Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát ở các nước Châu Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM

NGUYỄN HÀ THANH THỦY

MỐI QUAN HỆ GIỮA THÂM HỤT NGÂN
SÁCH VÀ LẠM PHÁT Ở CÁC NƯỚC
CHÂU Á

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM

NGUYỄN HÀ THANH THỦY

MỐI QUAN HỆ GIỮA THÂM HỤT NGÂN
SÁCH VÀ LẠM PHÁT Ở CÁC NƯỚC
CHÂU Á
Chuyên ngành: Tài chính ngân hàng
Mã số:60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN HÀ THANH THỦY


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
Danh mục các hình vẽ, biểu đồ
LỜI MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục tiêu nghiên cứu

2

3. Phương pháp nghiên cứu


2

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2

5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

3

6. Kết cấu của đề tài

3

Chương 1: Cơ sở lý thuyết về thâm hụt ngân sách và lạm phát
1.1

Thâm hụt ngân sách và lạm phát

5
5

1.1.1 Thâm hụt ngân sách

5

1.1.2 Lạm phát

6


1.2 Mối quan hệ giữa Lạm phát với Thâm hụt ngân sách, Lãi suất và

7

Tỷ giá hối đoái
1.2.1 Lạm phát và Thâm hụt ngân sách

7

1.2.2 Lạm phát và Lãi suất

9

1.2.3 Lạm phát và Tỷ giá hối đoái

10

1.3 Thực trạng thâm hụt ngân sách và lạm phát ở Việt Nam

11


1.3.1 Tình hình thâm hụt ngân sách

11

1.3.2 Tình hình lạm phát

13


1.3.3 Mối quan hệ của lãi suất, tỷ giá hối đoái lên lạm phát ở Việt

14

Nam
Chương 2: Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm
2.1 Nghiên cứu về mối quan hệ thâm hụt ngân sách và lạm phát

17
17

2.1.1 Các nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ là có ý nghĩa thống kê

17

2.1.2 Các nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ là không có ý nghĩa

18

2.1.3 Các nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ là có sự pha trộn

19

2.1.4 Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam

20

2.2 Nghiên cứu về mối quan hệ lạm phát và lãi suất

21


2.2.1 Một số nghiên cứu ở các nước phát triển

21

2.2.2Một số nghiên cứu ở các nước đang phát triển

23

2.2.3Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam

23

2.3 Nghiên cứu về mối quan hệ lạm phát và tỷ giá hối đoái

24

2.3.1 Bằng chứng thực nghiệm trên thế giới

24

2.3.2 Bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam

25

Chương 3: Phương pháp luận và mô hình nghiên cứu

27

3.1 Phương pháp luận


27

3.2 Mô hình nghiên cứu

28

3.2.1 Kiểm định tính dừng của các chuỗi thời gian

28

3.2.2 Kiểm đính tính đồng liên kết bảng Westerlund

32

3.2.3 Mô hình hiệu chỉnh sai số (Error Correction Mechanism)

33

3.2.4 Kiểm đính tính nhân quả Granger

34

Chương 4: Dữ liệu nghiên cứu và kết quả thực nghiệm

36

4.1 Dữ liệu nghiên cứu

36


4.2 Kiểm định tính dừng dữ liệu bảng

42

4.3 Kiểm định tính đồng liên kết bảng Westerlund

47


4.4 Mô hình hiệu chỉnh sai số (Error Correction Mechanism - ECM)

48

4.4.1 Phương trình hồi quy giữa các biến trong dài hạn

48

4.4.2 Phương trình hồi quy của các biến trong ngắn hạn

52

4.5 Kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger giữa lạm phát và thâm

53

hụt ngân sách
4.6 Tổng hợp kết quả và hàm ý về mặt chính sách công

55


KẾT LUẬN

59

TÀI LIỆU THAM KHẢO

61


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

ADB

Ngân hàng phát triển Châu Á

ADF

Kiểm định Augmented Dickey-Fuller

BUD

Biến thâm hụt ngân sách

CPI

Chỉ số giá tiêu dùng

ECM


Mô hình hiệu chỉnh sai số (Error Correction Mechanism)

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

INF

Biến lạm phát

INTE

Biến lãi suất

LnEXC

Biến logarithm tự nhiên của tỷ giá hối đoái

OPEN

Biến độ mở thương mại

WB

Ngân hàng thế giới



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Thâm hụt ngân sách Việt Nam 2001 – 2011 (% GDP)

12

Bảng 1.2 Cơ cấu nguồn bù đắp bội chi NSNN 2003 – 2011 (tỷ đồng)

12

Bảng 4.1 Thống kê mô tả cho các biến trong mô hình

41

Bảng 4.2 Kiểm định fisher thuộc tính Phillips-Perron không xu thế,

43

độ trễ 2
Bảng 4.3 Kiểm định fisher thuộc tính Phillips-Perron có xu thế, độ trễ 2

