Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.87 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-------------------------------------------

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO
Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY: THỰC TRẠNG
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

Hà Nội - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
-------------------------------------------

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO
Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY: THỰC TRẠNG
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học
Mã số: 822900901

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thanh Xuân

Hà Nội - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên


cứu khoa học của riêng tôi; Các số liệu, tư liệu
được sử dụng trong luận văn là trung thực, có xuất
xứ rõ ràng; Những kết luận khoa học của Luận văn
chưa từng được công bố trong bất cứ công trình
nào
Tác giả


LỜI CẢM ƠN
Sau hơn 02 năm học tập và nghiên cứu, tiếp thu kiến thức được các thầy
cô truyền thụ; được sự quan tâm, tạo điều kiện của Lãnh đạo Ban Tôn giáo
Chính phủ và Lãnh đạo Viện Nghiên cứu chính sách tôn giáo (nơi tôi đang
công tác) cùng gia đình; đến nay, tôi đã hoàn thành bản luận văn Thạc sỹ
“Công tác vận động chức sắc Phật giáo ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay: Thực
trạng và một số vấn đề đặt ra”. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Lãnh
đạo Ban Tôn giáo Chính phủ, Lãnh đạo Viện Nghiên cứu chính sách tôn giáo
và các đồng nghiệp trong cơ quan đã động viên, tạo điều kiện giúp đỡ tôi
hoàn thành bản luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn, Khoa Sau đại học, Lãnh đạo Bộ môn Tôn giáo học, đặc biệt
là lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thanh Xuân đã tận tình giúp đỡ và
hưỡng dẫn tôi nghiên cứu Luận văn này.
Do khả năng và điều kiện thời gian còn hạn chế, vấn đề lựa chọn nghiên
cứu trong đề tài khá phức tạp, nhạy cảm nên Luận văn không tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự quan tâm, chỉ bảo và
góp ý của các thầy, cô giáo để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả Luận văn

Nghiêm Thị Vi Anh



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC................................................................................................................ 1
MỞ ĐẦU..................................................................................................................3
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY.....12
1.1. Lý luận chung về công tác vận động chức sắc Phật giáo ở tỉnh Bắc Ninh
hiện nay..................................................................................................................12
1.1.1. Một số khái niệm..........................................................................................12
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về công tác vận động chức sắc Phật giáo..............................18
1.2. Vấn đề thực tiễn của công tác vận động chức sắc ở địa bàn nghiên cứu....25
1.2.1. Địa kinh tế - chính trị tỉnh Bắc Ninh...........................................................25
1.2.2. Tình hình Phật giáo ở tỉnh Bắc Ninh..........................................................28
1.2.3. Đặc điểm, vai trò chức sắc Phật giáo ở tỉnh Bắc Ninh................................33
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1........................................................................................37
Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT
GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY VÀ NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN
CHẾ, BÀI HỌC KINH NGHIỆM........................................................................38
2.1. Thực trạng công tác vận động chức sắc Phật giáo ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay...38
2.1.1. Công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước đối với chức sắc Phật giáo......................................................38
2.1.2. Công tác nắm bắt và giải quyết những nhu cầu chính đáng của chức sắc
Phật giáo................................................................................................................. 40
2.1.3. Công tác vận động chức sắc tham gia các hoạt động xã hội và giải quyết
các vụ việc liên quan đến Phật giáo.......................................................................42
2.2. Những thành tựu và hạn chế trong công tác vận động chức sắc Phật giáo ở

tỉnh Bắc Ninh hiện nay..........................................................................................46

1


2.2.1. Những thành tựu và nguyên nhân...............................................................46
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân..................................................................50
2.3. Bài học kinh nghiệm.......................................................................................52
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2.......................................................................................56
Chương 3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC VẬN
ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY VÀ GIẢI
PHÁP, KHUYẾN NGHỊ.......................................................................................57
3.1. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng công tác vận động chức sắc ở tỉnh Bắc
Ninh hiện nay.........................................................................................................57
3.1.1. Vấn đề đặt ra từ phương diện khách thể quản lý .......................................57
3.1.2. Vấn đề đặt ra từ phương diện chủ thể quản lý............................................59
3.2. Giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động chức
sắc Phật giáo ở Bắc Ninh.......................................................................................61
3.2.1. Giải pháp.......................................................................................................61
3.2.2. Khuyến nghị..................................................................................................71
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3........................................................................................75
KẾT LUẬN............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................78
PHỤ LỤC............................................................................................................... 82

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam là một nước đa tôn giáo, theo ước tính hiện nay có khoảng
95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng trên 26 triệu
tín đồ (chiếm 27% dân số cả nước) của 43 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo
được công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Bên cạnh những tổ chức tôn giáo
đã được công nhận, cấp đăng ký hoạt động, còn khoảng hơn 100 nhóm, phái
và hiện tượng tôn giáo mới đang tồn tại theo cách này hay cách khác.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận hoạt động ổn định với
xu hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, tích cực tham gia các công tác từ thiện
xã hội, góp phần xây dựng, phát triển đất nước. Các tổ chức tôn giáo không
ngừng phát triển về số lượng chức sắc, nhà tu hành, tín đồ và mở rộng địa bàn
hoạt động. Tình hình đó là sự phản ánh về quá trình đất nước đổi mới, Việt
Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ về đời sống vật chất cũng như tinh thần của
người dân, vì thế tôn giáo càng được khẳng định rõ hơn là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân.
Bên cạnh những sinh hoạt tôn giáo lành mạnh, tuân thủ pháp luật, vẫn
còn có một số hiện tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc nhân dân,
gây bất ổn tình hình tôn giáo cao hơn là phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, tạo cớ cho các thế lực xấu chống phá Nhà nước. Trước tình hình đó, công
tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo cần phải tăng cường mà nội
dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, trong đó
có công tác vận động, tranh thủ chức sắc.
Bắc Ninh một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là cửa ngõ phía bắc thủ đô
Hà Nội. Bắc Ninh mặc dù có diện tích không lớn nhưng dân số trên 1,4 triệu
người với mật độ dân số cao thứ 4 trong số 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, có

