Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Nghiên cứu tác động quy mô hội đồng quản trị đến giá trị trị doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH


NGUYỄN THÙY VÂN

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG
QUY MÔ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐẾN
GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP

LUẬ N VĂ N THẠ C SỸ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH


NGUYỄN THÙY VÂN

NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG
QUY MÔ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ ĐẾN
GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP
Chuyên ngành: Tài chính – ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐỊNH



Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của bản thân, các số liệu và
nội dung trong nghiên cứu này là trung thực. Kết quả của nghiên cứu chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào.
Tác giả

Nguyễn Thùy Vân


MỤC LỤC
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TÓM TẮT ...................................................................................................................1
1

2

TỔNG QUAN BÀI NGHIÊN CỨU ...................................................................2
1.1

Lý do thực hiện đề tài ....................................................................................2


1.2

Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................3

1.3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................3

1.4

Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................3

1.5

Kết cấu đề tài .................................................................................................4

CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ..................................................................5
2.1

Hội đồng quản trị tác động đến giá trị doanh nghiệp ....................................5

2.1.1

Lý thuyết chi phí đại diện .......................................................................5

2.1.2

Lý thuyết quản trị ....................................................................................9

2.1.3


Quan điểm phụ thuộc nguồn lực ...........................................................10

2.1.4

Quan điểm các bên liên quan ................................................................11

2.2

Quy mô Hội đồng quản trị ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp .................14

2.2.1

Ảnh hưởng tích cực đến giá trị doanh nghiệp: .....................................14

2.2.2

Ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp: .....................................14

2.2.3

Ảnh hưởng không đáng kể lên giá trị doanh nghiệp: ...........................15

2.3

Thành viên Hội đồng quản trị nội bộ và độc lập .........................................16


3


4

5

2.4

Hiện tượng kiêm nhiệm ...............................................................................18

2.5

Sự phân biệt giới tính ..................................................................................20

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.....................................................................24
3.1

Dữ liệu mẫu .................................................................................................24

3.2

Mô hình nghiên cứu chung: .........................................................................24

3.3

Đo lường các biến trong mô hình ................................................................26

3.4

Phương pháp phân tích ................................................................................28

3.4.1


Lập bảng thống kê các biến trong mô hình...........................................28

3.4.2

Lựa chọn mô hình phù hợp ...................................................................28

3.4.3

Thay đổi cách đo lường giá trị công ty .................................................34

3.4.4

Phân tích đặc điểm của Hội đồng quản trị ............................................35

3.4.5

Phân tích khác biệt đặc điểm của Hội đồng quản trị ............................36

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...............................................................................38
4.1

Phân tích thống kê mô tả .............................................................................38

4.2

Phân tích mối quan hệ quy mô Hội đồng quản trị và giá trị doanh nghiệp .40

4.3


Phân tích đặc điểm của Hội đồng quản trị ...................................................47

4.4

Phân tích sự khác biệt đặc điểm của Hội đồng quản trị ..............................52

KẾT LUẬN .......................................................................................................57

TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................58


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Tóm tắt bốn nhóm lý thuyết. ....................................................................13
Bảng 2.2: Các nghiên cứu trước đây. Mối quan hệ giữa quy mô Hội đồng quản trị
và giá trị công ty ........................................................................................................16
Bảng 4.1: Mô tả biến phân tích .................................................................................38
Bảng 4.2: Ma trận tương quan giữa quy mô Hội đồng quản trị và giá trị doanh
nghiệp ........................................................................................................................39
Bảng 4.3: Quy mô Hội đồng quản trị tác động đến ROA – Lựa chọn mô hình .......42
Bảng 4.4: Quy mô Hội đồng quản trị tác động đến ROA – Mô hình OLS tốt nhất .43
Bảng 4.5: Quy mô Hội đồng quản trị tác động đến ROA – Sử dụng biến công cụ
(IV) ............................................................................................................................48
Bảng 4.6: Quy mô Hội đồng quản trị tác động đến ROA – Sử dụng hồi quy GMM
...................................................................................................................................49
Bảng 4.7: Hai thước đo khác đo lường giá trị công ty ..............................................50
Bảng 4.8: Thành viên Hội đồng quản trị nội bộ và độc lập tác động lên giá trị doanh
nghiệp. .......................................................................................................................54
Bảng 4.9: Sự kiêm nhiệm và đặc điểm giới trong Hội đồng quản trị tác động lên giá
trị doanh nghiệp.........................................................................................................55

Bảng 4.10: Sự khác biệt trong đặc điểm công ty ......................................................56


DANH MỤC TỪ VIÊT TẮT

2SLS
FE
HĐQT
OLS
RE

Hồi quy hai giai đoạn bình phương tối thiểu
Mô hình hiệu ứng cố định
Hội đồng quản trị
Bình phương tối thiểu
Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên


- 1-

TÓM TẮT
Phần lớn các bài nghiên cứu là ở Mỹ, Anh và Nhật Bản, đã xem xét mối quan hệ
giữa cơ chế quản trị doanh nghiệp, cơ cấu sở hữu và giá trị doanh nghiệp công ty.
Những nghiên cứu này mang lại khác nhau kết quả do bị ảnh hưởng bởi bản chất
của hệ thống quản lý hiện hành của mỗi nước. Vì thế, bài nghiên này thực hiện
tìm hiểu mối quan hệ giữa quy mô Hội đồng quản trị và giá trị doanh nghiệp.
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu ở các công ty niêm yết từ năm 2006 trên sàn
chứng khoán Việt Nam. Bằng việc sử dụng dữ liệu bảng cân bằng của 145 công
ty, bài nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ tiêu cực đáng kể giữa quy mô Hội đồng
quản trị với giá trị doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thành viên độc lập nắm vai trò

quan trọng trong Hội đồng quản trị và tác động lớn đến giá trị doanh nghiệp. Tuy
nhiên, bài nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng cho thấy việc Giám đốc điều
hành kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị cũng như sự có mặt của thành viên nữ
trong Hội đồng quản trị tạo nên tác động đáng kể lên giá trị doanh nghiệp.
Theo quan điểm lý thuyết, tồn tại vấn đề nội sinh trong mô hình tìm hiểu mối
quan hệ giữa Hội đồng quản trị và giá trị doanh nghiệp. Do đó, bài nghiên cứu sử
dụng mô hình ước lượng phổ biến GMM để khắc phục vấn đề trên. Mô hình này
được sử dụng xuyên suốt trong quá trình đánh giá mối quan hệ giữa cấu trúc Hội
đồng quản trị và giá trị doanh nghiệp.


