Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bán đảo Ả rập phần 13

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.39 KB, 10 trang )

Bán đảo Ả rập

Bình minh trên sông Nile ( chương 13 )

Nasser trong chiến tranh 1948-49

Chúng ta đã mấy lần gặp Nasser: lần ông còn làm một học sinh 12
tuổi, theo bạn bè biểu tình mà bị đánh chảy máu mặt (1930), lần
ông bị một viên đạn sướt qua trán thành một vết sẹo, cũng vì biểu
tình (1935), rồi ông vào trường võ bị, cùng với một số bạn bè
thành lập nhóm sỹ quan tự do. Chúng ta gặp lại ông làm đại úy,
chưa có ác cảm với Do Thái, chỉ mới có tư tưởng quốc gia, chưa
thấy sự thống nhất các quốc gia Ả Rập là một điều cần thiết.
Nhưng ông cũng hăng hái ra trận.

Ở ngoài mặt trận ông mới thấy quân đội Ả Rập kém xa quân đội
Israel về mọi phương diện. Năm quốc gia gồm 35 triệu người mà
thua một quốc gia 650.000 người, tất phải có nguyên do. Khí giới
đã xấu, cũ mà sự chỉ huy của liên quân Ả Rập không thống nhất.
Quân Ai Cập, Iraq và Transjordanie ba mặt tiến đánh Tel Aviv mà
không có một chiến lược chung, không liên lạc với nhau để đến nỗi
Iraq bị đánh tan trước, rồi Transjordame bị vây ở gần Jérusalem,
Ai Cập bị vây ở phía bắc Hébron mà chẳng bên nào cứu được bên
nào.

Quân Ai Cập, trong Thế chiến vừa qua, bị người Anh nghi kị,
không cho sử dụng các vũ khí mới, không cho ra mặt trận, nên
thiếu kinh nghiệm. Nhất là thiếu tổ chức. Tấn công một làng mà
không có bản đồ làng đó, không có xe thiết giáp để mở đường,
thành thử lính Ai Cập càng dũng cảm thì càng chết nhiều. Thiếu xe
để chở họ, thức ăn cũng thiếu: người ta phát cho mỗi đại đội một


số tiền là một ngàn Anh bảng để mặc đội trưởng mua tại chỗ phó-
mát và ô-liu cho quân lính.

Nasser lại hiểu rằng chiến tranh đó là một "chiến tranh chính trị";
chính quyền Ai Cập ra lệnh cho chiếm được thật nhiều đất, không
quan tâm tới sự hao quân tổn tướng vì họ biết rằng thế nào Liên
hiệp Quốc cũng can thiệp mà bên nào chiếm được nhiều đất thì bên
đó lợi. Cho nên người ta hấp tấp lùa quân ra trận mà không tổ
chức, chuẩn bị, cũng không hề giảng cho dân chúng hiểu tại sao
tấn công Israel, thành thử nhiều người lính ngờ rằng chính phủ bắt
họ hy sinh tính mạng để chiếm đất cho các cụ lớn ở triều đình.

Mặc dầu vậy, họ chiến đấu vẫn hăng. Nasser bị thương ở ngực,
điều trị xong lại ra mặt trận với chức thiếu tá. Cuối năm 1948
Nasser lập được một chiến công. Điểm ông chiếm đóng, Erak El
Manchia với một địa điểm nữa ở kế cận, Faludja, bị Do Thái bao
vây luôn hai tháng, sau bị dội bom luôn ba ngày. Ông ráng giữ
vững tinh thần sỹ tốt. Ngày cuối cùng, Do Thái tưởng Ai Cập đã
kiệt lực, bèn tấn công, không ngờ bị chặn lại rồi bị tiêu diệt. Nhờ
vậy mà tinh thần Ả Rập ở Faludja cũng lên cao và hai điểm đó
chống cự được tới lúc đình chiến.

Nasser đảo chính truất ngôi Farouk

Ở mặt trận về Nasser rút được nhiều kinh nghiệm và tư tưởng ông
thay đổi hẳn. Ông đã thấy năm quốc gia Ả Rập tuy gọi là liên hiệp
với nhau mà chỉ mưu cái lợi riêng của mình.

Sau bao nhiêu thế kỷ bị ngoại thuộc, lần này là lần đầu tiên dân tộc
Ả Rập có dịp tỏ mặt với thế giới mà thua một cách nhục nhã như

vậy thì làm sao còn dám tự hào là dòng dõi của Chéops, của
Mohamed nữa. Tinh thần quốc gia của ông chuyển thành tinh thần
Ả Rập. Không có các dân tộc Ai Cập, Iraq, Syrie, Jordani mà chỉ
có một dân tộc Ả Rập. Sự đại bại lần đó là cái phúc cho khối Ả
Rập đấy. Nhờ nó, họ mới phẫn uất mà phục hưng lên được. Nhưng
trước hết phải tổ chức tại quân đội, nâng cao đời sống của nhân
dân đã. Ông nhất định làm một cuộc cách mạng trong nước.

