghèo kinh niên với mức
độ ảnh hưởng tăng dần theo số con trong hộ. Tuy nhiên, chỉ có biến giả hộ gia đình
có từ ba con trở lên có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Các biến này đều không có ý
nghĩa thống kê đối với xác suất hộ gia đình rơi vào nghèo tạm thời.
Các thuộc tính của chủ hộ như giới tính, tuổi tác, trình độ, công việc, tôn giáo và sắc
tộc luôn được đánh giá là các nhân tố quan trọng đối với nghèo đói ở cấp độ hộ gia
đình. Hầu hết các nhà kinh tế tin rằng giới tính của chủ hộ có ảnh hưởng đến tình
trạng nghèo của hộ gia đình một cách có ý nghĩa. Những hộ gia đình có nữ là chủ
hộ thường nghèo hơn so với những hộ do nam làm chủ. Điều này có thể giải thích là
do phụ nữ luôn bị kỳ thị, họ ít có tiếng nói trong việc ra quyết định ở cấp độ cộng



13

đồng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của gia đình họ, bị đối xử bất công trong
việc tìm kiếm việc làm và trả lương, suy giảm sức khỏe do sinh nở và chăm sóc gia
đình (Haughton và Khandker, 2009). Như Oaxaca (1973) đã nói, những ảnh hưởng
về mặt văn hóa, truyền thống và phân biệt đối xử công khai kết hợp lại tạo ra sự bất
công trong phân phối việc làm giữa lao động nữ so với lao động nam và khác biệt
trong trả lương giữa nam và nữ trong cùng một công việc. Trong một nghiên cứu về
các nhân tố quyết định nghèo đói ở Ai Cập, Datt và Jolliffe (1999) đã chỉ ra rằng
phụ nữ làm chủ hộ có tác động tiêu cực đến tiêu dùng bình quân đầu người của hộ
gia đình. Hệ số ước lượng hồi quy theo phương pháp bình phương bé nhất thông
thường cho thấy nếu chủ hộ là phụ nữ thì tiêu dùng bình quân giảm 8,3% đối với
vùng nông thôn và giảm 9,1% đối với vùng thành thị. Kết quả tương tự cũng được
tìm thấy trong các nghiên cứu của Bhatta và Sharma (2006), Glewwe và cộng sự
(2002). Tuy nhiên, có một sự khác biệt đáng chú ý đã được Bogale và cộng sự
(2005) phát hiện khi nghiên cứu về nghèo đói ở Ethiopia. Sử dụng biến tiêu dùng
thực phẩm bình quân đầu người như là thước đo cho sự giàu có, những hộ gia đình
do nữ làm chủ có xác suất rơi vào nghèo đói thấp hơn so với nam là chủ hộ. Còn khi
xem xét chi tiêu dùng bình quân đầu người thì phụ nữ là chủ có ảnh hưởng đến
nghèo cao hơn mặc dù hệ số ước lượng không có ý nghĩa thống kê đối với trường
hợp này. Họ đã lý giải rằng do phụ nữ có khả năng phân bổ các nguồn lực sẵn có
theo cách có được nhiều calories bình quân đầu người tốt hơn đàn ông.
Một loạt các thuộc tính liên quan đến chủ hộ gia đình được Glewwe và cộng sự
(2002) đưa vào trong mô hình hồi quy để xem xét tác động của chúng lên tiêu dùng
bình quân đầu người. Sử dụng hai bộ dữ liệu Khảo sát mức sống ở Việt Nam 19921993 và 1997-1998, tác giả cho thấy hầu hết các thuộc tính của chủ hộ đều có tác
động có ý nghĩa đến tiêu dùng bình quân. Chủ hộ là nam thì tiêu dùng bình quân
giảm xuống 4,56% trong bộ dữ liệu 1997-1998 so với chủ hộ là nữ, đây là một vấn
đề cần quan tâm vì dấu của hệ số khác với những nghiên cứu trước đây ở một số
quốc gia. Các biến còn lại đều có dấu như kỳ vọng. Các nhóm công việc của chủ hộ