- 2-

1 TỔNG QUAN BÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Lý do thực hiện đề tài
Một tập thể hoạt động thông suốt, người lãnh đạo là hết sức quan trọng. Người
lãnh đạo sử dụng nguồn vốn sẵn có một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên nếu
như người lãnh đạo lại tạo nên sự mất mát và tổn thất cho tập thể. Bởi họ đang
quan tâm đến lợi ích cá nhân hơn lợi ích tập thể. Như vậy công ty sẽ đi về đâu?
Để không tạo nên tương lai xấu cho công ty, một tổ chức thường chú trọng đến
quản trị doanh nghiệp, hạn chế vấn đề đại diện phát sinh. Và Hội đồng quản trị là
khâu quan trọng nhất trong mô hình quản trị của một công ty. Nếu như người
lãnh đạo quan trọng cho công ty phát triển thì Hội đồng quản trị cũng quan trọng
không kém cho sự tồn tại của công ty. Hội đồng quản trị là nơi bảo vệ lợi ích và
tài sản của công ty, đảm bảo việc đầu tư thu lãi. Mọi quyết định chiến lược hoạt
động của doanh nghiệp phải bắt nguồn hoặc được phê duyệt bởi Hội đồng quản
trị. Như vậy, một công ty có thành công hay không phụ thuộc nhiều vào Hội
đồng quản trị và quá trình quản trị công ty.
Theo đánh giá của Hiệp Hội Các quốc gia Đông Nam Á về quản trị doanh nghiệp
ở Việt Nam, quản trị doanh nghiệp trong các công ty niêm yết tại Việt Nam giảm

dưới mức mong đợi, đặc biệt là trong lĩnh vực trách nhiệm của ban giám đốc và
vai trò của các bên liên quan. Quản trị doanh nghiệp yếu kém dẫn đến mất mát
lớn từ chi phí đại diện. Biểu hiện của sự quản trị doanh nghiệp yếu kém thể hiện
trong tập đoàn Viettel. Tập đoàn Viettel xây dựng mô hình quản trị không có Hội
đồng quản trị hay hội đồng thành viên. Theo tư tưởng quản trị của người lãnh đạo
tập đoàn Viettel, Hội đồng quản trị không mang lại lợi ích gì cho tập đoàn. Vai
trò quan trọng của Hội đồng quản trị mà các nghiên cứu khoa học trước đây tìm
ra không tồn tại.
Như vậy, trường hợp ở tập đoàn Viettel chỉ là một cá biệt hay đại diện trong các
công ty ở Việt Nam? Với những nỗ lực và tầm quan trọng của mình, Hội đồng
quản trị ở Việt Nam có tạo nên giá trị công ty hay không? Số lượng thành viên


- 3-

Hội đồng quản trị có tác động đến giá trị doanh nghiệp hay không? Đó chính là
lý do và động lực thúc đẩy tôi nghiên cứu vấn đề “Nghiên cứu tác động của
quy mô Hội đồng quản trị đến giá trị doanh nghiệp”

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của nghiên cứu này là tìm hiểu sự ảnh hưởng của quy mô Hội
đồng quản trị lên giá trị của công ty. Vì vậy, các câu hỏi nghiên cứu đặt ra nhằm
kiểm định mối quan hệ trên.
 Quy mô Hội đồng quản trị có tác động đến giá trị của công ty? Quan hệ
này là tích cực hay tiêu cực?
 Thành viên Hội đồng quản trị nội bộ và thành viên độc lập tham gia vào
mối quan hệ giữa quy mô Hội đồng quản trị với giá trị công ty như thế?
 Chủ tịch hội đồng kiêm nhiệm tổng giám đốc điều hành có tác động vào
giá trị công ty hay không?
 Việc phân biệt giới tính hay nữ giám đốc trong Hội đồng quản trị có làm

thay đổi giá trị công ty hay không?
 Quy mô Hội đồng quản trị tương tác với đặc điểm khác của công ty có kéo
theo sự thay đổi mối quan hệ giữa quy mô Hội đồng quản trị và giá trị
công ty hay không?

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu: Thành viên Hội đồng quản trị trong báo cáo
thường niên hay báo cáo tài chính của 145 công ty phi tài chính.
 Phạm vi nghiên cứu: Các công ty phi tài chính đang niêm yết trên sàn
chứng khoán Việt Nam năm 2006 (bao gồm HNX và HOSE).
 Thời gian nghiên cứu: từ năm 2007 đến 2013.

1.4 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp thống kê mô tả và phân tích hồi quy tuyến tính đa
biến - ước lượng theo phương pháp bình phương tối thiểu và GMM – để xác định


- 4-

sự tác động của quy mô Hội đồng quản trị lên giá trị doanh nghiệp và khả năng
cấu trúc Hội đồng quản trị làm thay đổi giá trị doanh nghiệp.

1.5 Kết cấu đề tài
Bài nghiên cứu được tổ chức thành 5 phần và phụ lục. Chi tiết các phần như sau:
 Phần 1: Tổng quan bài nghiên cứu.
 Phần 2: Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu trước đây.
 Phần 3: Dự liệu và phương pháp nghiên cứu.
 Phần 4: Trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm và đánh giá kết quả
này.


 Phần 5: Kết luận quan trọng cuối cùng toàn bài nghiên cứu.