3


vị trí địa chính trị quan trọng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của đồng
bằng sông Hồng, là tỉnh có nền văn hóa lâu đời và cũng là nơi có nhiều nét

đặc thù về tín ngưỡng, tôn giáo. Hiện nay, Bắc Ninh có 2 tôn giáo lớn là Công
giáo và Phật giáo, trong đó Công giáo có khoảng 15.000 giáo dân, 19 linh
mục; Phật giáo có hơn 300 chức sắc, nhà tu hành, tín đồ Phật giáo có hơn
300.000 tín đồ, bên cạnh đó là hơn 60% dân số ảnh hưởng của văn hóa Phật
giáo. Như vậy, cứ khoảng trên 300 tín đồ thì có 01 chức sắc Phật giáo phụ
trách phần tâm linh.
Chức sắc Phật giáo là lực lượng nòng cốt của giáo hội và quyết định
đường hướng hoạt động “ hành đạo - quản đạo - truyền đạo”. Trong hành đạo,
chức sắc Phật giáo là người giúp đỡ các tín đồ sinh hoạt tôn giáo tại các cơ sở
thờ tự và tại gia. Chức sắc không chỉ ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của
đông đảo quần chúng tín đồ, tiếng nói của chức sắc có trọng lượng lớn, có
lúc, có nơi giữ vai trò quan trọng (thậm chí là quyết định) đối với lập trường,
tư tưởng và thái độ của tín đồ. Trong hoạt động quản đạo, là người điều hành
nền hành chính đạo. Hơn nữa, họ là người đại diện cho tổ chức tôn giáo ở các
cấp, nên thường xuyên có mối quan hệ với cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể
chính trị - xã hội ở địa phương, đại diện cho tổ chức tôn giáo trong quan hệ
quốc tế và các tôn giáo bạn.
Với vai trò quan trọng như vậy nên chức sắc Phật giáo luôn có ảnh
hưởng trực tiếp, thậm chí quyết định đến tính chất tích cực hay tiêu cực của
các hoạt động tôn giáo của tín đồ. Vì vậy, công tác vận động chức sắc Phật
giáo có một ý nghĩa rất quan trọng trong công tác tôn giáo nói chung. Mặt
khác, công tác vận động chức sắc Phật giáo lại gắn liền và có mối quan hệ
hữu cơ với công tác vận động quần chúng tín đồ. Làm tốt công tác vận động
sẽ góp phần tích cực vào việc vận động tín đồ, củng cố khối đại đoàn kết toàn
dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra, làm tốt công tác vận động quần

4


chúng tín đồ sẽ góp phần tạo ra môi trường xã hội thuận lợi để tiến hành công

tác vận động chức sắc, nhà tu hành đạt hiệu quả.
Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Bắc Ninh
những năm qua đã có nhiều thành tựu, đạt được một số kết quả nhất định.
Nhưng bên cạnh đó, công tác này cũng còn một số hạn chế, như: nhận thức về
vai trò của chức sắc Phật giáo trong một bộ phận không nhỏ cán bộ hệ thống
chính trị chưa đầy đủ và thống nhất; công tác vận động chức sắc vẫn còn bị
xem nhẹ trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương;
cách thức tổ chức, vận động thiếu đồng bộ; cơ chế, chính sách đối với chức
sắc và công tác xây dựng nòng cốt trong chức sắc còn có chỗ, có nơi lúng
túng, cứng nhắc chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Công tác nắm tình hình tôn giáo ở địa phương, cơ sở thiếu kịp thời; một
số cấp ủy, chính quyền còn lúng túng trong việc giải quyết những nhu cầu
hoạt động chính đáng, hợp pháp của chức sắc, tín đồ và những vấn đề bức xúc
liên quan đến tôn giáo; chưa thực sự quan tâm tháo gỡ những khó khăn vướng
mắc thuộc về cơ chế, chính sách liên quan đến công tác tôn giáo như việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xây dựng sửa chữa, thành lập mới cơ sở
tôn giáo,...
Trước thực trạng đó, tác giả chọn đề tài “Công tác vận động chức sắc
Phật giáo ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay: Thực trạng và một số vấn đề đặt ra”
làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Năm 1990, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 24-NQ/TW “Về tăng
cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, là dấu mốc đặc biệt quan trọng
trong đổi mới tư duy về tôn giáo và công tác tôn giáo, tình hình tôn giáo ở nước
ta có nhiều thay đổi lớn, do vậy việc nghiên cứu tôn giáo ngày càng được quan

