Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Bán đảo Ả rập phần 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.05 KB, 11 trang )

Bán đảo Ả rập


Tình cảnh Do Thái ở các nước Hồi giáo

Từ thế kỷ thứ nhất, ở Palestine, sự cai trị của La Mã càng ngày càng tàn
khốc, dân Do Thái nổi loạn nhiều lần và đền Jérusalem bị tàn phá hai lần
nữa. Người La Mã cấm họ xây lại đền ở nền cũ và dân tộc Do Thái mất quốc
gia, phiêu bạt khắp thế giới.

Mới đầu họ tản mác qua Tiểu Á (Asie Mineure) rồi qua châu Âu, Bắc Phi,
Ethiopie; chỉ một số ít ở lại trong xứ sống chung với các dân tộc khác.

Trước thời Trung cổ, tình cảnh của họ tương đối dễ chịu. Tới đâu thổ dân
cũng nhận ra được họ vì tôn giáo, có lẽ vì cả nét mặt của họ nữa, cho nên hơi
nghi kị, khinh họ là một dân tộc mất nước, nhưng không hiếp đáp gì họ mà
họ cũng trung thành với quốc gia họ ở đậu. Nhờ biết đoàn kết, chịu cực khổ,
họ phát đạt, họp thành những đoàn khá thịnh vượng.

Thời Mohamed sáng lập Hồi giáo, họ sống chung với các dân tộc Ả Rập, và
chính Mohamed cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng của Do Thái giáo. Ông có
trừng trị một số Do Thái chỉ là vì họ đã đứng về phe Coréischite, nhưng ông
coi họ cũng như mọi dân tộc "dị giáo" khác, không đặc biệt kỳ thị gì họ. Họ
còn giúp đỡ dân tộc Ả Rập trong việc xâm lăng các quốc gia ở chung quanh
và ở phía Tây Nam châu Âu, như Tây Ban Nha.

Cho tới cuối thế kỷ thứ XIX, tình trạng của họ ở các quốc gia Hồi giáo
không thay đổi nhiều, tuy có thời bị kỳ thị ở từng chỗ, (vì nguyên nhân kinh
tế hơn là tôn giáo) nhưng không đến nỗi bi đát như ở châu Âu.

Theo Clara Malraux, một người Do Thái, thì ở Ba Tư, năm 1875, họ thuộc


giai cấp hạ tiện nhất, không được ra khỏi những khu vực riêng của họ gọi là
mellah, không được đụng vào người Ba Tư, không được mở quán bán tạp
hóa, trừ trong tỉnh Hamadan.

Ở Yemen, họ cũng không được đụng chạm một người Hồi giáo, phải đứng
dậy trước mặt một người Hồi giáo, không được cùng bán một món hàng với
người Hồi giáo, không được mang khí giới, ban đêm không được ra khỏi
khu riêng của họ.

Tại Maroc, họ không được coi là công dân, nhà vua muốn xử họ ra sao thì
xử, không cần theo luật pháp gì cả, có thể bắt họ làm nô lệ, giết họ cũng
được[16].

Ở những nơi khác, chẳng hạn ngay ở Palestine, thân phận của họ khá hơn, có
thể yên ổn làm ăn, nếu chịu nhận cảnh thua kém của mình, đừng phản
kháng. Sở dĩ vậy vì Hồi giáo không kỳ thị Do Thái như Ki Tô giáo kỳ thị
nhất là từ hồi viễn chinh của Thập tự quân, thế kỷ XI.

Ở châu Âu

Các người Âu theo Ki Tô giáo cho rằng dân tộc Do Thái đã giết Chúa Ki Tô.
Việc đó có thực không? Chuyện xảy ra đã non hai ngàn năm rồi, ai dám chắc
là nắm được chân lý? Nhưng dù cho rằng Chúa Ki Tô chết vì bị vu oan, bị
phản thì những thầy tu và tín đồ đã phản Ngài cũng không phải là toàn thể
dân tộc Do Thái, không phải là toàn thể những người Do Thái có mặt lúc đó
nữa. Như vậy mà thù ghét tất cả dân tộc Do Thái trong cả ngàn năm thì thực
là vô lý, nhất là chính Chúa Ki Tô và Thánh Mẫu cũng là người Do Thái,
chính Ngài trước khi tắt thở còn: "xin Cha tha thứ cho họ vì họ không biết
họ làm gì ".