44

Bảng 4.4 Kiểm định fisher thuộc tính Phillips-Perron không xu thế, độ

45

trễ 2 (biến sai phân).
Bảng 4.5 Kiểm định fisher thuộc tính Phillips-Perron có xu thế thế, độ


46

trễ 2 (biến sai phân).
Bảng 4.6 Kiểm định tính đồng liên kết bảng Westerlund

47

Bảng 4.7 Kết quả hồi qui mô hình cân bằng trong dài hạn (Panel ECM

48

model) với biến phụ thuộc là INF
Bảng 4.8 Thống kê mô tả phần dư Resid

50

Bảng 4.9 Kiểm định fisher thuộc tính Phillips-Perron không xu thế, độ

51

trễ 2 cho biến phần dư
Bảng 4.10 Kiểm định fisher thuộc tính Phillips-Perron có xu thế, độ trễ

51

2 cho biến phần dư
Bảng 4.11 Kết quả hồi qui mô hình tác động trong ngắn hạn (Panel

52


ECM model) với biến phụ thuộc là DINF
Bảng 4.12 Kết quả hồi qui cho kiểm định nhân quả Granger giữa BUD
và INF

54


DANH MỤC CÁC HĨNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1: Cơ chế truyền dẫn tỷ giá thông qua kênh trực tiếp

10

Hình 1.2: Tình hình lạm phát ở Việt Nam 1994 – 2012

13

Biểu đồ 4.1: Thâm hụt ngân sách của các nước ở Châu Á 1994-2012

37

Biểu đồ 4.2: Lạm phát của các nước ở Châu Á 1994 -2012

38

Biểu đồ 4.3: Lãi suất của các nước Châu Á 1994-2012

39

Biểu đồ 4.4: Tỷ giá hối đoái của các quốc gia ở Châu Á 1994-2012


40


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay trên thế giới, có nhiều quan điểm lý thuyết cho rằng thâm hụt ngân
sách là gây ra lạm phát, và đa phần các nhà kinh tế khẳng định rằng việc tiền tệ hóa
thâm hụt ngân sách là lý do cơ bản cho vấn đề lạm phát cao ở các nước đang phát
triển. Trên thực tế, để tránh việc tiền tệ hóa do thâm hụt ngân sách nhưng vẫn bù
đắp được lượng ngân sách thiếu hụt, đa số các chính phủ chỉ còn cách vay nợ nước
ngoài (không thể tăng thuế để bù đắp vì có thể gây tác động xấu lên nền kinh tế).
Tuy nhiên, việc đi vay nợ nước ngoài hiện nay gặp rất nhiều rủi ro do ảnh
hưởng từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu bắt nguồn tại Hy Lạp vào năm 2010.
Ngay sau đó, cuộc khủng hoảng này tiếp tục lan mạnh sang các quốc gia châu Âu
khác và trở thành một vấn đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của rất nhiều các nhà
nghiên cứu kinh tế, cũng như các nhà hoạch định chính sách trên thế giới. Chính vì
lẽ đó, việc vay nợ để bù đắp cho thâm hụt ngân sách cũng được các quốc gia cân
nhắc và xem xét kỹ lưỡng. Vì theo lý thuyết, việc gia tăng quá mức việc chi tiêu của
chính phủ có thể khiến lạm phát tăng cao và dẫn đến tác động xấu lên nền kinh tế.
Trước tình hình đó, nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã được thực hiện để kiểm tra
mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát. Tuy nhiên, các nghiên cứu lại
đưa ra các kết quả không đồng nhất và vẫn chưa cung cấp được bằng chứng mạnh
mẽ và có ý nghĩa thống kê về mối liên hệ giữa hai chỉ số kinh tế này.
Do đó, để có một cái nhìn cụ thể về mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và
lạm phát ở các quốc gia trong khu vực Châu Á, trong đó có Việt Nam, đề tài “Mối
quan hệ giữa Thâm hụt ngân sách và Lạm phát ở các nước Châu Á” đã được lựa
chọn và tiến hành nghiên cứu thực nghiệm. Thông qua kết quả tìm được, tác giả rút
ra kết luận và gợi ý một số chính sách quản lý kinh tế Việt Nam trong giai đoạn

hiện nay.


2

2. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài tập trung xem xét tác động của các biến thâm hụt ngân sách, lãi suất, tỷ giá
hối đoái, độ mở thương mại lên biến lạm phát trong mối quan hệ cân bằng ở dài
hạn. Thêm vào đó, kết quả thực nghiệm sẽ trả lời cho câu hỏi “Có hay không mối
quan hệ nhân quả giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát ở các nước Châu Ánói
chung và Việt Nam nói riêng ?”.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là dựa vào đặc tính của các biến dữ liệu khảo
sát tích hợp bậc 0 hay tích hợp bậc 1 (dừng ở mức ý nghĩa hay sai phân) để quyết
định mô hình phù hợp nhằm phân tích tác động của các biến thâm hụt ngân sách, lãi
suất và tỷ giá hối đoái lên lạm phát. Sau đó, đề tài xem xét tác động nhân quả hai
chiều giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát.
Việc nghiên cứu và xử lý số liệu được thực hiện bằng phần mềm Stata phiên bản
11. Như vậy, đề tài sẽ được thực hiện như sau:
Bước một, kiểm định tính dừng của các biến thâm hụt ngân sách , lạm phát, tỷ giá
hối đoái và lãi suất bằng cách sử dụng kiểm định trị riêng nghiệm đ