- 5-

2 CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
2.1 Hội đồng quản trị tác động đến giá trị doanh nghiệp
Quản trị doanh nghiệp được xác định là tổ chức chi phối hành vi của các nhà
quản lý và xác định quyền hạn của họ. Quản trị doanh nghiệp có thể cũng được
thu hẹp lại định nghĩa là các công cụ để đảm bảo tỷ lệ lợi tức đầu tư tối đa cho
các thành viên góp vốn. Theo quan điểm phổ biến, quản trị doanh nghiệp trở
thành công cụ bù đắp tổn thất tiềm tàng do xung đột lợi ích giữa thành viên góp
vốn và các nhà quản lý. Những tổn thất tiềm năng phát sinh do chi phí đại diện
(lý thuyết đại diện), chi phí giao dịch (lý thuyết chi phí giao dịch), và chi phí
quyền sở hữu (lý thuyết quyền sở hữu). Bozec (2005, trang 4)
Chính vì vậy, việc quản trị doanh nghiệp hiệu quả là hết sức quan trọng với một
doanh nghiệp. Trong nhiều thập kỷ qua, các nhà nghiêu cứu xem xét kỹ lưỡng
địa vị, các đặc điểm và cách thức hoạt động của Hội đồng quản trị. Bởi lẽ Hội
đồng quản trị là công cụ quản trị được quan tâm hàng đầu. Hội đồng quản trị đặt
nhiều quan tâm vào các biện pháp tinh giản và nâng cao quản trị doanh nghiệp.
Một số nghiên cứu đã nêu lên quyền tự chủ lớn hơn cho các thành viên Hội đồng
quản trị. Do đó, Hội đồng quản trị đóng vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình
ra quyết định của một công ty. Sự ảnh hưởng của Hội đồng quản trị đến công ty
được lý giải theo các quan điểm sau:
2.1.1 Lý thuyết chi phí đại diện
Theo lý thuyết chi phí đại diện, nhà quản lý lấy mình làm trung tâm và hành
động theo lợi ích cá nhân. Do đó, họ ít chú ý đến lợi ích cổ đông. Ví dụ, các nhà
quản lý có thể quan tâm nhiều trong việc hưởng thụ các đãi ngộ như các văn
phòng sang trọng, xe hơi công ty và lợi ích khác. Các nhà quản lý có kiến thức
chuyên môn cao đang ở trong một vị trí có thể theo đuổi lợi ích riêng chứ không

phải là lợi ích cổ đông (chủ sở hữu) (Fama, 1980; Fama và Jensen, 1983). Các
quyết định của nhà quản lý nhằm theo đuổi tư lợi làm tăng chi phí để các công ty,
trong đó có thể bao gồm các chi phí cơ cấu lại các hợp đồng, chi phí giám sát và


- 6-

kiểm soát hành vi của các đại diện. Lợi ích cổ đông rõ ràng có thể bị tổn hại nếu
các nhà quản lý tối đa hóa lợi ích của bản thân, tạo các chi phí làm giảm lợi
nhuận tổ chức. Như vậy, nhà quản lý chiếm đoạt lợi ích cổ đông. Về bản chất,
các nhà quản lý không thể tin tưởng và cần được theo dõi chặt chẽ từ Hội đồng
quản trị, để bảo vệ quyền lợi của cổ đông. Hơn nữa, trong công ty lớn có sự phân
tán rộng rãi quyền sở hữu, cổ đông nhỏ không đủ nguồn lực để cho việc giám sát
hành vi của người quản lý. Eisenhardt (1989, trang 58) giải thích rằng vấn đề đại
diện xảy ra khi (a) những tham vọng hay mục tiêu của nhà quản lý và cổ đông
xung đột nhau và (b) cổ đông tốn kém chi phí và khó khăn trong việc xác minh
những hành động thực của nhà quản lý. Do đó, việc giám sát các hoạt động quản
lý là nhiệm vụ cơ bản của Hội đồng quản trị. Khi đó vấn đề đại diện được giảm
thiểu, và giá trị doanh nghiệp có thể tăng.
Theo lập luận của Fama và Jensen (1983, trang 306), chi phí đại diện xuất hiện
trong các tổ chức từ rất sớm. Lý thuyết về chịu đựng rủi ro tối ưu cho chúng ta
biết rằng các thành viên góp vốn chấp nhận chia sẻ rủi ro không hạn chế tạo nên
lợi thế trong các tổ chức nhỏ cũng như lớn. Điều này có nghĩa là, các thành viên
góp vốn chấp nhận bù đắp phần lỗ từ hoạt động của công ty, vượt qúa vốn góp
ban đầu. Trong tổ chức nhỏ, các thông tin quan trọng chỉ tập trung vào một hoặc
một vài đại diện. Một vài đại diện này thực hiện kiểm soát quyết định cũng như
quản lý quyết định khá hiệu quả. Tuy nhiên, một khi các đại diện này thực hiện
quyết định quan trọng của công ty nhưng lựa chọn đảm bảo quyền lợi của bản
thân. Các thành viên góp vốn sẽ rất ít cơ hội bảo vệ mình chống lại các hành vi
trên của các đại diện này, và điều này làm giảm giá trị và lòng tin của các thành

viên góp vốn chịu rủi ro không hạn chế.
Một giải pháp khả thi được đưa ra để giải quyết vấn đề đại diện phát sinh. Các
thành viên góp vốn hạn chế chịu rủi ro trong phần vốn góp của mình. Trong thực
tế, sự hạn chế chịu rủi ro là công cụ kiểm soát hành động tùy ý của các đại diện
quyết định. Trong các tổ chức lớn thông thường, số lượng thành viên góp vốn