Năm 1096 người Pháp, người Ý... rủ nhau đi giải thoát mộ Chúa Ki Tô ở
Jérusalem và trước khi làm cái việc thiêng liêng đó, người ta phải trả thù
những kẻ mà non 1.100 năm trước đã chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa.

Ỏ Worms, trong hai ngày người ta giết tám trăm người Do Thái; chẳng kể là
đàn ông, đàn bà, già trẻ, hễ là Do Thái mà không chịu bỏ đạo, theo đạo Ki
Tô là bị chém giết bằng gươm, bằng giáo, bằng thuổng cuốc...

Ở Mayence, cảnh còn rùng rợn hơn nhiều vì người Do Thái chống cự lại, rồi
như say máu, họ quay lại giết chính người cùng đạo với họ, giết cả vợ con,
cha mẹ họ! Thật kinh khủng: có những bà mẹ đương cho con bú, cầm ngay
lấy dao hay gươm cứa cổ con để chúng khỏi chết vì tay những kẻ không theo
đạo Do Thái. Bảy trăm người chết trong vụ đó.

Cộng hai vụ là một ngàn rưỡi mạng. Một ngàn rưỡi mạng đó đã tạo cho dân
Do Thái một tâm hồn mới: họ biết rằng họ không thể sống chung với người
Ki Tô giáo được nữa; người ta càng bắt họ đổi đạo thì họ lại càng cương
quyết giữ đạo, giữ truyền thống của họ. Người Ki Tô giáo thấy vậy lại càng
khắc nghiệt với họ, bắt họ phải mang trên áo hình bánh xe hoặc hình ngôi
sao David sáu cánh, như tội nhân mang áo dấu.

Họ phải sống trong những ghetto, điêu đứng hơn trong những mellah ở Ba
Tư, chịu mọi sự cấm đoán, gần như một bọn tù bị giam lỏng.

Lâu lâu, họ bị cái họa pogrom: người Ki Tô giáo Nga, Ba Lan... kéo nhau
từng đoàn với gậy gộc, búa rìu, dao, gươm vào các khu Do Thái đập phá,
cướp bóc, chém giết vô tội vạ. Nguyên nhân có thể là sau một tai họa nào,
người ta trút hết cả tội lỗi lên đầu lên cổ họ: mất mùa mà đói kém ư? là tại
tụi Do Thái đã làm cho Chúa nổi giận; bệnh dịch phát ra ư? tại tụi Do Thái
sống chui rức, dơ dáy quá rồi truyền bệnh; chiến tranh mà bại ư? tại tụi Do

Thái phản trắc, ngầm cấu kết với địch... Có khi chẳng cần nguyên do gì cả:
người ta cứ vu cho một người Do Thái là ăn cắp hoặc ve vãn một thiếu nữ
Ki Tô giáo là cũng đủ gây một phong trào pogrom lan từ tỉnh này tới tỉnh
khác.

Ngay những khi họ được sống yên ổn nhất thì thân phận của họ cũng không
hơn gì một tên nô lệ: người ta cấm họ có bất động sản, thành thử muốn làm
ruộng thì chỉ có thể làm nông nô hoặc tá điền. Muốn khá giả, họ phải ở châu
thành làm thợ - nhất là thợ kim hoàn - hoặc buôn bán, đổi tiền, cho vay.
Giáo hội Ki Tô cấm tín đồ cho vay lấy lãi, nên nghề sét-ti, nghề ngân hàng
gần thành độc quyền của họ. Cha truyền con nối, nhờ kinh nghiệm của tổ
tiên, họ làm giàu rất mau, và họ mắc cái tiếng là chỉ thờ Con Bò Vàng.