ơn vị bảng , và

tùy theo kết quả đạt được , sau đó chọn sử dụng các biến hoặc theo các mức ý nghĩa
hoặc theo sai phân bậc nhất.
Bước hai, thực hiện hồi qui tuyến tính dữ liệu bảng với các tác động cố định
(fixed effects) trong đó các biến độc lập là thâm hụt ngân sách, tỷ giá hối đoái, lãi
suất và biến phụ thuộc là biến lạm phát.
Bước ba, thực hiện hồi qui tuyến tính dữ liệu bảng giữa hai biến thâm hụt ngân

sách và lạm phát để xem xét mối quan hệ nhân quả Granger.
Dựa vào kiểm định F (hay kiểm định Wald) và ý nghĩa thống kê riêng phần của
các biến, đề tài sẽ kết luận về ý nghĩa của các phương trình hồi qui đã sử dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:


3

Tác động của thâm hụt ngân sách, tỷ giá hối đoái và lãi suất lên lạm phát.
Mối quan hệ nhân quả Granger hai chiều giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát.
Phạm vi nghiên cứu:
Tác động của các biến thâm hụt ngân sách , tỷ giá hối đoái , lãi suất lên lạm phát
thông qua bảng dữ liệu hàng năm của các quốc gia được chọn ở Châu Á.
Lựa chọn và xem xét các quốc gia Châu Á có các đặc điểm gần giống nhau trong
đó có Việt Nam để đưa vào mô hình nghiên cứu.
Tiếp cận dữ liệu bảng cho mô hình nghiên cứu.
5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Xác định rõ được tác động của thâm hụt ngân sách, tỷ giá hối đoái và lãi suất lên
lạm phát ở các nước Châu Á được chọn trong mô hình nghiên cứu. Mối quan hệ hai
chiều giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát trong kinh tế vĩ mô ở các nước này.
Kết quả thực nghiệm được sử dụng như các khuyến nghị cho chính phủ các nước,
đặc biệt là chính phủ Việt Nam trong việc thực thi các chính sách có liên quan đến
thâm hụt ngân sách sao cho việc gia tăng chi tiêu công phải được thận trọng vì nó
dẫn đến sự gia tăng thâm hụt ngân sách và có thể ảnh hưởng xấu đến lạm phát.
6. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày
theo bố cục 4 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về thâm hụt ngân sách và lạm phát. Chương này
trình bày các khái niệm, các mối quan hệ về mặt lý thuyết của thâm hụt ngân sách,

lãi suất, tỷ giá hối đoái lên lạm phát. Và trình bày sơ lược tình hình thực trạng ở
Việt Nam.
Chương 2: Tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm. Phần này sẽ tóm tắt kết quả
của các nghiên cứu thực nghiệm trước đây trên thế giới và ở Việt Nam về mối quan


4

hệ giữa thâm hụt ngân sách với lạm phát. Bên cạnh đó tóm tắt kết quả một số
nghiên cứu kiểm định về ảnh hưởng của lãi suất và tỷ giá hối đoái lên lạm phát.
Chương 3: Mô hình và Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Mô tả dữ liệu nghiên cứu và kết quả thực nghiệm trong đó chỉ rõ
cách thức lấy số liệu, xử lý số liệu, kết quả đạt được thông qua phân tích hồi qui và
bàn luận.


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THÂM HỤT NGÂN SÁCH VÀ LẠM PHÁT
1.1 Thâm hụt ngân sách và lạm phát
1.1.1 Thâm hụt ngân sách
Thâm hụt ngân sách (hay còn gọi là bội chi ngân sách) là tình trạng các khoản
chi của ngân sách Nhà nước (NSNN) lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính
là thâm hụt ngân sách. Để phản ánh mức dộ thâm hụt ngân sách người ta thường sử
dụng chỉ tiêu tỷ lệ thâm hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà
nước.
Ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách lên nền kinh tế
Như vậy thâm hụt ngân sách có tác động tích cực hay tiêu cực đến nền kinh tế.
Trường phái tân cổ điển cho rằng tăng thâm hụt hiện tại sẽ kéo theo sự gia tăng về