- 7-

lớn. Khi có nhiều thành viên góp vốn, khá tốn kém để cho tất cả họ được tham
gia vào kiểm soát quyết định. Họ ủy quyền kiểm soát quyết định mới hiệu quả.
Việc kiểm soát quyết định được tách biệt hoàn toàn với quản lý quyết định là
hiện tượng khá phổ biến trong các công ty lớn và quỹ hỗ tương tài chính. Các tổ
chức này hầu hết có các thành viên góp vốn không đủ điều kiện đảm đương vai
trò của mình trong quá trình ra quyết định. Do đó họ ủy quyền cho các đại diện
thực hiện vai trò kiểm soát quyết định.
Sự tách biệt quản lý quyết định và kiểm soát ra quyết định nhằm hạn chế quyền
lực của các cá nhân ra quyết định, muốn chiếm đoạt các lợi ích của các thành
viên góp vốn. Tổ chức tốn kém chi phí cho việc kiểm tra và cân bằng của hệ
thống ra quyết định, nhưng nó cũng có những lợi ích quan trọng. Sự tách biệt
mang lại lợi ích vì các kiến thức có giá trị được sử dụng trong quyết định ra quá
trình. Các kiến thức này có liên quan và hỗ trợ kiểm soát các vấn đề đại diện của
các thành viên góp vốn phổ biến. Trong các tổ chức có cơ cấu góp vốn phức tạp,
những lợi ích của việc tách biệt hai chức năng trong quá trình ra quyết định mang
lại lợi ích lớn hơn chi phí mà chúng tạo ra.
Giải pháp tốt để tách rời quản lý quyết định với kiểm soát quyết định là xây dựng
một hệ thống phân cấp quyết định điển hình. Trong hệ thống này, các đại diện
cấp cao phê duyệt và giám sát các sáng kiến của cấp dưới và đánh giá hiệu quả
làm việc của họ. Các hệ thống phân cấp chính thức của các tổ chức lớn cũng
được củng cố bởi các thông tin không chính thức từ việc giám sát lẫn nhau giữa

các đại diện. Khi các đại diện tương tác lẫn nhau, họ có được thông tin với chi
phí thấp về đồng nghiệp, thông tin không trực tiếp có sẵn cho các đại lý cấp trên.
Hệ thống giám sát lẫn nhau khai thác thông tin để sử dụng trong quá trình kiểm
soát. Hệ thống giám sát lẫn nhau tạo ra động lực nâng cao giá trị của con người
thông qua lợi ích của các đại diện trên thị trường đại diện nội bộ của các tổ chức.
Các đại diện lựa chọn giữa các tổ chức trên cơ sở lợi ích được cung cấp và tiềm
năng phát triển nguồn nhân lực. Đại lý đánh giá sự tương tác cạnh tranh diễn ra


- 8-

trong thị trường đại diện nội bộ của tổ chức vì nó gia tăng sản phẩm biên hiện tại
và đóng góp vào phát triển nguồn vốn con người. Hơn nữa, nếu các đại diện nhận
thấy rằng đánh giá hiệu quả của họ là không thiên vị (có nghĩa là, nếu người ta
không thể đánh lừa sự đánh giá có hệ thống của họ). Sau đó họ xem xét việc điều
chỉnh hệ thống tưởng thưởng từ thông tin giám sát lẫn nhau. Bởi vì thông tin làm
giảm sự độ không chắc chắn của phần thưởng cho sự nỗ lực và kỹ năng. Kể từ
khi cơ chế khuyến khích và hệ thống kiểm soát quyết định phổ biến mang lại lợi
ích cho các thành viên góp vốn.
Jensen và Meckling (1976) nhận định vấn đề đại diện có thể được giải quyết
thông qua các hợp đồng thích hợp. Các hợp đồng xác định các quyền thuộc các
nhà quản lý và cổ đông. Fama và Jensen (1983, trang 302) đề cập đến hợp đồng
“quy định quyền của từng nhà quản lý trong tổ chức, tiêu chuẩn hiệu suất mà họ
được đánh giá và cấu trúc phần thưởng cho những gì họ đạt được”. Hầu hết nhà
quản lý có toàn quyền quyết định về vấn đề này (Shleifer và Vishny, 1997). Cổ
đông không có khả năng hoặc ít tham gia trong hợp đồng hoàn hảo. Do đó, cổ
đông giảm bớt quyền quản lý quyết định dành cho nhà quản lý. Hơn nữa, cổ đông
giám sát nhà quản lý để đảm bảo họ hành động vì lợi ích tốt nhất của các cổ
động. Khi đó cổ đông phải chịu chi phí giám sát, tiếp tục làm giảm giá trị của
công ty.

Cổ đông luôn muốn tối đa hóa lợi nhuận, nhưng việc giảm thiểu chi phí đại diện
không mang lại cho họ lợi ích mong muốn thông qua việc sử dụng hợp đồng. Các
học giả đã đề xuất cơ chế quản lý khác nhau để giải quyết các vấn đề về đại diện.
Do đó, lý thuyết chi phí đại diện làm cho sở cho việc quản trị công ty thông qua
việc sử dụng cơ chế nội bộ và bên ngoài (Roberts et al, 2005). Cơ chế quản trị
được thiết kế để bảo vệ lợi ích cổ đông, giảm thiểu chi phí đại diện và gắn kết sự
quan tâm của nhà quản lý – cổ đông.
Hai cơ chế quản lý quan trọng được sử dụng cho mục đích này là Hội đồng quản
trị và kế hoạch khen thưởng để gắn kết lợi ích của nhà quản lý và cổ đông. Fama


- 9-

(1980) cho rằng Hội đồng quản trị một cơ chế quản lý với chi phí thấp. Theo lý
luận này, Hội đồng quản trị là một nhóm quản trị, với các đặc điểm như quy mô,
thành viên nội bộ và độc lập, việc tách biệt Giám đốc điều hành và Chủ tịch Hội
đồng quản trị (Dalton et al, 1998;. Coles & Hesterly, 2000;. Daily et al, 2003) với
mục tiêu nâng cao hiệu quả giám sát. Việc khen thưởng điều hành phụ thuộc vào
mức độ mà các nhà quản lý quan tâm đến lợi ích với các cổ đông.
2.1.2 Lý thuyết quản trị
Lý thuyết chi phí đại diện cho giả định rằng cổ đông và nhà quản lý có lợi ích
khác nhau. Nhà quản lý vì bản thân, mưu cầu lợi ích cá nhân. Lý thuyết quản trị
có quan điểm trái ngược, nhà quản lý là người đáng tin cậy và được trao phó các
nguồn lực xứng đáng và tốt (Donaldson 1990; Donaldson & Davis, 1991;
Donaldson & Davis, 1994; Davis et al., 1997). Donaldson and Davis (1991, trang
51) cho rằng nhà quản lý có thể trở thành cổ đông của tổ chức, sẽ có nhu cầu đạt
được thành tích tốt. Biểu hiện thành công của công ty mang đến cho nhà quản lý
sự hài lòng với bản thân, bởi lẽ nó chính là thách thức của công việc. Hơn nữa,
họ sẽ đạt được sự công nhận của các đồng nghiệp và cổ đông.
Quan điểm quản trị xem các nhà quản lý như nhà quản trị của công ty. Là người