5


tâm ở nhiều góc độ khác nhau. Liên quan đến đề tài nghiên cứu có thể điểm

qua một số công trình tiêu biểu:
Thứ nhất nghiên cứu lý luận về tôn giáo, công tác tôn giáo:
Đỗ Lan Hiền (2011), Khoan dung tôn giáo với dân chủ, đoàn kết và
đồng thuận xã hội - Trường hợp Việt Nam [19], Quan niệm về khoan dung tôn
giáo, tác giả cho rằng khoan dung không phải là nhượng bộ, sự hạ mình, cái
đối lập với mình. Tác giả cho rằng Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng
của Nho, Phật, Đạo nên tinh thần khoan dung cho thấy, người dân Việt nam
đã thể hiện khá rõ nét trong ứng xử với tôn giáo tạo sự đồng thuận xã hội,
đoàn kết tôn giáo để cùng phát triển.
Đỗ Quang Hưng (2004), “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam,
lý luận và thực tiễn” [18] tác giả đã khai thác mối quan hệ giữa tôn giáo và
dân tộc qua các thời kỳ cách mạng ở nước ta. Đặc biệt hơn, tác giả đã đưa ra
những quan điểm của các nhà cách mạng, nhà nghiên cứu trong thời kỳ đất
nước chiến tranh, nhìn nhận về mối quan hệ giữa tôn giáo và nhà nước, từ đó
có sự so sánh, đánh giá bước phát triển trong nhận thức về tôn giáo.
Đỗ Quang Hưng (2014), Nhà nước, tôn giáo và pháp luật [17] tác giả
đã luận giải về mối quan hệ giữa Nhà nước và giáo hội trên các chiều cạnh:
Mối quan hệ giữa tôn giáo và thể chế xã hội, đưa ra các mô hình nhà nước thế
tục, điểm mấu chốt giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và giáo hội; luận
bàn về chính sách tôn giáo ở Việt Nam, mô hình nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa về tôn giáo. Tác giả cũng bàn nhiều đến đời sống tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay và mối quan hệ giữa tôn giáo và nhà nước, trong đó vấn đề thể
nhân và pháp nhân tôn giáo là vấn đề rất cần được tính đến trong luật pháp
cần được tính đến trong luật pháp tôn giáo ở Việt Nam và là vấn đề pháp lý
quan trọng bậc nhất hiện nay.

6


Nguyễn Thanh Xuân (2015), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt

Nam [31] tác giả đã hệ thống chính sách tôn giáo Việt Nam qua các thời kỳ và
việc thực hiện chính sách tôn giáo, nhất là từ khi đổi mới đến nay. Tác giả
khẳng định, việc thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, công
tác đối với tôn giáo đã đưa lại những kết quả rất quan trọng, làm thay đổi đời
sống tôn giáo ở Việt Nam theo hướng tích cực và tiến bộ góp phần quan trọng
vào sự ổn định và phát triển của đất nước.
Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam [30] đây là
cuốn sách giới thiệu lịch sử ra đời, phát triển, giáo lý, giáo luật, cách hành
đạo, chức sắc và cơ cấu tổ chức của một số tôn giáo ở Việt Nam, trong đó có
Phật giáo; về một số tổ chức quốc tế tôn giáo trên thế giới. Đây là ấn phẩm
đầu tiên ở Việt Nam viết cơ bản về các tôn giáo, trong đó có Phật giáo tạo
kiến thức nền hệ thống trực tiếp làm công tác tôn giáo và các ban ngành có
liên quan.
Nguyễn Hồng Dương (2015), Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về tôn giáo[32] tác giả đã phản ánh quan điểm của Đảng, pháp
luật của nhà nước Việt Nam về tôn giáo theo vấn đề nghiên cứu như: Quan
điểm về bản chất tôn giáo, về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, về đoàn kết tôn giáo
trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc; về chống lợi dụng tôn giáo và
quan điểm về công tác vận động quần chúng. Tác giả cũng đã phân tích sự
biến động của từng tôn giáo như Công giáo, Tin lành, Phật giáo sau giải
phóng và trong giai đoạn đổi mới để thấy được xu hướng vận động thích nghi
của các tôn giáo trong từng giai đoạn cách mạng. Đồng thời cũng là cơ sở để
Đảng và Nhà nước có sự đổi mới trong nhận thức để hoạch định những chủ
trương, chính sách phù hợp.
Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm
nhìn lại (2016) [14] với sự tham gia của nhiều tác giả. Các tác giả nhận định