đều có tác động dương lên tiêu dùng bình quân nếu dùng nhóm chủ hộ sản xuất


14

nông nghiệp đối chiếu, cụ thể chủ hộ là công nhân thì tiêu dùng bình quân cao hơn
18,68%, chủ hộ buôn bán thì tiêu dùng bình quân cao hơn 18,04% và chủ hộ sản
xuất thì tiêu dùng bình quân cao hơn 9,66% so với chủ hộ làm nông nghiệp, tất cả
đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Bên cạnh đó, trình độ của chủ hộ và tình trạng
hôn nhân cũng có tác động tích cực đến tiêu dùng bình quân của hộ gia đình. Số
năm đi học chính thức và đào tạo hướng nghiệp càng tăng thì tiêu dùng bình quân
càng tăng, chủ hộ đã kết hôn sẽ giàu có hơn chủ hộ còn độc thân. Glewwe và cộng
sự (2002) còn kiểm tra tình trạng sức khỏe của chủ hộ đến sự giàu có của hộ gia
đình. Nếu chủ hộ bệnh trong 4 tuần sẽ làm giảm tiêu dùng bình quân đầu người
0,25% ở mức ý nghĩa 5%.
2.2.3.2. Yếu tố kinh tế
Có nhiều yếu tố kinh tế có liên quan đến nghèo của hộ gia đình, bao gồm việc làm
và tài sản được sở hữu bởi hộ gia đình.
Số lượng thành viên có việc làm trong hộ gia đình tương quan âm với xác suất rơi
vào nghèo đói của hộ gia đình. Nghiên cứu của Arif và Bilquees (2006) cho biết số
lượng thành viên có việc làm trong hộ gia đình tăng lên làm giảm xác suất nghèo
tạm thời xuống 13,7% ở mức ý nghĩa 5%. Một nghiên cứu khác của Cường và cộng
sự (2010) về nghèo đói ở thành thị của Việt Nam cho thấy tỷ lệ thành viên đang làm
việc góp phần làm tăng thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình. Bên cạnh số
lượng thành viên có việc làm, những hộ gia đình có thành viên di cư/làm việc ở địa
phương khác và hộ gia đình có thành viên làm việc trong khu vực nhà nước cũng có
tác động tích cực đến khả năng thoát nghèo. Trong trường hợp của Indonesia, tác
động riêng phần của việc có thành viên di cư/làm việc ở địa phương khác làm giảm
xác suất nghèo 0,6% và làm tăng xác suất không nghèo 3,5% (Teguh và Nurkholis,
2012). Jalan và Ravallion (1998) đưa biến giả hộ gia đình có thành viên làm việc

trong khu vực nhà nước hay không vào trong mô hình để xem tác động của biến này
lên khả năng rơi vào nghèo đói. Kết quả cho thấy, biến này tương quan âm với khả
năng rơi vào nghèo đói của hộ gia đình ở mức ý nghĩa 5%.