gánh nặng thuế trong tương lai. Theo đó, lập luận của trường phái này cho là người
tiêu dùng sẽ có xu hướng gia tăng tiêu dùng tại thời điểm hiện tại. Trong trường hợp
này, tiết kiệm quốc gia sẽ giảm xuống. Khi tiết kiệm quốc gia giảm, lãi suất trên thị
trường sẽ tăng và lãi suất tăng khiến đầu tư giảm, qua đó tạo ra hiện tượng thoái lui
đầu tư (crowding out). Vì thế, trường phái này cho rằng thâm hụt ngân sách tăng sẽ
ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Trong khi đó, trường phái Keynes lại cho rằng tăng thâm hụt ngân sách sẽ tác
động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Khi Chính phủ tăng chi ngân sách từ nguồn
thâm hụt thì tổng cầu của nền kinh tế sẽ tăng lên, làm cho các nhà đầu tư tư nhân trở
nên lạc quan hơn về triển vọng kinh tế và sẽ quan tâm hơn đến việc tăng đầu tư.
Trong trường hợp khác, nếu Chính phủ chấp nhận thâm hụt thông qua việc giảm
thuế thì thu nhập khả dụng của khu vực hộ gia đình cũng tăng lên. Theo đó, người
dân sẽ tăng chi tiêu. Tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ sẽ tăng lên. Tuy nhiên, các
nhà kinh tế theo trường phái này cũng cho rằng tác động của thâm hụt ngân sách


6

đến tăng trưởng kinh tế chỉ có ý nghĩa trong ngắn hạn. Hơn nữa, việc sử dụng thâm
hụt ngân sách để kích thích tăng trường chỉ có thể mang lại hiệu quả trong bối cảnh
tổng cầu sụt giảm (ví dụ như trường hợp xảy ra suy thoái).
Khác với hai trường phái nói trên, quan điểm của trường phái Ricardo cho rằng,
thâm hụt ngân sách không tác động đến các biến số kinh tế vĩ mô cả trong ngắn hạn
và dài hạn. Theo trường phái này, khi thâm hụt ngân sách tăng do giảm thuế thì thu
nhập khả dụng của người dân tăng lên, hơn nữa người dân ý thức được cắt giảm
thuế ở hiện tại sẽ dẫn đến tăng thuế trong tương lai, do vậy họ sẽ tiết kiệm nhiều
hơn. Trong khi đó, thâm hụt ngân sách làm cho tiết kiệm của khu vực nhà nước
giảm xuống. Theo đó, tiết kiệm quốc gia được hiểu là tổng của tiết kiệm tư nhân và
tiết kiệm của nhà nước không đổi. Do vậy, thâm hụt ngân sách sẽ không tác động
đến tiết kiệm, đầu tư, tăng trưởng và cả lạm phát như lập luận của các trường phái

nói trên (Saleh, 2003).
1.1.2 Lạm phát
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát nhưng các nhà kinh tế đều thống
nhất “Lạm phát là sự tăng lên liên tục của mức giá trung bình theo thời gian”.
Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế
Lạm phát có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tùy theo mức
độ của nó. Nhìn chung, lạm phát ở mức độ vừa phải có thể đem lại những điều lợi
bên cạnh những tác hại không đáng kể, còn lạm phát cao và siêu lạm phát gây ra
những tác hại nghiêm trọng đối với kinh tế và đời sống. Tác động của lạm phát còn
tùy thuộc vào lạm phát đó có dự đoán trước được hay không, nghĩa là công chúng
và các thể chế có dự đoán được mức độ lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát
là một điều bất ngờ. Nếu như lạm phát hoàn toàn có thể dự đoán trước được thì lạm
phát không gây nên gánh nặng kinh tế lớn bởi người ta có thể có những giải pháp để
thích nghi với nó. Lạm phát không dự đoán trước được sẽ tạo nên những biến động


7

bất thường về giá trị tiền tệ và làm sai lệch toàn bộ thước đo các quan hệ giá trị, ảnh
hưởng đến mọi hoạt động kinh tế xã hội. Cụ thể:
-

Tác động phân phối lại thu nhập và của cải: Khi lạm phát xảy ra, những

người có tài sản, những người đang vay nợ có lợi vì giá cả của các loại tài sản nói
chung đều tăng lên, giá trị của đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người
làm công ăn lương, những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại.
-

Tác động đến phát triển kinh tế: Trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt đến


mức toàn dụng, lạm phát vừa phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng
làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất
kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân.
-

Tác động đến việc làm: Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch

biến. Khi lạm phát tăng lên thì thất nghiệp giảm xuống, và ngược lại khi thất nghiệp
giảm xuống thì lạm phát tăng lên. Nhà kinh tế học A.W.Phillips đã đưa ra “Lý
thuyết đánh đổi giữa lạm phát và việc làm”, theo đó một nước có thể mua một mức
độ thất nghiệp thấp hơn nếu sẵn sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn.
-

Ngoài ra còn các tác động khác đến cơ cấu nền kinh tế, lĩnh vực lưu thông,

tín dụng, tỷ giá hối đoái...