7



cần nhìn nhận vai trò của tôn giáo trong thời đại ngày nay dưới tác động của
toàn cầu hóa, các tôn giáo sẽ khai thác cơ hội này, nhất là những thành tựu
của cách mạng khoa học kỹ thuật để đẩy mạnh các hoạt động truyền giáo và
phát triển tín đồ; đồng thời xu thế này cũng làm cho các tôn giáo khó có thể
giữ được tín đồ theo lối truyền thống, mà sự đổi đạo, cải đạo tiếp tục diễn ra
giữa các tín đồ các tôn giáo. Các tôn giáo thúc đẩy các mối quan hệ hợp tác,
giao lưu quốc tế cũng như tham dự vào nhiều lĩnh vực của đời sống xã
hội.Trước bối cảnh đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần có những ứng xử phù
hợp về tôn giáo và công tác tôn giáo để vừa quản lý được tôn giáo vừa phát
huy được nguồn lực của tôn giáo trong phát triển xã hội.
Thứ hai các bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến Đề tài:
Công tác vận động tín đồ tôn giáo ở tỉnh Yên Bái (2015) trên tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo của tác giả Đoàn Thị Thu Hà [20]. Bài viết góp phần chỉ
ra những kết quả đã đạt được và một số điểm cần lưu ý khi thực hiện công tác
vận động quần chúng có tôn giáo trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
Đề tài: “Thực trạng đội ngũ chức sắc một số tôn giáo lớn ở nước ta và
những vấn đề đặt ra hiện nay”, do Ngô Hữu Thảo (chủ nhiệm), nội dung nghiên
cứu tập trung phân tích thực trạng của chức sắc Phật giáo và Công giáo, trên cơ
sở đó gợi mở những nội dung để các cấp ủy Đảng, chính quyền từ trung ương
đến địa phương cần quan tâm; đồng thời đề tài cũng kiến nghị Đảng, Nhà nước
những nội dung cụ thể nhằm phát huy vai trò của chức sắc tôn giáo trong giai
đoạn hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong phạm vi cả nước.
Ban Dân vận Trung ương Tập bài giảng về công tác dân [5], góp phần
làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác dân vận của Đảng thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là cơ sở khoa học giúp cho công tác tham
mưu đề xuất với Đảng và Nhà nước nội dung, phương thức công tác dân vận

8



trong thời kỳ mới. Công trình này đưa ra quan điểm chỉ đạo công tác dân vận
của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh,
như: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; công tác quần chúng là
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của các đoàn thể nhân dân; động lực thúc
đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết
hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân.
Những công trình trên đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề quản lý
nhà nước về tôn giáo cả về mặt lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, trên địa bàn
tỉnh Bắc Ninh từ khi thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW, năm 2003 đến nay
chưa có đề tài nào nghiên cứu một các toàn diện, tổng kết thực tiễn về công
tác vận động chức sắc tôn giáo phục vụ cho công tác tôn giáo của cấp ủy,
chính quyền ở địa phương.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu và đánh giá thực trạng công tác vận động chức
sắc Phật giáo ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay, luận văn đề xuất những giải pháp,
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động chức sắc Phật giáo ở địa
phương trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác vận động chức sắc Phật
giáo ở Bắc Ninh hiện nay.
- Thực trạng công tác vận động chức sắc Phật giáo ở tỉnh Bắc Ninh
hiện nay và những thành tựu, hạn chế, bài học kinh nghiệm.
- Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng công tác vận động chức sắc Phật
giáo ở tỉnh Bắc Ninh và giải pháp, khuyến nghị.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: chức sắc Phật giáo (bao gồm cả chức việc
tôn giáo và các nhà tu hành không bao gồm những nhà tu hành tại gia) ở tỉnh
Bắc Ninh.


9


4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: công tác vận động chức sắc Phật giáo trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh.
- Về thời gian: Từ khi tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 25 –
NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo
năm 2013 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về vấn đề tôn giáo, công tác tôn
giáo; về công tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo. Luận văn
cũng xuất phát từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở tỉnh
Bắc Ninh thời gian qua.
Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành tôn
giáo học (phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu, điều tra xã hội học phỏng
vấn sâu,..), cũng như các phương pháp nghiên cứu liên ngành của sử học, xã
hội học, trong đó đặc biệt chú trọng phương pháp tổng kết thực tiễn, phân tích
và tổng hợp, xử lý tư liệu...
5.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu là sử dụng thông tin trong
tài liệu để rút ra thông tin cần thiết đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp này thu thập thông tin thứ cấp, không tiếp xúc với đối tượng
nghiên cứu, khảo sát chủ yếu thực hiện qua nghiên cứu tài liệu, sách báo,...
5.2. Phương pháp điều tra xã hội học
Đề tài thực hiện phỏng vấn sâu đối với 15 chức sắc, nhà tu hành, tín đồ
và 10 nhà quản lý có trình độ hiểu biết, có kinh nghiệm trong khoa học quản
lý nhà nước đối với Phật giáo. Nội dung câu hỏi phỏng vấn liên quan đến các

vấn đề: trình độ nhận thức, hiểu biết về đạo Phật và công tác QLNN về tín

10


ngưỡng, tôn giáo; đánh giá về công tác vận động chức sắc Phật giáo và các
lĩnh vực xã hội liên quan đến Phật giáo; làm rõ vai trò của chức sắc Phật giáo
trong đời sống xã hội.
6. Dự kiến kết quả của luận văn
Luận văn tập trung tổng kết thực tiễn và đề xuất một số giải pháp,
khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động, tranh thủ chức sắc
Phật giáo trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước ở tỉnh Bắc Ninh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
giảng dạy, bồi dưỡng về tôn giáo học, công tác tôn giáo và công tác vận động
quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo của các trường chính trị, trung tâm bồi
dưỡng chính trị. Đồng thời làm tài liệu cho công tác bồi dưỡng cán bộ trong
hệ thống dân vận, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở tỉnh ở
Bắc Ninh. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, là tư liệu cho
các nhà nghiên cứu, lãnh đạo quản lý về lĩnh vực tôn giáo.
8. Kết cấu của luận văn
Trên định hướng lý thuyết và phương pháp nghiên cứu đã trình bày,
luận văn sẽ được chia làm ba phần: Phần Mở đầu, phần Nội dung chính và
phần Kết luận. Riêng phần Nội dung chính, chúng tôi chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác vận động
chức sắc Phật giáo ở Bắc Ninh hiện nay.
Chương 2: Thực trạng công tác vận động chức sắc Phật giáo ở tỉnh Bắc
Ninh hiện nay và những thành tựu, hạn chế, bài học kinh nghiệm.
Chương 3: Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng công tác vận động chức

sắc Phật giáo ở tỉnh Bắc Ninh và giải pháp, khuyến nghị.