Đời sống của họ rất bấp bênh. Chính quyền muốn trục xuất họ lúc nào cũng
được, và chỉ cho họ mang theo ít quần áo, vài chục đồng tiền. Như năm 1290
họ bị trục xuất ra khỏi Anh, năm 1381 ra khỏi Pháp, năm 1492 ra khỏi Tây
Ban Nha, năm 1495 ra khỏi Lithuanie, năm 1498 ra khỏi Bồ Đào Nha và kế
đó họ bị tàn sát ghê gớm, tới nỗi tại các nước ở bờ biển Đại Tây Dương
không còn một bóng Do Thái nữa.

Họ cứ lang thang, bị trục xuất ở nước này thì qua nước khác, không ở châu
Âu được thì qua Tây Á, Trung Á, nếu có phương tiện thì qua Trung Hoa, Mã
Lai, Bắc Mỹ... Và bất kỳ ở đâu họ cũng hướng về Jérusalem. Mỗi ngày ba
lần họ cầu nguyện: "Xin Chúa cho chúng con được thấy cái ngày Chúa trở
về Sion"[17]. Mỗi ngày ba lần, sau mỗi bữa ăn, dù chỉ húp một miếng cháo
lỏng trong các ghetto, họ vẫn không quên tạ ơn Chúa đã cho họ miếng ăn và
đã cho tổ tiên họ "cái xứ đẹp đẽ, mênh mông, cái phúc địa ở Israel". Và non
hai ngàn năm, năm nào họ cũng chúc nhau: "Sang năm về Jérusalem ", năm
nào họ cũng hướng về Jérusalem cầu nguyện cho Israel được mưa hòa gió
thuận, chứ không cầu cho xứ họ đương ở, dù nơi đó bị hạn hán, bão lụt. Ai

cũng mong được đặt chân lên đất Israel, vì sống ở Jérusalem thì chết sẽ được
lên Thiên đường.

Herzl và cuốn "Quốc gia Do Thái"

Tới thế kỷ XVIII, nhờ một số triết gia có tinh thần khoáng đạt, như Voltaire,
Diderot, Montesquieu... đả đảo tinh thần kỳ thị tôn giáo, bênh vực họ, nên
tình cảnh của họ ở châu Âu được cải thiện nhiều. Họ nhập tịch các quốc gia
Pháp, Anh, Đức...,thành các công dân bình quyền với các tín đồ Ki Tô giáo.
Ở Pháp năm 1791, hội nghị lập hiến xóa bỏ hết các đạo luật bất công đối với
họ. Napoleon tổ chức lại sự thờ phụng cho họ. Một số người Ki Tô giáo giúp
đỡ họ tranh đấu về quyền lợi, họ phấn khởi, gây một phong trào hô hào đồng
bào đồng hóa với các dân tộc châu Âu. Họ vui vẻ, tận lực làm ăn và nhiều
người có địa vị, có danh tiếng, làm vẻ vang cho dân tộc tiếp nhận họ, như
Freud, Einstein, Hertz, Spinoza, Heine, Bergson, Karl Marx, Trotsky,
Marcel Proust, Kafka...

Nhưng ở các nước Đông Âu, thân phận của họ không được cải thiện bao
nhiêu, nên một số người, gồm cả những người theo Ki Tô giáo nghĩ tới
chuyện đưa họ về Palestine: hoặc đút lót với Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc xin Giáo
hoàng can thiệp, hoặc bỏ tiền ra mua đất ở Palestine. Người ta nghĩ đã không
ưa họ thì cho họ về quê hương của họ, chứ giữ họ làm gì; quê hương của họ
là một miền cằn cỗi, họ về đó khai phá sẽ có lợi cả cho Thổ, chắc Thổ không
ngăn cản mà chịu bán cho họ với một giá rẻ. Thi sỹ Pháp Lamartine mấy lần
du lịch Jérusalem về cũng hô hào người ta trả lại Palestine cho Do Thái.
Napoleon lúc ở Saint Jean d'Acre cũng nghĩ có thể tái lập một quốc gia Do
Thái ở Palestine. Thi sỹ Anh Byron cũng than thở cho họ "khổ hơn những
con thú không có hang".

Nhiều người viết sách, viết báo, diễn thuyết khuyến khích Do Thái hồi

hương và yêu cầu các chính phủ ủng hộ phong trào.