1.2 Mối quan hệ giữa Lạm phát với Thâm hụt ngân sách, Lãi suất và Tỷ
giá hối đoái
1.2.1 Lạm phát và Thâm hụt ngân sách
Mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và lạm phát là thông qua kênh tiền tệ và
trong một số trường hợp có thể thông qua kênh cầu kéo. Ngoài ra, khi nhu cầu vốn
tăng lên do tổng cầu tăng lại được tài trợ bằng vay tín dụng ngân hàng có thể sẽ làm
cho lãi suất trong nền kinh tế tăng lên và do vậy rất có thể quay trở lại làm tăng giá
trong nền kinh tế trong khi chi phí tài chính có ảnh hưởng lớn tới các quyết định về
giá. Như vậy, trong trường hợp này, tăng thâm hụt ngân sách có thể dẫn đến tăng
giá.



8

Theo kênh tiền tệ, trường phái tân cổ điển (trường phái trọng tiền) cho rằng
trong dài hạn ngân hàng trung ương (NHTW) có thể kiểm soát được lạm phát nếu
kiểm soát được cung tiền. Nhà kinh tế học Milton Friedman (giải Nobel kinh tế
1976) cho rằng “Lạm phát ở đâu và khi nào cũng xuất phát từ những nguyên nhân
tiền tệ” (Solomon và Wet, 2004, trang 104). Thâm hụt ngân sách chỉ dẫn đến lạm
phát nếu như việc tài trợ cho thâm hụt được thực hiện thông qua việc phát hành tiền.
Như vậy, theo quan điểm này chính sách tài khóa tác động đến lạm phát khi
chính phủ buộc phải in tiền để tài trợ thâm hụt ngân sách và trang trải cho chi tiêu
của chính phủ.
Trong trường hợp bù đắp thâm hụt bằng vay nợ thì tác động của thâm hụt ngân
sách đến lạm phát như thế nào còn phụ thuộc vào quan điểm điều hành chính sách
tiền tệ của NHTW. Nếu NHTW điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu ổn định
lãi suất thì việc huy động trái phiếu để bù đắp thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến lạm
phát. Vì để đạt được mục tiêu ổn định lãi suất thì cung tiền phải tăng lên và kéo theo
đó là sự gia tăng của lạm phát. Bên cạnh đó nếu tỷ giá neo hoặc cố định thì tài trợ
thâm hụt ngân sách bằng trái phiếu sẽ dẫn đến lạm phát bởi vì điều này dẫn đến mở
rộng cung tiền do để ổn định tỷ giá trước sự gia tăng của dòng vốn từ bên ngoài do
lãi suất trong nước tăng, NHTW sẽ phải thực hiện mua vào ngoại tệ.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Miller (1983), thì thâm hụt ngân sách tất yếu sẽ
gây lạm phát bất kể thâm hụt ngân sách có đang được tiền tệ hóa hay không. Theo
Miller, thâm hụt dẫn đến lạm phát thông qua các kênh khác nhau. Còn theo lập luận
của Sargent và Wallace (1981) thì cho rằng, NHTW có thể bị buộc phải điều chỉnh
tiền tệ hóa các khoản thâm hụt ngân sách. Nhưng ngay cả khi NHTW không tiền tệ
hóa thâm hụt, sự gia tăng về thâm hụt ngân sách cũng kéo theo sự gia tăng áp lực
lạm phát thông qua kênh tác động “chèn lấn” đầu tư tư nhân. Đó là khi thâm hụt
ngân sách được bù đắp thông qua phát hành trái phiếu, lãi suất trên thị trường sẽ
tăng và khi lãi suất tăng sẽ làm thoái lui đầu tư của khu vực tư nhân, và vì thế tổng
cung của nền kinh tế giảm và kết quả là sự gia tăng mức giá trong nền kinh tế.



9

1.2.2 Lạm phát và Lãi suất
Hiệu ứng Fisher
Hiệu ứng Fisher do nhà kinh tế học người Mỹ Irving Fisher đưa ra vào thời kỳ
đại khủng hoảng 1930 – 1939. Đây là một nội dung quan trọng trong thuyết số
lượng tiền tệ của ông, nhằm mục đích lý giải hiện tượng khủng hoảng của nền kinh
tế.
Hiệu ứng Fisher mô tả mối quan hệ giữa tỉ lệ lạm phát và hai loại lãi suất là lãi
suất danh nghĩa và lãi suất thực tế theo phương trình sau:

i = r + πe
Trong đó:

i: Lãi suất danh nghĩa
r: Lãi suất thực
πe: Lạm phát kỳ vọng

Đẳng thức trên cho thấy lãi suất danh nghĩa có thể thay đổi do ba nguyên nhân:
(1) lãi suất thực thay đổi, (2) tỷ lệ lạm phát thay đổi, (3) cả hai cùng thay đổi.
Theo lý thuyết định lượng, nếu cung tiền tăng 1% thì lạm phát sẽ tăng 1%. Theo
đẳng thức Fisher, 1% tăng lên của lạm phát sẽ tạo ra 1% tăng lên của lãi suất danh
nghĩa. Mối tương quan 1:1 giữa tỷ lệ lạm phát với lãi suất danh nghĩa được gọi là
hiệu ứng Fisher.
Sự ảnh hưởng của lãi suất đến lạm phát
Lãi suất là một công cụ quan trọng bậc nhất của chính sách tiền tệ. Nó được áp
dụng nhất quán trong một lãnh thổ và được NHTW điều hành chặt chẽ và mềm dẻo
tùy theo từng thời kỳ cho phù hợp với nhu cầu huy động vốn và cung ứng vốn. Như