quản trị, các thành viên phải tối đa hóa tài sản cổ đông. Davis et al (1997) thừa
nhận một người quản trị lấy được lợi ích lớn từ việc đạt mục tiêu tổ chức hơn là
mưu cầu lợi ích cá nhân. Davis et al. (1997) lập luận rằng sự thành công của tổ
chức nếu đạt được, tổ chức cũng đáp ứng các nhu cầu cá nhân của người quản trị.
Vì thế, lý thuyết quản trị cho rằng các nhà quản lý nên được trao quyền tự chủ
dựa trên sự tin tưởng, làm tối thiểu chi phí giám sát và kiểm soát hành vi của các
nhà quản lý. Khi nào các nhà quản lý làm việc cho một công ty trong khoảng thời
gian đáng kể, sẽ có sự “sát nhập của cái tôi cá nhân vào công ty” (Donaldson &
Davis, 1991, trang 51).
Lý thuyết quản trị cho rằng các quyết định của người quản lý cũng bị ảnh hưởng
bởi động cơ phi tài chính, chẳng hạn như nhu cầu về thành tích và công nhận, sự


- 10-

hài lòng của bản thân khi thành công, cộng với sự tôn trọng quyền và nguyên tắc
làm việc. Những khái niệm đã được ghi nhận trong các tài liệu của các học giả
như Argyris (1964), Herzberg (1966), McClelland (1961), và Muth và Donaldson
(1998). Daily et al. (2003) lập luận rằng nhà quản lý quan tâm đến danh tiếng của
họ như các chuyên gia ra quyết định. Vì thế, các nhà quản lý điều hành công ty
tối đa hoá hiệu quả tài chính, bao gồm lợi nhuận cổ đông. Khi đó, giá trị công ty
trực tiếp ảnh hưởng đến nhận thức về hiệu suất làm việc của cá nhân nhà quản lý.
Shleifer và Vishny (1997) cho rằng các nhà quản lý mang lại lợi nhuận tài chính
tốt cho các nhà đầu tư, thiết lập một danh tiếng tốt. Điều đó cho phép họ tái gia
nhập thị trường tài chính đối với các nhu cầu tương lai của công ty.
2.1.3 Quan điểm phụ thuộc nguồn lực
Quan điểm phụ thuộc nguồn lực cung cấp một nền tảng về vai trò của Hội đồng
quản trị như một nguồn lực của công ty (Johnson et al, 1996; Hillman et al,
2000). Penrose (1959) nhấn mạnh các nguồn tài nguyên mà công ty kiểm soát là
rất quan trọng cho sự tăng trưởng của nó. Những nguồn lực này bao gồm tất cả

tài sản, nguồn lực, quy trình tổ chức, thông tin và kiến thức mà công ty có để
nâng cao hiệu quả và hiệu suất (Barney, 1991; Daft, 2006). Từ quan điểm này, cơ
cấu quản trị công ty và thành phần Hội đồng quản trị được xem như một nguồn
lực làm gia tăng giá trị cho công ty.
Lập luận quan trọng của quan điểm phụ thuộc nguồn lực là tổ chức cố gắng kiểm
soát môi trường thông qua lựa chọn nguồn lực cần thiết (Pfeffer & Salancik,
1978). Theo đó, Hội đồng quản trị xem xét liên kết giữa công ty và các nguồn lực
mà một công ty cần từ môi trường bên ngoài cho giá trị doanh nghiệp cao. Các
thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị là cầu nối giúp công ty tiếp cận các
nguồn lực quan trọng bên ngoài (Johnson et al., 1996, trang 410). Các thành viên
này mang lại nguồn lực cho công ty, như thông tin, kỹ năng, tiếp cận các thành
phần chủ chốt (ví dụ, nhà cung cấp, người mua, các nhà hoạch định chính sách
công, các nhóm xã hội) (Hillman et al., 2000, trang 238).


- 11-

Vai trò phụ thuộc nguồn lực của Hội đồng quản trị cũng giúp công ty tiếp cận các
nguồn tài chính (Thompson & McEwen, 1958; Pfeffer, 1972; Mizruchi &
Stearns, 1988). Thompson và McEwen (1958) lập luận rằng một công ty có nợ
ngân hàng cao thì có thể bổ nhiệm một cán bộ của ngân hàng làm thành viên Hội
đồng quản trị để đảm bảo dễ dàng tiếp cận quỹ của ngân hàng. Tương tự như
vậy, Mizruchi và Stearns (1988) thấy rằng các công ty gặp vấn đề khả năng thanh
toán có khả năng cử đại diện của các tổ chức tài chính cho hội đồng của họ.
Stearns và Mizruchi (1993) cũng tìm thấy mối liên giữa các doanh nghiệp vay
chiến lược và loại đại diện tài chính trong Hội đồng quản trị. Mối quan hệ này
cung cấp cả hai bên với một cơ hội để lựa chọn cùng nhau phát triển liên tục.
2.1.4 Quan điểm các bên liên quan
Quan điểm chi phí đại diện mong đợi Hội đồng quản trị bảo vệ quyền lợi của cổ
đông. Quan điểm các bên liên quan là một phần mở rộng của quan điểm chi phí

đại diện. Trong quan điểm này mong đợi Hội đồng quản trị gắn kết lợi ích của
nhiều nhóm liên quan khác nhau, bao gồm các nhóm lợi ích liên quan đến cân
nhắc về xã hội, môi trường và đạo đức (Freeman, 1984; Donaldson & Preston,
năm 1995; Freeman et al., 2004). Quan điểm các bên liên quan cho rằng, “các
công ty và xã hội phụ thuộc lẫn nhau và các công ty phục vụ một mục đích xã hội
rộng lớn hơn hơn trách nhiệm của mình cho các cổ đông” (Kiel & Nicholson,
2003a, trang 31).
Các học giả tranh luận rất nhiều về việc xác định các bên liên quan của một công
ty nên hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp. Định nghĩa của Freeman (1984, trang
46) đề xuất một quan điểm rộng, “các bên liên quan là bất kỳ cá nhân hay nhóm
người có thể ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng trong việc theo đuổi mục tiêu của tổ
chức”. Ngược lại, Clarkson (1994) cung cấp một cái nhìn hẹp, cho thấy “Các bên
liên quan tự nguyện chịu một số hình thức rủi ro như là một kết quả của việc đầu
tư một số hình thức vốn, nhân lực, tài chính, hoặc một cái gì đó có giá trị, trong
một công ty”. Wheeler và Sillanpaa (1997) xác định các bên liên quan khác nhau