Hội Hovévé Tsione (Hội các người yêu Sion) được thành lập. Do Thái Nga
bị ngược đãi nhất, hưởng ứng trước hết, trở về Palestine lập được mấy vườn
cam đầu tiên, năm 1870 dựng được một trường Canh nông ở Mikvé Israel.
Một chủ ngân hàng tỷ phú, Edmond de Rothschild, gốc Do Thái, giúp vốn
cho họ, mua đất cho họ. Tóm lại phong trào đã rục rịch nhưng không phát
triển mạnh vì tình cảnh Do Thái ở châu Âu lúc đó tương đối dễ chịu, họ
không muốn bỏ sự nghiệp ở Pháp, Đức, Anh... để về làm ruộng ở Palestine.

Nhưng rồi một biến cố xảy ra làm thay đổi hẳn tâm trạng của họ.

Nguyên do chỉ tại vụ án Dreyfus năm 1894 ở Paris. Bộ Quốc phòng Pháp
ngỡ Dreyfus, một sỹ quan gốc Do Thái, do thám cho Đức, tuy không có
bằng cớ gì chắc chắn mà tòa án cũng xử ông ta bị tội đày. Rồi dân chúng
Paris phẫn nộ, đòi "Diệt tụi Do Thái!". Thì ra cái tinh thần kỳ thị Do Thái đã
nhiễm trong óc, hòa trong máu người Âu từ cả ngàn năm rồi, không dễ gì mà
gột được. Dreyfus một mực kêu oan, trong đó có văn hào Emile Zola. Zola
tin rằng Dreyfus vô tội, can đảm viết một bài bất hủ nhan đề là J'accuse (Tôi
buộc tội) để buộc chính phủ phải xét lại.

Vụ đó làm sôi nổi dư luận châu Âu. Tờ Neue Freie Presse ở Vienne phái một
ký giả gốc Do Thái, nhập tịch Hung, tên là Théodore Herzl (sinh năm 1860),
qua Paris dự cuộc lột lon của Dreyfus trước công chúng Paris để viết bài
tường thuật. Khi thấy Dreyfus mặt tái xanh, giọng vô cùng thiểu não, thét ra
câu này: "Tôi vô tội", rồi nghe quần chúng hò hét: "Giết chết tụi Do Thái
đi!" ông kinh hoảng, toát mồ hôi.

Từ đó một ý tưởng ám ảnh ông: dân tộc Pháp có tinh thần khoáng đạt nhất,
trọng tự do và bình đẳng nhất mà đối với Do Thái còn như vậy thì Do Thái

sống ở đâu cho yên được bây giờ? Chỉ có cách tạo một quốc gia Do Thái
được vạn quốc thừa nhận, rồi dắt nhau về cả đó mà ở thì mới khỏi bị xua
đuổi, oán thù, nguyền rủa.

Nghĩ vậy ông bèn viết cuốn L'etat juif (Quốc gia Do Thái), xuất bản năm
1896, trong đó ông hô hào đồng bào ông thành lập một quốc gia riêng cho
mình:

"Quốc gia Do Thái cần thiết cho thế giới: vậy thì thế nào nó cũng sẽ thành
lập (...) Người Do Thái nào mà muốn có một quốc gia của mình thì sẽ có
quốc gia và xứng đáng được có quốc gia. (...) Chỉ có mình tự cứu mình được
thôi và vấn đề Do Thái phải do người Do Thái giải quyết lấy".

Tác phẩm đó gây được ảnh hưởng khá lớn trong giới Do Thái lao động ở
Nga và Ba Lan vì cảnh họ điêu đứng hơn cả, còn ở Tây Âu, nhiều người
trách ông là bé mà xé ra to, đổ thêm dầu vào lửa. Ông tin chắc chủ trương
của ông, bắt tay vào việc liền, không ngại phá sản, không ngại kiệt sức, bỏ
công ăn việc làm mà phục vụ giống nòi.

Ông hoạt động trên hai mặt. Về nội bộ ông tổ chức phong trào Sion, đào tạo

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×