vậy, chúng ta có thể thấy rằng lãi suất tác động làm thay đổi cầu tiền tệ trong dân
cư, và làm thay đổi tỷ lệ lạm phát.
Về phương diện lý thuyết, lãi suất danh nghĩa và lạm phát có mối quan hệ cùng
chiều. Khi lạm phát tăng thì lãi suất danh nghĩa tăng để đảm bảo mức lãi suất thực
được chấp nhận bởi các chủ thể trong nền kinh tế. Thật vậy, khi có lạm phát NHTW


10

sẽ tăng lãi suất tiền gửi. Chính vì thế người dân và các công ty sẽ đầu tư vào Ngân
hàng (gửi tiền vào ngân hàng) có lợi hơn là đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Như
vậy cầu tiền giảm do do tổng đầu tư giảm, làm cho tổng cầu giảm dẫn tới giá giảm.
Vì thế dùng công cụ lãi suất có thể tăng hoặc giảm khối lượng tín dụng của
NHTM để đạt mục đích của chính sách tiền tệ - ổn định lạm phát.
1.2.3 Lạm phát và Tỷ giá hối đoái
Thuyết phản hồi của George Soros (Giả kim thuật Tài chính, The Alchemy of
Finance, tr. 27-45 và 69-80) cho rằng: Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát
không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau,
không thể coi cái này là nguyên nhân và cái kia là kết quả. Ông gọi mối quan hệ
vòng tự tăng cường lẫn nhau như vậy là một “vòng ác” luẩn quẩn (vicious circle)
khi đồng nội tệ mất giá và lạm phát gia tăng, và là “vòng thiện” (benign circle) khi
điều ngược lại xảy ra.
Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến lạm phát
Theo Nicoleta (2007), những thay đổi trong tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng đến
tỷ lệ lạm phát thông qua kênh trực tiếp và kênh gián tiếp. Kênh trực tiếp có thể được
nhìn thấy thông qua các cú sốc tỷ giá như một sự phá giá tiền tệ. Điều này làm cho
các hàng hóa tiêu dùng nhập khẩu và nguyên liệu thô trở nên đắt hơn. Sau đó dẫn
đến chi phí sản xuất cao hơn và kết quả là, giá tiêu dùng cao hơn.
Hình 1.1: Cơ chế truyền dẫn tỷ giá thông qua kênh trực tiếp
(1)

Hàng hóa nhập
khẩu (theo chỉ số
giá nước ngoài P*)

(2)
Hàng hóa nhập
khẩu (theo chỉ số
giá trong nước P)

(3)
Nguyên liệu trong
sản xuất (Chỉ số
giá sản xuất – PPI)

(4)
Hàng tiêu dùng
(chỉ số giá tiêu
dùng – CPI)

Nguồn: Nicoleta (2007)


11

Tác động của lạm phát tới tỷ giá hối đoái
Lạm phát ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái như sau: Khi một nước có lạm phát
tăng, sức mua đồng nội tệ giảm, với tỷ giá hối đoái không đổi, hàng hóa dịch vụ
trong nước sẽ trở nên đắt hơn trên thị trường nước ngoài trong khi hàng hóa dịch vụ
nước ngoài lại rẻ hơn trên thị trường trong nước. Theo quy luật cung cầu, cư dân
trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại nhiều hơn vì giá rẻ hơn, nhập khẩu

tăng, cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tương tự, vì tăng giá, cư dân nước
ngoài sẽ dùng ít hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất nhập khẩu giảm sút, cung
ngoại tệ trên thị trường giảm, tỷ giá hối đoái tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến
cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá ngoại tệ, tác động cộng gộp làm cho tỷ
giá hối đoái tăng nhanh hơn.
Trên thị trường tiền tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển
sang nắm giữ các tài sản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng đẩy tỷ hối đoái
tăng. Trong trường hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ
thuộc vào tỷ lệ lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát
cao hơn, đồng nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ giá hối đóai
tăng.

1.3 Thực trạng thâm hụt ngân sách và lạm phát ở Việt Nam
1.3.1 Tình hình thâm hụt ngân sách
Một trong những thành công đáng ghi nhận trong cải cách hành chính công ở
Việt Nam trong 10 năm qua đó là quy mô thu ngân sách nhà nước (NSNN) liên tục
duy trì được tốc độ tăng nhanh. Quy mô thu NSNN liên tục được mở rộng qua các
năm và đến nay Việt Nam đã trở thành quốc gia có mức động viên ngân sách khá
cao so với các nước đang phát triển có mức thu nhập tương đương.
Mặc dù có nguồn thu khá cao song việc quản lý nguồn lực ngân sách trong giai
đoạn qua đã bộc lộ một số vấn đề đáng phải lưu ý, trong đó có các vấn đề như hiệu
quả phân bố và sử dụng nguồn lực ngân sách, về tính bền vững trong việc huy động


12

ngân sách, về phương thức quản lý và điều hành. Một trong số đó, vấn đề được xem
như nổi cộm nhất hiện nay là tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài.
Bảng 1.1 : Thâm hụt ngân sách Việt Nam 2001 – 2011 (% GDP)


Nguồn: World Economic Outlook 2012 (IMF) và Key Economic Indicators (ADB).