- 12-

như các nhà đầu tư, quản lý, nhân viên, khách hàng, đối tác kinh doanh, cộng
đồng địa phương, tổ chức xã hội, môi trường tự nhiên, thế hệ tương lai, và các
loài không phải con người.
Mitchell, Agle và Wood (1997) lập luận rằng các bên liên quan có thể được xác
định bởi sở hữu của một, hai hoặc cả ba của các thuộc tính của: (1) quyền lực có
ảnh hưởng đến công ty, (2) tính hợp pháp của mối quan hệ với các công ty, và (3)
tính cấp bách yêu cầu của họ đối với công ty. Phân loại này cho phép các nhà
quản lý phải chú ý và đáp ứng từng loại liên quan khác nhau.
Dù được xác định thế nào, các bên liên quan đều chịu ảnh hưởng từ quyết định
của doanh nghiệp. Freeman et al. (2004) cho rằng việc gia tăng giá trị cho các
bên liên quan được kết nối mật thiết với việc tăng giá trị cho cổ đông. Nhà quản

lý nên cố gắng tạo ra càng nhiều giá trị cho các bên liên quan càng tốt. Bằng cách
giải quyết mâu thuẫn hiện có trong đó để các bên liên quan không thoát khỏi thỏa
thuận.
Sundaram và Inkpen (2004) lập luận rằng tối đa hóa giá trị cổ đông là mục tiêu
duy nhất dẫn đến quyết định tăng cường giá trị cho tất cả các bên liên quan. Các
nhà quản lý phải phát triển các mối quan hệ, truyền cảm hứng cho họ các bên liên
quan, và tạo ra các cộng đồng nơi mà tất cả mọi người phấn đấu để cung cấp cho
tốt nhất của họ để cung cấp giá trị công ty hứa hẹn.
Mỗi quan điểm đã nêu thể hiện một quan điểm đánh giá giá trị của quyết định
Hội đồng quản trị. Các quan điểm này được thống kê trong bảng 2.1. Lý thuyết
chi phí đại diện tập trung vào những xung đột lợi ích giữa cổ đông và các quản
lý. Trong khi quan điểm của lý thuyết quản trị, các nhà quản trị là nhà quản lý và
đề xuất liên kết về lợi ích giữa người quản lý và mục tiêu của tổ chức. Mặt khác,
quan điểm các bên liên quan tìm hiểu về tình trạng khó xử liên quan đến nhóm
lợi ích của các bên liên quan. Quan điểm phụ thuộc nguồn lực nhấn mạnh tầm
quan trọng của Hội đồng quản trị như một nguồn tài nguyên và vạch ra một vai
trò khác ngoài trách nhiệm kiểm soát truyền thống.


- 13-

Quan điểm
Chi phí đại diện

Vai trò của HĐQT
Quyền quản trị

Gợi ý của HĐQT
Hội đồng độc lập là một cơ
chế cho các cổ đông để giữ

quyền sở hữu quyền kiểm soát
và theo dõi giá trị doanh
nghiệp.

Quản trị

Trao quyền quản trị

HĐQT được trao quyền quản
lý và có trách nhiệm quản lý
tài sản công ty

Phụ thuộc nguồn lực

Hợp tác

HĐQT liên kết mạnh mẽ bên
ngoài là một cơ chế “Hợp tác”
với các công ty truy cập các
nguồn lực bên ngoài.

Các bên liên quan

Phát huy lợi ích của tất Tối đa hoá lợi nhuận cổ đông,
cả các bên liên quan

không phải duy nhất; lợi ích
của tất cả các bên liên quan
nên được bình đẳng và tôn
trọng


Bảng 2.1: Tóm tắt bốn nhóm quan điểm.

Trong số các quan điểm khác nhau thảo luận, quan điểm lý thuyết chi phí đại
diện là nhất phổ biến và đã nhận được sự chú ý tối đa từ các viện nghiên cứu
(Jensen và Meckling, 1976; Fama và Jensen, 1983). Nó cung cấp tiêu chuẩn quản
trị cơ sở và nguyên tắc phát triển của nhiều tổ chức (Calpers, 1999; OECD, Năm
1999, 2004; ICGN, 1999, 2005). Hội đồng quản trị được thành lập từ sự chỉ định
của các cổ đông, nhằm theo dõi và kiểm soát việc ra quyết định quản lý để bảo vệ
quyền lợi của cổ đông. Đặc biệt, vai trò giám sát này sẽ được thực hiện hiệu quả
thông qua thành viên độc lập không điều hành và các vị trí Chủ tịch Hội đồng


- 14-

quản trị và Giám đốc điều hành được nắm giữ bởi những người khác nhau
(Cadbury năm 1992; OECD, năm 1999; ICGN, năm 1999, kết hợp Mã, 2006).