15

Tài sản của hộ gia đình bao gồm tài sản hữu hình (đất canh tác, gia súc, thiết bị
nông nghiệp, máy móc sản xuất, nhà cửa, đồ gia dụng và các sản phẩm lâu bền
khác) và tài sản tài chính (Haughton và Khandker, 2009). Đất canh tác được xem là
tài sản có giá trị, đặc biệt đối với hộ gia đình ở vùng nông thôn và diện tích đất
được sở hữu bởi hộ gia đình thường được sử dụng như là chỉ báo cho sự giàu có của
hộ gia đình (Runsinarith, 2007). Những hộ gia đình giàu sở hữu đất nông nghiệp lớn
hơn và vì vậy họ có thể sản xuất và tiêu dùng nhiều hơn các hộ nghèo. Do đó, chi
tiêu bình quân đầu người được kỳ vọng có tương quan dương với diện tích đất nông
nghiệp. Bằng nghiên cứu thực nghiệm cho trường hợp của Campuchia, Runsinarith
(2007) đã chỉ ra rằng khi diện tích đất canh tác tăng lên 1 hecta thì tiêu dùng bình
quân đầu người tăng lên 6,2% ở mức ý nghĩa 1%. Còn Lawson và cộng sự (2006)
xem xét tác động của diện tích đất nông nghiệp đến khả năng thoát nghèo của hộ gia
đình. Tác giả sử dụng mô hình probit cho dữ liệu bảng hộ gia đình ở Uganda thời kỳ
1992-1999 và tính toán tác động biên của các nhân tố quyết định tình trạng nghèo
của hộ gia đình. Với mỗi hecta đất nông nghiệp tăng lên làm tăng xác suất thoát
nghèo của hộ gia đình 28,3% và giảm xác suất rơi vào nghèo đói 25,2% ở mức ý
nghĩa 5%. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong các nghiên cứu của Jalan và
Ravallion (1998), Kimsun (2011), Arif và Farooq (2012).
Cùng với đất đai canh tác, số lượng gia súc cũng là một nhân tố giúp các hộ gia
đình thoát nghèo hoặc không rơi vào nghèo đói. Sử dụng số lượng gia súc, số lượng
trâu bò và số lượng heo để giải thích sự thay đổi của tiêu dùng bình quân đầu người
ở Lào. Kết quả mô hình hồi quy của Andersson và cộng sự (2006) cho thấy số
lượng gia súc tác động dương đến tiêu dùng của các hộ gia đình ở thành thị, nông

thôn không có đường sá, vùng đất thấp và vùng đồi núi. Trong khi đó số lượng heo
không có ảnh hưởng có ý nghĩa đến tiêu dùng bình quân.
Theo Khalid và cộng sự (2005), tổng tài sản tài chính của người nghèo rất thấp nếu
so với các hộ gia đình không nghèo. Đây là kết quả được kỳ vọng cho hầu hết các
hộ gia đình ít học, làm những công việc được trả lương thấp và có quy mô hộ gia
đình lớn, từ đó ít có khả năng sở hữu đất và các tài sản tài chính khác. Trong một


16

nghiên cứu khác của McCulloch và Baulch (1999), giá trị vật nuôi và giá trị vốn của
hộ gia đình làm giảm xác suất rơi vào nghèo kinh niên là 1,6% ở mức ý nghĩa thống
kê 5%.
Giá trị nhà ở là một chỉ báo tốt cho sự giàu có của hộ gia đình. Theo kết quả nghiên
cứu của Bhatta và Sharma (2006) cả hai nhóm nghèo tạm thời và nghèo kinh niên
có giá trị sở hữu nhà ở nhỏ hơn các hộ không nghèo. Bằng phương pháp thống kê
mô tả sử dụng bộ dữ liệu Khảo sát mức sống hộ gia đình ở Nepal trong hai giai
đoạn 1995-1996 và 2003-2004, tác giả đã chỉ ra cho thấy giá trị nhà bình quân của
hộ không nghèo cao hơn khoảng 4-5 lần hộ nghèo tạm thời và hộ nghèo kinh niên.
Do đó, sở hữu nhà có mối tương quan âm với xác suất rơi vào nghèo đói.
Thu nhập từ việc nhận tiền chuyển về của người thân cũng có khả năng tác động
đến tình trạng nghèo của hộ gia đình. Số liệu khảo sát ở Bangladesh cho thấy những
hộ gia đình nhận tiền chuyển về có xu hướng giàu có hơn những hộ không được
nhận (Kotikula và cộng sự, 2007). Arif và Bilquees (2006) đưa ra vấn đề cần phải
chú ý về mặt khả năng di cư vì các thành viên trong gia đình nghèo ít có cơ hội ra
nước ngoài hoặc ngay cả đến các thành phố khác trong nước. Họ chỉ đơn thuần di
chuyển khỏi vùng nông thôn này sang vùng lân cận để kiếm kế sinh nhai, nhưng
điều đó không thực sự giúp họ thoát nghèo. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa việc nhận
tiền gửi về cả trong và ngoài nước có tác động tích đến việc giảm nghèo đã được
kiểm chứng qua nhiều nghiên cứu thực nghiệm (Cường và cộng sự, 2010; Bhatta và