11


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG CHỨC SẮC PHẬT GIÁO
Ở TỈNH BẮC NINH HIỆN NAY
1.1. Lý luận chung về công tác vận động chức sắc Phật giáo ở tỉnh
Bắc Ninh hiện nay
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm chức sắc theo quy định của pháp luật
Theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo: “Chức sắc là tín đồ được tổ chức tôn
giáo phong phẩm hoặc suy cử để giữ phẩm vị trong tổ chức” [4, tr.7].
Theo đó, chức sắc tôn giáo cần hội đủ 3 yếu tố: Một là, chức sắc trước
hết phải là tín đồ của một tôn giáo - là loại “tín đồ đặc biệt”. Hai là, họ phải
là người có chức vụ nhất định trong tổ chức tôn giáo. Bởi vì, tổ chức tôn
giáo chính là nền “hành chính đạo”, điều hành, quản lý toàn bộ hoạt động
tôn giáo và gắn với đó là những vị trí cao thấp khác nhau (chức vụ) do mỗi
người đảm trách. Ba là, họ còn phải có phẩm sắc (phẩm trật) tôn giáo, được
tổ chức tôn giáo suy tôn, thừa nhận và cho hưởng theo giáo lý, giáo luật
chiểu theo công trạng, công lao tu tập, đạo hạnh, thời gian tu tập và cống
hiến của họ cho tôn giáo đó. Vì thế, khái niệm chức sắc tôn giáo như trên
mới xuất phát từ phương diện quản lý nhà nước đối với tôn giáo hiện nay ở
nước ta, chưa đáp ứng được với công tác tôn giáo nói chung và nhận thức về
tôn giáo. Mặt khác, bản thân mỗi tôn giáo lại có những quy định cụ thể về
chức sắc của mình.
Với khái niệm này, nội hàm của khái niệm chức sắc tôn giáo không chỉ
bao gồm những người có chức vụ trong tôn giáo, mà còn có cả những người có

trọng trách trong hành đạo và truyền đạo. Truyền đạo là bổn phận của mọi tín

12


đồ, nhưng với tín đồ không được đào tạo, không phải là nhà hoạt động tôn giáo
chuyên nghiệp và bán chuyên thì những người tín đồ bình thường không thể có
khả năng lớn như chức sắc của họ. Theo định nghĩa này, chức sắc tôn giáo
chính là những đối tượng đặc biệt quan trọng mà công tác tôn giáo phải có sự
quan tâm thường xuyên. Điều đó lý giải tại sao các cơ quan làm công tác tôn
giáo khi nói đến chức sắc tôn giáo thường bao gồm cả chức việc tôn giáo và
các nhà tu hành.
* Khái niệm chức sắc Phật giáo theo quy định của tổ chức Giáo hội
Phật giáo Việt Nam
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Theo Nội quy Ban Tăng sự trung ương khóa VIII (nhiệm kỳ 2017 2022) gồm 15 chương, 85 điều, trong đó quy định về chức sắc trong giáo hội
như sau:
Hàng Giáo phẩm (chức sắc) bao gồm: Giáo phẩm Tăng: Hòa thượng,
Thượng tọa. Giáo phẩm Ni: Ni trưởng, Ni sư. Hàng giáo phẩm được suy tôn
tại các kỳ Đại hội Phật giáo.[40]
- Chức sắc trong Hội đồng chứng minh
Hội đồng chứng minh là cơ quan lãnh đạo tối cao về đạo pháp và giới
luật của Giáo hội, gồm các vị Hòa thượng tiêu biểu của của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam; có ít nhất 70 tuổi đời và 50 tuổi đạo; được Ban Thường trực
Hội đồng Chứng minh tiền nhiệm giới thiệu và Đại hội Đại biểu toàn quốc
Giáo hội Phật giáo Việt Nam suy tôn. Các vị Hòa thượng được suy tôn vào
Hội đồng chứng minh thì không tham gia Hội đồng Trị sự, ngoại trừ một số
trường hợp đặc biệt do Ban Thường trực Hội đồng Trị sự đề nghị.
Một trong số nhiệm vụ của Ban thường trực Hội đồng chứng minh đối
với chức sắc là: Phê chuẩn tấn phong Giáo phẩm Hòa thượng, Thượng Tọa,