2.2 Quy mô Hội đồng quản trị ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp
Số lượng thành viên Hội đồng quản trị được coi là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến giá trị công ty, nhưng không có một quy mô tối ưu cho một Hội đồng
quản trị. Jensen (1983) cho rằng một Hội đồng quản trị nên có tối đa là bảy hay
tám thành viên hoạt động hiệu quả. Các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá sự ảnh
hưởng của quy mô Hội đồng quản trị lên giá trị doanh nghiệp theo ba hướng
chính:
2.2.1 Ảnh hưởng tích cực đến giá trị doanh nghiệp:
Báo cáo của Kiel và Nicholson (2003) cho thấy sự ảnh hưởng tích cực của quy
mô Hội đồng quản trị ở các công ty tại Úc. Nghiên cứu Beiner et al (2006) ở các
công ty Thụy Sĩ cũng tìm thấy mối quan hệ tích cực. Coles et al. (2008) tìm thấy
các công ty đa ngành có xu hướng mở rộng quy mô Hội đồng quản trị và có thể

làm tăng giá trị doanh nghiệp.
Lý thuyết chi phí đại diện và quan điểm phụ thuộc nguồn lực ủng hộ kết quả thực
nghiệm về mối quan hệ tích cực giữa quy mô Hội đồng quản trị và giá trị doanh
nghiệp. Từ góc độ lý thuyết chi phí đại diện, quy mô Hội đồng quản trị lớn cho
thấy hiệu quả giám sát tốt hơn. Sự giám sát tốt hơn sẽ giảm sự độc quyền của
giám đốc điều hành cũng như chi chí đại diện giảm đi. Do đó, dẫn đến hiệu quả
hoạt động nhiều hơn và giá trị doanh nghiệp tăng (Singh & Harianto, 1989).
Quan điểm phụ thuộc nguồn lực cho thấy rằng các tổ chức có thể làm tăng quy
mô Hội đồng quản trị để tối đa hóa nguồn lực cho tổ chức (Hillman & Dalziel,
2003).
2.2.2 Ảnh hưởng tiêu cực đến giá trị doanh nghiệp:
Bắt nguồn từ quan điểm chi phí đại diện, Lipton và Lorsch (1992) qua nghiên
cứu thực nghiệm lại gợi ý rằng quy mô Hội đồng quản trị tăng, làm giảm hiệu
quả của Hội đồng quản trị. Phù hợp với khái niệm này, Yermack (1996) và


- 15-

Eisenberg, Sundgren và Wells (1998) cung cấp bằng chứng cho thấy Hội đồng
quản trị nhỏ hơn được liên kết với giá trị công ty cao hơn.
Khi một Hội đồng quản trị trở nên quá lớn, vấn đề đại diện lại tăng. Thành viên
Hội đồng quản trị sẽ giám sát ít hiệu quả đối với nhà quản lý. Kết quả thực
nghiệm ủng hộ rõ ràng mối quan hệ giữa quy mô của Hội đồng quản trị và giá trị
công ty là tương quan nghịch biến (Eisenberg và cộng sự, 1998; Yermack,
1996).
Một số nghiên cứu khác cũng xác nhận mối quan hệ tiêu cực giữa quy mô Hội
đồng quản trị và giá trị công ty. Conyon và Peck (1998) nghiên cứu các công ty ở
Anh, Pháp, Hà Lan, Đan Mạch và Ý; Mak và Yuanto (2001) tại Malaysia và
Singapore; Loderer và Peyer (2002) ở Thụy Sĩ. Mối quan hệ này khá phổ biến.
2.2.3 Ảnh hưởng không đáng kể lên giá trị doanh nghiệp:

Jong et al. (2000) và Black et al. (2004) tìm ra mối quan hệ không đáng kể giữa
quy mô Hội đồng quản trị và giá trị công ty ở Hà Lan và Hàn Quốc.
Mak and Li (2001) xem xét trong 147 công ty Singapo sử dụng dữ liệu năm
1995, mối quan hệ tiêu cực không đáng kể giữa quy mô Hội đồng quản trị và
giá trị công ty giữa quy mô Hội đồng quản trị và giá trị công ty – đo lường bằng
Tobin Q. Mak and Kusnadi (2005) tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ này với dữ
liệu năm 1999/2000 và mẫu lớn hơn (230 công ty Singapo và 230 công ty
Malaixia). Tuy nhiên, họ vẫn tìm thấy một kết quả: mối quan hệ tiêu cực không
đáng kể giữa quy mô Hội đồng quản trị và giá trị công ty.
Lý thuyết quản trị làm cơ sở lý giải cho kết quả thực nghiệm này. Bởi lẽ, nhà
quản trị cũng là nhà quản lý, thành công của tổ chức là thành công của cá nhân
nhà quản lý. Theo lý thuyết này, nhà quản lý tự mình nỗ lực cho việc gia tăng giá
trị doanh nghiệp mà không cần sự đốc thúc của Hội đồng quản trị. Do đó, Hội
đồng quản trị kiểm soát chặt hay lỏng lẽo, thành viên có nhiều hay không cũng
đều không ảnh hưởng đáng kể lên giá trị doanh nghiệp.


- 16-

Bảng 2.2 tổng hợp các kết quả một số nghiên cứu thực nghiệm trước đây. Phần
lớn các tài liệu tìm hiểu về sự ảnh hưởng của quy mô Hội đồng quản trị đến giá
trị công ty. Chủ yếu dự đoán cho rằng quy mô Hội đồng quản trị có liên quan tiêu
cực với giá trị công ty.
Tác giả

Adams and Mehran
Beiner et al.
Beiner et al.
Bhagat and Black
Bozec

Coles, Daniel and Naveen
De Andres, Azofra and
Lopez
Eisenberg, Sundgren and
Wells
Wintoki, Linck, Netter
Yermack

Năm

2005
2004
2006
2002
2005
2008

Đất nước

số quan
sát

Giá trị doanh nghiệp
Tobin
Khả năng sinh lợi
Q

472
165
109

934
459
8165

+
__
+*

2005

USA
Switzerland
Switzerland
USA
Canada
USA
10 nước
OECD

450

__*

+

1998
2012
1996

Finland

USA
USA

879
2858
452

---*

__*
__
---

__
__
__*

__*

Chú thích: (*) các kết quả đạt mức ý nghĩa từ 10% trở lên.
Nguồn: Tác giả tự thu thập

Bảng 2.2: Các nghiên cứu trước đây. Mối quan hệ giữa quy mô Hội đồng quản trị
và giá trị công ty

Naveen Kumar, J.P. Singh (2013) cũng cho rằng việc tăng số lượng các thành
viên Hội đồng quản trị trên một giới hạn lý tưởng có thể có tác động xấu thêm về
giá trị công ty.
Tuy nhiên, có một số tác giả cho rằng quy mô Hội đồng quản trị luôn tác động
tiêu cực lên giá trị doanh nghiệp tại các công ty công chúng lớn xuyên quốc gia,

trừ một số trường hợp như đã nêu ở trên. (Bennedsen, Kongsted và Nielsen,
2007).