Số liệu Quyết toán và Dự toán NSNN của Bộ Tài chính phân biệt hai khái niệm
bội chi NSNN. Đó là bội chi theo tiêu chuẩn quốc tế (không bao gồm chi trả nợ
gốc) và theo tiêu chuẩn Việt Nam (bao gồm cả chi trả nợ gốc). Nếu tính theo tiêu
chuẩn quốc tế thì mức thâm hụt hay bội chi của Việt Nam thấp hơn nhiều, và cũng
khá gần với thống kê của IMF và ADB (Bảng 1.1). Tuy nhiên, nếu theo như tiêu
chuẩn Việt Nam thì thâm hụt Việt Nam vào khoảng 5% GDP, duy chỉ có năm 2009
Việt Nam thâm hụt cao hơn hẳn là 6,9% GDP do ảnh hưởng của khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
Bảng 1.2: Cơ cấu nguồn bù đắp bội chi NSNN 2003 -2011 (tỷ đồng)

Nguồn: Quyết toán và Dự toán NSNN 2003 – 2011


13

Số liệu của Bộ Tài chính cũng chỉ rõ nguồn bù đắp bội chi NSNN của Việt
Nam, bao gồm các khoản vay trong nước và vay nước ngoài (Bảng 1.2). Theo đó,
thông thường Việt Namphụ thuộc nhiều vào các khoản vay trong nước, hơn là các
khoản vay nước ngoài. Ngoại trừ năm 2009, Việt Nam vay nợ nước ngoài khá nhiều
để bù đắp cho thâm hụt ngân sách.
1.3.2 Tình hình lạm phát

Nguồn: ABD (Key Economic Indicators 2013)

Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua hầu hết các loại lạm phát như: lạm phát phi
mã trong thời kỳ 1986-1988 với tỷ lệ lạm phát trung bình năm đạt 402.1%/năm; lạm
phát cao trong thời kỳ 1989-1992, với tỷ lệ lạm phát bình quân năm tương ứng là
46.7%/năm; lạm phát thấp trong thời kỳ 1996-1999 và 2001-2003 với tỷ lệ lạm phát

dao động trong khoảng 4%/năm đến 5%/năm; thậm chí là giảm phát trong năm
2000 (-1.6%).
Tuy nhiên, từ năm 2004 trở đi đã đánh dấu thời kỳ lạm phát cao trở lại. Trong
hai năm 2004-2005 khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khá cao 7.79% (năm 2004) và
8.5% (năm 2005), thì lạm phát của Việt Nam cũng tăng lên cao ở mức 7.75% (năm
2004) và 8.28% (năm 2005). Đây là giai đoạn cùng với giai đoạn bùng nổ của kinh
tế thế giới và việc tăng giá của nhiều loại hàng hóa. Năm 2006 lạm phát giảm nhẹ
so với các năm trước, và ở mức 7.11%.


14

Từ năm 2007 cho đến nay, lạm phát có chiều hướng mất ổn định hơn. Chỉ số
CPI có xu hướng tăng và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối năm, tăng đến
12.75% (tháng 12/2007). Theo nhận định cuả một số chuyên gia kinh tế Việt Nam,
giá cả thế giới tăng và thiên tai là yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ lạm phát năm 2007.
Bước sang Quý I/2008 lạm phát của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng cao và liên tục,
đỉnh điểm là tháng 8/2008, tỷ lệ lạm phát lên đến 28.24% và sau đó giảm nhẹ vào 4
tháng cuối năm. Đây là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình
lạm phát ở Việt Nam, với tỷ lệ lạm phát trung bình là 23.12%.
Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng
hóa cũng xuống mức thấp, lạm phát trong nước được khống chế xuống còn 5.92%,
sau đó tăng lên gần 10% năm 2010. Năm 2011, lạm phát tiếp tục tăng trở lại, đạt
đỉnh cao vào thời điểm từ tháng 7 đến tháng 10, sau đó giảm nhẹ và đạt ở mức trung
bình 18.58%.
1.3.3 Mối quan hệ của lãi suất, tỷ giá hối đoái lên lạm phát ở Việt Nam
Mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất
Ở Việt Nam đã áp dụng rất thành công chính sách lãi suất vào những năm cuối
thập kỷ 80 trong việc giảm tỷ lệ lạm phát từ 3 con số xuống còn một con số, do nền
kinh tế ở nước ta lúc đó là nền kinh tế tuy đã mở cửa nhưng chưa mở hẳn, do đó,

chỉ có tác động trong nước bằng đầu tư vào. Chính vì thế ngày nay không thể áp
dụng chính sách lãi suất với tỷ lệ lãi suất rất cao để giảm tỷ lệ lạm phát mà phải
quan tâm đến mối quan hệ giữa lãi suất trong nước và lãi suất thế giới.
Cụ thể mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất ở Việt Nam những năm gần đây
thể hiện như sau:
-