Ni trưởng, Ni sư của GHPGVN, nghĩa là tấn phong các vị chức sắc

13


- Điều kiện để được tấn phong hàng giáo phẩm
Điều 53: Đại hội Đại biểu Phật giáo Việt Nam phê chuẩn danh sách tấn
phong hàng Giáo phẩm Hòa thượng đối với Thượng tọa tuổi đời từ 60 tuổi trở
lên, tuổi đạo từ 40 hạ lạp trở lên, có đạo hạnh tốt, có công đức với Đạo pháp
và Dân tộc, có đóng góp cho Giáo hội và đăng ký với cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Điều 54: Đại hội Đại biểu Phật giáo Việt Nam xem xét tấn phong Giáo
phẩm Thượng tọa đối với Đại đức có tuổi đời từ 45 tuổi trở lên, tuổi đạo từ 25
hạ lạp trở lên, có đạo hạnh tốt, có công đức với Đạo pháp và Dân tộc, có đóng
góp cho Giáo hội và đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật.
Điều 55: Hàng giáo phẩm của Ni giới là Ni trưởng và Ni sư. Tiêu chuẩn
và điều kiện tấn phong giáo phẩm cúa Ni giới như quy định của hàng Tăng
giới ở điều 53, 54 Hiến chương [25].
Ngoài ra giáo hội còn có trường hợp đặc cách tấn phong Giáo phẩm
với những trường hợp đặc biệt.
- Chức sắc trong Hội đồng trị sự
Hội đồng trị sự là cơ quan điều hành, quản lý hành chính cao nhất của
Giáo hội về mọi mặt hoạt động giữa hai nhiệm kỳ. Đối với hoạt động của
chức sắc/chức việc có chức năng, nhiệm vụ sau:
+ Quyết định bổ nhiệm chủ trì các cơ sở do Giáo hội Phật giáo Việt
Nam cấp trung ương và cấp tỉnh thành, quản lý trên cơ sở tham khảo ý kiến
với hệ phái, sơn môn (nếu có liên hệ) và cơ quan có thẩm quyền.
+ Giới thiệu Tăng Ni, Cư sĩ Phật tử tham gia các cơ quan dân cử, tổ
chức chính trị - xã hội.

+ Phê chuẩn kế hoạch, chương trình hoạt động Phật sự của Ban, Viện
Trung ương, Văn phòng Trung ương Giáo hội, các tổ chức cơ sở và thành viên

14


trực thuộc Trung ương Giáo hội và Giáo hội Phật giáo Việt Nam cấp tỉnh. Đề
nghị Ban thường trực Hội đồng chứng minh tấn phong trước kỳ hạn trong
trường hợp đặc biệt cần thiết đối với nhân sự bổ sung vào các chức vụ bị
khuyết thuộc thẩm quyền suy cử của Hội đồng trị sự. Tổng hợp ý kiến của
chư Tăng Ni, cư sĩ Phật tử thành viên Giáo hội Phật Giáo Việt Nam để phản
ánh đến cơ quan có thẩm quyền về chủ trương, chính sách pháp luật liên quan
đến hoạt động tôn giáo.
Thành viên Hội đồng Trị sự, gồm Hòa thượng, Thượng tọa, Ni sư; Đại
đức Tăng Ni và Cư sĩ phật tử tiêu biểu có nhiều thành tích đóng góp cho Đạo
pháp và Dân tộc (điều 20). Thành viên tham gia Hội đồng Trị sự không quá
80 tuổi và không kiêm nhiệm quá 2 chức danh trong Ban Thường trực HĐTS,
mỗi chức danh không quá 3 nhiệm kỳ[25].
Như vậy, chỉ có chức sắc mới là thành viên của Hội đồng chứng minh,
còn Hội đồng Trị sự có cả 3 thành phần: chức sắc/chức việc, nhà tu hành và
cư sĩ Phật tử.
* Khái niệm công tác vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo
Trong Từ điển tiếng Việt, “vận động” được định nghĩa là tuyên truyền,
giải thích nhằm thuyết phục người khác tự nguyện làm việc gì đó, như vận
động nhân dân ủng hộ đồng bào bị thiên tai bão lũ, vận động đồng bào dân tộc
xóa bỏ phong tục lạc hậu, vận động tranh cử...
Có thể hiểu vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo nói chung và Phật giáo
nói riêng là tuyên truyền, giải thích nhằm thuyết phục chức sắc, tín đồ Phật
giáo thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương;

tham gia tích cực các phong trào thi đua yêu nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”;
hợp tác và tham gia cùng chính quyền giải quyết các vụ việc phức tạp nảy
sinh trong thực tiễn quản lý hoạt động tôn giáo.

15


* Nhận thức về chủ thể vận động và đối tượng vận động
- Chủ thể vận động – hệ thống chính trị của tỉnh Bắc Ninh
Một là, về tổ chức, bộ máy, bao gồm các cấp ủy đảng, chính quyền,
ban ngành, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội; các thiết chế,
trang thiết bị, điều kiện, phương tiện làm việc; quy trình đảm bảo công tác
vận động chức sắc tôn giáo.
Hai là, về đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên làm công tác vận động
quần chúng, vận động chức sắc tôn giáo nói chung và vận động chức sắc Phật
giáo được củng cố, kiện toàn đủ về số lượng, chất lượng, ngày càng đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới. Việc phân công đảng viên
trực tiếp làm công tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo ở cơ sở
có ý nghĩa quan trọng, đã góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh. Đây là những cán bộ
trong hệ thống chính trị, am hiểu về tôn giáo và chính sách tôn giáo của
Đảng, Nhà nước, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên
môn, có phẩm chất đạo đức tốt...
Các tổ chức cơ sở Đảng xây dựng kế hoạch phân công đảng viên trực
tiếp làm công tác vận động quần chúng tín đồ, chức sắc tôn giáo tại nơi cư trú
và triển khai công tác này đến cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và nhân
dân thông qua các đợt sinh hoạt chi bộ định kỳ, phổ biến một cách đầy đủ đến
nhân dân.
Hàng năm, các cấp ủy thường xuyên kiểm tra, giám sát kết quả thực
hiện việc đảng viên trực tiếp làm công tác vận động quần chúng và công tác

vận động chức sắc Phật giáo ở cơ sở thông qua việc kiểm tra hoạt động của
các tổ chức cơ sở Đảng về lãnh đạo công tác vận động quần chúng, công tác
tôn giáo, xây dựng tổ chức đoàn thể vững mạnh, xem đây là một trong các