2.3 Thành viên Hội đồng quản trị nội bộ và độc lập
Từ quan điểm lý thuyết quản trị, giá trị doanh nghiệp cao có liên quan đến các
thành viên Hội đồng quản trị bên trong (nội bộ). Các thành viên này hiểu rõ hơn
về công việc kinh doanh, và quản lý tốt hơn so với thành viên bên ngoài (độc
lập), và do đó các quyết định tốt có thể đưa ra hơn (Donaldson, 1990; Donaldson
& Davis, 1991). Để kiểm soát hiệu quả tổ chức trao quyền quản lý chuyên môn


- 17-

cho họ để tối đa hóa biểu hiện của công ty và doanh nghiệp lợi nhuận. Do đó,
thành viên nội bộ chiếm ưu thế và được ưa chuộng do chiều sâu kiến thức của họ,
tiếp cận thông tin hoạt động hiện nay, chuyên môn kỹ thuật và cam kết với công
ty.
Một số nghiên cứu ủng hộ quan điểm rằng các thành viên nội bộ sở hữu lượng
thông tin nhiều và có chất lượng, có thể đưa ra quyết định tốt hơn (Baysinger &
Hoskisson năm 1990; Baysinger, Kosnick & Turk, năm 1991 và Boyd, 1994).
Bhagat và Black (1999) cũng đã phát hiện ra rằng các công ty có Hội đồng bao
gồm một số lượng lớn thành viên độc lập (đại diện cho quan điểm lý thuyết chi
phí đại diện), biểu hiện tồi tệ hơn so với các công ty có thành viên nội bộ với số
lượng ít thành viên độc lập.
Fama và Jensen (1983, trang 14) khẳng định Hội đồng quản trị bao gồm các
thành viên là các chuyên gia quyết định. Các thành viên nội bộ có quyền nắm bắt
thông tin cụ thể có giá trị về các hoạt động của tổ chức. Hệ thống kiểm soát quyết
định nội bộ hoạt động tốt, các thành viên bên ngoài bị điều hành bởi các thành
viên nội bộ. Quản lý nội bộ có thể sử dụng kiến thức về tổ chức đề cử các thành
viên Hội đồng quản trị bên ngoài những kiến thức bổ sung có liên quan: ví dụ, có

chuyên môn về thị trường vốn, pháp luật của công ty, hoặc công nghệ có liên
quan đã cung cấp một hỗ trợ quan trọng chức năng để các nhà quản lý hàng đầu
trong việc giải quyết vấn đề quyết định chuyên ngành.
Hội đồng quản trị có khả năng sử dụng thông tin từ các hệ thống giám sát nội bộ.
Hội đồng quản trị cũng tìm kiếm thông tin từ các nhà quản lý cấp dưới về các
sáng kiến quyết định và hiệu suất của các nhà quản lý hàng đầu. Thông tin này
được sử dụng để thiết lập những phần thưởng của các nhà quản lý hàng đầu, xếp
hạng họ, và để lựa chọn trong số các sáng kiến quyết định của họ.
Các học giả cũng đã sử dụng quan điểm phụ thuộc nguồn lực để giải thích các
thành phần của Hội đồng quản trị, đặc biệt trong thành viên độc lập. Hermalin và
Weishbach (1988) cũng tìm thấy rằng các thành viên nội bộ được thay thế bởi


- 18-

thành viên độc lập giàu kinh nghiệm, khi giá trị công ty thấp. Hơn nữa, Pearce và
Zahra (1992) thấy rằng thành viên độc lập được bổ nhiệm vào Hội đồng quản trị,
mang lại hy vọng cho các công ty đang có biểu hiện không tốt. Muth và
Donaldson (1998) lập luận cho tầm quan trọng của sự liên kết, để nâng cao hiệu
suất công ty. Như vậy, lý thuyết phụ thuộc nguồn lực xem Hội đồng quản trị như
một nguồn tài nguyên mà không chỉ có thể thay thế nhu cầu về các nguồn lực
khác, mà còn ảnh hưởng đến môi trường làm việc. Cho nên, Hội đồng quản trị hỗ
trợ cải thiện giá trị công ty.
Fama và Jensen (1983) cũng cho rằng thành viên độc lập có động lực để phát
triển danh tiếng - các chuyên gia kiểm soát quyết định. Hầu hết các giám đốc bên
ngoài của các tập đoàn lớn là nhà quản lý của các công ty khác hoặc đại diện
quyết định quan trọng trong các tổ chức phức tạp khác. Giá trị của nguồn nhân
lực của họ phụ thuộc chủ yếu vào các hoạt động của họ với tư cách là nhà quản
lý các tổ chức khác. Họ sử dụng chức vụ của mình để báo hiệu cho nội bộ công
ty và thị trường bên ngoài (1) họ là những chuyên gia ra quyết định, (2) họ hiểu

tầm quan trọng của lan tỏa và việc tách biệt sự kiểm soát quyết định, và (3) họ có
thể làm việc với hệ thống điều khiển quyết định. Chính vì thế, thành viên độc lập
cũng sẽ nỗ lực gia tăng giá trị doanh nghiệp.
Thông qua bằng chứng thực nghiệm của Guest (2009), thành viên độc lập luôn
tác động tiêu cực lên giá trị doanh nghiệp. Thành viên nội bộ ảnh hưởng không
đáng kể trên chỉ tiêu sinh lợi ROA, nhưng ảnh hưởng tiêu cực đáng kể lên Tobin
Q và lợi nhuận chứng khoán. Tobin Q và lợi nhuận chứng khoán chịu ảnh hưởng
như nhau giữa các thành viên nội bộ và thành viên độc lập.

2.4 Hiện tượng kiêm nhiệm
Các thành viên độc lập thường đóng vai trò giám sát các thành viên Hội đồng
quản trị nội bộ. Các thành viên không tham gia điều hành đảm bảo chức năng
giám sát của họ tốt hơn các thành viên giam gia điều hành. Bởi họ độc lập và
quan tâm nhiều hơn vào việc duy trì danh tiếng của họ trong thị trường lao động


×