Năm 2001: lãi suất thực dương quá cao nên đã đưa đến lạm phát (lãi suất

thực dương lớn gấp 5,75 lần tỷ lệ lạm phát). Năm 2002 tình hình lãi suất thực
dương có giảm xuống, chỉ lớn bằng 0,5 lần tỷ lệ lạm phát nên lạm phát đã nhích lên
ở mức hợp lý (4,0%).


15

-

Điều chú ý là năm 2004, khi tình hình kinh tế có biến động không tốt, lạm

phát có dấu hiệu tăng lên nhưng lãi suất lại không tăng lên tương ứng, do đó, lãi
suất thực bị âm và tỷ lệ giữa lãi suất thực âm này so với tỷ lệ lạm phát là 34,7% thể
hiện giá của đồng tiền giảm xuống đáng kể. Đây chính là một trong những căn
nguyên để cho lạm phát tăng mạnh. Những người có tiền sẽ thiệt thòi khi gửi ngân
hàng do đồng tiền của họ mất giá, do đó, họ cố gắng giữ tiền trong lưu thông nên
vòng xoáy lạm phát lãi suất thực âm diễn ra.
-

Ngoài ra, trong năm 2007, lạm phát tăng cao cũng làm cho lãi suất thực


dương xuống thấp.
-

Đặc biệt, sau khi nền kinh tế thế giới bị rơi vào khủng hoảng vào tháng

9/2008, Việt Nam bắt đầu áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng trở lại để hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế. Hậu quả là lãi suất thực lại bị âm trở lại. Do mức lạm phát kỳ vọng
vẫn ở mức cao trong thời gian này nên ngay khi chính sách tiền tệ được nới lỏng,
lạm phát thực tế đã nhanh chóng tăng trở lại trong nửa cuối năm 2009. Để đối phó
với tình trạng này, chính sách tiền tệ lại một lần nữa được thắt chặt hơn. Tuy nhiên,
do sức ép thực hiện mục tiêu tăng trưởng 2010, chính sách tiền tệ lại được nới lỏng
cho tới đầu quý IV/2010. Lạm phát thực tế vì thế tiếp tục tăng cao khiến cho kỳ
vọng lạm phát trong cả năm 2011 sẽ tiếp tục rất cao trên 20%. Và thực tế mức lạm
phát năm 2011 đã lên đến 18.6%.
Mối quan hệ giữa lạm phát và tỷ giá hối đoái
Từ năm 1997 đến 1999, lạm phát có xu hướng giảm, tuy nhiên, từ đầu năm 1998
đến 1999, tỷ giá tăng mạnh do đồng VND bị giảm giá mạnh. Nhiều nhà nghiên cứu
nhận định rằng, sự ổn định tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong việc kiềm chế lạm
phát. Tuy nhiên, đối với Việt Nam trong giai đoạn 1997-1999, lạm phát được kiềm
chế do tác động của ổn định tỷ giá không nhiều mà chủ yếu là do kết quả của nhiều
giải pháp chính sách khác.
Trong giai đoạn từ 2000-2003, tỷ giá và lạm phát được duy trì tương đối ổn
định, điều này đã góp phần không nhỏ đến ổn định kinh tế và tăng trưởng kinh tế.


16

Sau một giai đoạn ổn định ở mức thấp, lạm phát tăng mạnh vào năm 2004.
Trước tình hình này, NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt khiến cho lãi suất
tăng lên, đồng thời duy trì sự ổn định của tỷ giá nhằm kiềm chế lạm phát từ năm

2004. Rất nhiều biện pháp đã được Chính phủ và NHNN kết hợp sử dụng, nhưng
lạm phát vẫn ở mức cao kể từ 2005 cho đến năm 2011.
Tóm lại, tỷ giá có tác động nhất định tới lạm phát ở Việt Nam, tùy thuộc vào
từng thời kỳ cho thấy sự tác động này có thể nhiều hay ít. Việc duy trì tỷ giá danh
nghĩa ổn định, ít biến động là một nỗ lực rất lớn của NHNN trong việc ổn định thị
trường tiền tệ và giá trị đồng VND, nhưng kết quả là lạm phát ở Việt Nam vẫn ở
mức cao và không ổn định. Vì vậy, trong thời gian tới việc điều hành chính sách tỷ
giá phải được NHNN tính toán kỹ các tác động giữa tỷ giá và lạm phát để góp phần
kiềm chế lạm phát nhằm đạt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô mà Chính phủ đã đề ra.


×