16


tiêu chí để đánh giá phân tích chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền,
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể và đảng viên.
Qua triển khai, quán triệt thực hiện việc phân công đảng viên trực tiếp
làm công tác vận động quần chúng ở cơ sở và công tác vận động chức sắc tôn
giáo đã góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
đối với công tác dân vận và công tác tôn giáo; nâng cao vai trò, trách nhiệm
của đảng viên trong việc chủ động nắm bắt tình hình quần chúng nhân dân,
của chức sắc tôn giáo và quần chúng tín đồ tôn giáo trên các mặt của đời
sống, tư tưởng chính trị, thái độ chấp hành pháp luật; đồng thời tuyên truyền,
vận động quần chúng tín đồ thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo; tăng cường mối quan hệ mật
thiết giữa chính quyền với tín đồ, chức sắc Phật giáo.
- Đối tượng được vận động - chức sắc Phật giáo ở tỉnh Bắc Ninh
Một là, đối tượng trực tiếp, là các vị là chức sắc Phật giáo trên địa bàn
tỉnh, với khoảng gần 500 người.
Hai là, đối tượng gián tiếp, đó là quần chúng tín đồ Phật giáo trên địa
bàn tỉnh, với trên 300 ngàn người.
Chức sắc là lực lượng quan trọng trong mối quan hệ giữa giáo hội với
nhà nước và là đầu mối trong quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. Đồng
thời do vị trí ảnh hưởng của các chức sắc với tín đồ và xã hội nên trong công
tác tôn giáo nói chung, công tác quản lý nhà nước nói riêng, việc tranh thủ các
chức sắc rất quan trọng và cần thiết.
Số đông chức sắc các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng đã vượt

qua được sự khác nhau giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội là sự khác nhau giữa
hữu thần và vô thần, để tìm đến sự tương đồng là tinh thần dân tộc, tinh thần
yêu nước và chủ nghĩa nhân văn. Chính lực lượng chức sắc này đã góp phần

17


quan trọng đưa các hoạt động tôn giáo theo đường hướng tiến bộ, gắn bó với
dân tộc.
Như vậy, nếu công tác vận động chức sắc Phật giáo được xem là một
quá trình tác động thì có kết cấu bao gồm: chủ thể vận động, là tổ chức, cán
bộ, công chức làm công tác tôn giáo của hệ thống chính trị và đối tượng
khách thể vận động là các chức sắc Phật giáo, đồng thời còn có các hình thức
cần thiết tạo liên hệ giữa chủ thể và khách thể vận động. Tất nhiên như vậy
không có nghĩa là vận động chỉ đi theo một chiều từ chủ thể đến khách thể,
mà thường xuyên đó là mối quan hệ hai chiều tác động lẫn nhau.
Trong mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể, người làm công tác vận
động cần xác định chính xác vai trò của chủ thể vận động và đối tượng vận
động. Không nên quan niệm chủ thể bao giờ cũng luôn luôn đóng vai trò
quyết định, mà trong nhiều trường hợp, khách thể - đối tượng vận động lại
quyết định chủ thể. Thái độ coi thường, áp đặt tư tưởng và hành động của chủ
thể vận động đối với khách thể - đối tượng vận động thường xảy ra do việc
không nhận thức đầy đủ tính khách quan của mối quan hệ này trong công tác,
kéo theo là tính hiệu quả, hiệu lực giảm sút hoặc không có, nên không thể đạt
đến mục đích đặt ra trong công tác vận động chức sắc Phật giáo.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác vận động chức sắc Phật giáo
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin:
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quần chúng tín đồ tôn giáo là
một bộ phận của khối quần chúng nhân dân. C.Mác đã chỉ dạy "Không thể đả

kích vào tôn giáo dưới mọi hình thức thù địch cũng như dưới hình thức khinh
bạo chung cũng như riêng, nghĩa là nói chung không được đả kích vào tôn
giáo"[12, tr23]. “Cần phải đấu tranh bằng tuyên truyền, bằng giáo dục”;
“Tránh không xúc phạm đến tình cảm tôn giáo của các tín đồ và tránh làm