Sharma, 2006; Arif và Bilquees, 2006).
Trong nhóm các yếu tố kinh tế có tương quan với tình trạng nghèo đói của hộ gia
đình, khả năng tiếp cận tín dụng được đánh giá cao về mặt hỗ trợ vốn sản xuất cho
các hộ nghèo và được xem là công cụ hiệu quả trong chiến lược xóa đói giảm nghèo
ở các quốc gia (Võ Khắc Thường và Trần Văn Hoàng, 2013). Nhóm tác giả đã dẫn
dắt từ cơ sở kinh tế học của tài chính vi mô: “Người ta cho rằng giá trị hoàn trả biên
của những khoản vay nhỏ có hình dạng đường cong hữu dụng biên. Người nghèo có
khả năng kinh doanh sinh lợi đạt được lợi nhuận trên mỗi đơn vị vốn lớn hơn người
khá giả và sẵn sàng trả lãi vay cao hơn cho những khoản tín dụng từ ngân hàng”.


17

Bằng nghiên cứu thực nghiệm, Teguh và Nurkholis (2012) cho rằng những hộ gia
đình tiếp nhận các chương trình tín dụng có xu hướng không nghèo. Tác động biên
của tín dụng vi mô làm giảm xác suất nghèo 0,9% và tăng xác suất không nghèo
5,9%. Từ kết quả này có thể thấy rằng khả năng tiếp cận tín dụng vi mô tác động
tích cực đến các hộ gia đình không nghèo mạnh hơn. Hầu hết các hộ nghèo có ít
hoặc không có đất nông nghiệp cũng như những tài sản khác làm tài sản thế chấp
cho các khoản vay. Quach và cộng sự (2005) tranh luận rằng ở Việt Nam khả năng
đi vay của hộ gia đình bị tác động bởi nhiều yếu tố như tuổi chủ hộ, sở hữu đất nông
nghiệp, nhà ở và tài sản tài chính. Những hộ gia đình sở hữu đất nông nghiệp càng
lớn thì khả năng vay cao hơn và vay được nhiều hơn so với những hộ có ít hoặc
không sở hữu đất nông nghiệp. Vì vậy, tín dụng vi mô hữu ích trong chiến lược
giảm nghèo nhưng tác động của nó đến xác suất thoát nghèo không hẳn đã cao.
2.2.3.3. Yếu tố xã hội
Bên cạnh yếu tố nhân khẩu học và yếu tố kinh tế, một vài chỉ số xã hội tương quan
với nghèo đói và mức sống hộ gia đình. Giáo dục, sức khỏe và đặc điểm của nơi cư
ngụ là những chỉ số quan trọng được các nhà kinh tế quan tâm.
Giáo dục trong phân tích nghèo đói được xem xét trên ba khía cạnh là trình độ học

vấn của các thành viên trong hộ gia đình, tình trạng cung cấp các dịch vụ liên quan
đến giáo dục và việc sử dụng các dịch vụ này của các thành viên trong gia đình
(Haughton và Khandker, 2009). Các nhà kinh tế nhận thấy nghèo đói và thiếu học
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thiếu học hay trình độ thấp làm hạn chế cơ hội
tìm được việc làm mang lại thu nhập cao hơn để cải thiện tình trạng nghèo. Yang
(2004) đã kiểm tra sự đóng góp của giáo dục đến thu nhập hộ gia đình ở nông thôn
Trung Quốc thời kỳ 1986-1995, việc nới lỏng kiểm soát cho phép hộ gia đình phân
bổ lại các nguồn lực từ hoạt động sản xuất nông nghiệp sang các hoạt động phi
nông nghiệp. Sử dụng dữ liệu bảng từ tỉnh Tứ Xuyên, tác giả đã phát hiện ra rằng
hộ gia đình có những thành viên được học hành tốt hơn phản ứng lại với những cơ
hội mới bằng cách dành nhiều lao động và vốn hơn cho hoạt động phi nông nghiệp
đem lại lợi tức cao hơn, từ đó đóng góp vào sự tăng trưởng thu nhập.


×