18


tăng thêm lòng cuồng tín tôn giáo". Ph.Ăngghen bày tỏ thái độ khách quan,
khoa học trong việc tác động vào tôn giáo, đó là phải tôn trọng quá trình tự
nhiên, tránh chủ quan, thô bạo.
Trong tác phẩm chống Duyrinh , Ăngghen đã phê phán Duyrinh vì đã có
thái độ loại bỏ và truy kích đối với đạo Thiên chúa, đó là thái độ và hành động
rất sai lầm, dẫn đến hậu quả là làm bùng lên tinh thần phản kháng kịch liệt
của tôn giáo. Ăngghen viết “ông ta tung bọn hiến binh tương lai của ông ta ra
truy kích tôn giáo, và do đó, ông ta giúp cho tôn giáo đạt tới chỗ thực hiện
tinh thần tử vì đạo và kéo dài thêm sự tồn tại của nó” [13, tr.437].
Vận động tín đồ tôn giáo cần thu hút họ vào các tổ chức chính trị của cách
mạng. Coi trọng tầng lớp chức sắc tôn giáo; Lênin đưa quan điểm kết nạp
chức sắc tôn giáo vào Đảng, trong tác phẩm Về thái độ của Đảng công nhân
đối với tôn giáo, Người viết: “Không nên nhất luận và bất cứ trong trường
hợp nào, cũng tuyên bố rằng các linh mục không thể trở thành đảng viên
Đảng dân chủ - xã hội, nhưng lại càng không nên nhất luận tuyên bố ngược
lại. Nếu có một linh mục nào lại đi với chúng ta để cùng hoạt động chính trị,
tận tâm làm tròn nhiệm vụ của mình trong đảng và không chống lại cương
lĩnh của đảng, thì chúng ta có thể kết nạp người ấy vào hàng ngũ đảng dân
chủ - xã hội” [43, tr519].
Như vậy, muốn khắc phục được những biểu hiện tiêu cực trong tôn giáo
trước hết và chủ yếu phải kiến tạo được một xã hội hiện thực không có áp
bức, bất công, nghèo đói và thất học, cùng những tệ nạn nảy sinh. Đây là một

quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới rất lâu dài, khó khăn và gian
khổ, chưa có tiền lệ trong lịch sử; do vậy phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm,
làm từng bước và kiên trì, liên tục.

19


Tư tưởng Hồ Chí minh về vận động quần chúng tín đồ, chức sắc tôn
giáo:
Người thực sự tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân
dân. Xem tự do tín ngưỡng là một quyền cơ bản của công dân Việt Nam, Hồ Chí
Minh với vai trò chủ trì xây dựng Hiến pháp 1946, Hiến pháp khẳng định: “
Công dân Việt nam có các quyền: Tự do ngôn luận, xuất bản, tổ chức và hội họp,
tín ngưỡng, cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”.
Người luôn nhắc nhở: "Chính quyền, quân đội và đoàn thể phải tôn trọng tín
ngưỡng, phong tục, tập quán của đồng bào" [23,tr.565] "phải chấp hành đúng
chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng đối với tất cả các tôn giáo" [22,tr.148]. Từ
góc độ của công tác vận động tín đồ tôn giáo thì đây là cái lõi của công tác vận
động. Theo đó, những cán bộ, đảng viên trực tiếp làm công tác dân vận đối với
đồng bào có đạo, không thể vì một sự vô tình hay cố ý, để xảy ra những hành
động vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Hồ Chí Minh đã khai thác giá trị nhân bản, tích cực của tôn giáo. Từ đầu
những năm 40 của thế kỷ trước, Hồ Chí Minh đã quan niệm Tôn giáo là Văn
hóa. “Trong Công giáo có câu “Tam vị nhất thể”, nhà Phật có câu “Vạn chúng
nhất tâm” nên chúng ta phải hy sinh cho nhân loại và chúng sinh” [21, tr.116].
Nội dung công tác phải thiết thực, không dừng ở tuyên truyền, thuyết
phục, giáo dục, quan trọng hơn, phải xây dựng đời sống vật chất ngày càng
phát triển. Người không xem nhẹ việc tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục
và từng dặn cán bộ: “Phải biết nhẫn nại. Nói với người nghe một lần người
ta không hiểu thì nói đến hai, ba lần...Về đức tính này, phải học những

người đi truyền giáo” [22,tr.64]. Song Người rất coi trọng việc phát triển
sản xuất kinh tế: “Phải ra sức củng cố hợp tác xã, phát triển sản xuất, tăng
thu nhập cho xã viên. Đồng thời phải đảm bảo tín ngưỡng tự do. Nhưng

20


hoạt động tôn giáo không cản trở sản xuất của nhân dân, không được trái
với pháp luật” [24,tr.606].
Quan điểm của Đảng ta đối với công tác vận động chức sắc, tín đồ
tôn giáo:
Ngay từ khi mới thành lập cũng như trong tiến trình cách mạng Việt
Nam, Đảng ta luôn xác định vấn đề dân tộc, tôn giáo và đoàn kết các dân tộc,
các tôn giáo có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta.
Đảng ta khẳng định: “Đảng và Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh
hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật của mọi người; thực hiện
nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng bào các tôn giáo là một
bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [3].
Quan điểm trên của Đảng xuất phát từ mục tiêu quan trọng của cách
mạng nước ta hiện nay là không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc; mặt khác, quan điểm trên còn xuất phát từ thực tiễn các thế lực
thù địch đã và đang thường xuyên lợi dụng vấn đề tôn giáo, gắn nó với vấn đề
dân tộc, nhân quyền, dân chủ để chống phá cách mạng Việt Nam. Do đó, quan
điểm đoàn kết toàn dân, không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng; không phân
biệt giữa người không theo tôn giáo với những người theo các tôn giáo khác
nhau; đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc phải được coi như là một nguyên tắc trong công tác tôn giáo.
Trước tình hình nhiệm vụ mới của đất nước, Bộ Chính Trị của Đảng
ban hành Nghị quyết số 24 NQ/TW, “Về tăng cường công tác tôn giáo trong

tình hình mới”. Nghị quyết này đã đưa ra 3 quan điểm chỉ đạo công tác tôn
giáo, trong đó, quan điểm thứ 2 xác định:
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng. Đồng bào theo đạo hay không theo đạo đều là công dân Việt Nam, có

21


×