Năm 1949, đảng sỹ quan Tự do của ông bầu một ủy ban chấp
hành, trong đó có ông, hai người bạn thân của ông là Abdel Hakim
Amer, Anwar El Sadat. Ủy ban đó sau đổi làm Hội đồng Cách
mạng.

Sau vụ bại trận ở Palestine, dân chúng sôi nổi, phản đối triều đình
Farouk. Đời sống đắt đỏ gấp bốn trước, dân chúng thất nghiệp mà
quốc khố thì rỗng. Nahas Pacha lúc đó làm Thủ tướng, thấy dân
chúng sắp nổi loạn, phải tìm cách lấy lòng họ, tuyên bố: "Bây giờ
tới lúc người Anh phải cút đi!".

Anh cứ phớt tỉnh. Chính sách của họ là "Ta đã ở đây thì ta không
đi đâu hết".

Tất cả các đảng, từ đảng Sơ mi xanh (trước kia thân Đức Quốc xã),
đảng Huynh đệ Hồi giáo, sỹ quan Tự do... đòi tuyệt giao với Anh,
tẩy chay hàng hóa Anh, rút tiền trong các ngân hàng Anh, không
làm việc cho Anh, không tiếp tế cho Anh, không cho Anh làm việc
trong các công sở, tư sở Ai Cập.

Tháng giêng năm 1952, hai bên xô xát nhau, Ai Cập chết 46 người;
bắt giam 80 người Anh để trả đũa.


Ngày 26-1-1952, xảy ra vụ đốt phá thành phố Le Caire, trong sử
gọi là vụ "ngày thứ bảy hắc ám".

Mười giờ sáng, hiến binh Ai Cập cùng với các đoàn thanh niên kéo
nhau lại dinh Thủ tướng đòi khí giới để chiến đấu với Anh trong
khu Suez. Cả hai triệu dân Le Caire xuống đường đốt phá. Có 400
nơi bị đốt, chín người Anh chết thiêu. Dân chúng nhảy múa như
điên cuồng. Cảnh sát phải bó tay. Các sỹ quan Tự do trong đảng
Nasser muốn ngăn cản mà không được.

Nhà cầm quyền Ai Cập vì vụ đó mà bị thế giới khinh bỉ. Đảng sỹ
quan Tự do quyết định hành động gấp, vời tướng Mohamed
Néguib vào đảng để có thêm uy tín với dân.

Nửa đêm ngày 22 rạng ngày 23 tháng 7 năm 1952 họ ra tay, thình
lình ùa vào bắt sống các tướng tá tại bộ Tham mưu, rồi chia nhau
đi chiếm các yếu điểm ở Le Caire, không một nơi nào chống cự lại.
Dân chúng vẫn ngủ yên. Chính Néguib cũng chẳng hay gì cả.

Sáng hôm sau, dân chúng bừng con mắt dậy mới hay rằng quân đội
đã đảo chính xong và Néguib được bầu làm Tổng tư lệnh. Mọi
người ôm nhau nhảy múa ca hát.

Nắm được quân đội rồi, Nasser dùng cựu Thủ tướng Aly Maher để
cướp chính quyền, yêu cầu Maher thành lập nội các. Vua Farouk
nhu nhược lạ lùng, không phản kháng gì cả.

Ngày 25-7 Nasser tiến tới giai đoạn cuối cùng: truất ngôi Farouk,
cho quân đội bao vây cung điện, đưa một bản thỉnh nguyện yêu

cầu Farouk nhường ngôi cho Đông cung Thái tử Fouad và phải ra
khỏi nước ngay trước sáu giờ chiều hôm đó. Farouk ríu ríu tuân lời
nữa và xuống một chiếc du thuyền, bắt đầu cuộc đời lưu vong.
Cuộc đảo chính thành công ngoài sức tưởng tượng: chỉ có bảy
người lính bị thương.

Nasser làm tổng thống

Hội đồng cách mạng đã vạch rõ sáu mục tiêu:

1. Phản đế

2. Đả phong

3. Bãi bỏ các độc quyền

4. Thành lập một quân đội mạnh mẽ

5. Thành lập một chế độ xã hội công bằng

6. Thành lập một chế độ dân chủ lành mạnh.

Điểm thứ năm được thực hiện trước nhất. Hội đồng cách mạng ban
hành một đạo luật cải cách điền địa để cải thiện đời sống nông dân.

Năm 1952 Ai Cập có 22 triệu dân, trong số đó 15 triệu sống về
nghề nông. Đất cày cấy được gồm 6 triệu feddan (mỗi feddan bằng
4.300 mét vuông[32]).

- 35,5% số ruộng đó, tức 2.130.000 feddan thuộc về 2.642.000 tiểu

điền chủ, trung bình mỗi người được 0,8 feddan, tức non một mẫu
ta ngoài Bắc.

- 64,5% tức 3.870.000 feddan thuộc về 160.000 điền chủ, trung
bình mỗi người được 24 feddan. Nhưng trong số điền chủ này,
riêng 2.100 người đã chiếm được 20% toàn thể số ruộng cày, tức
non 1.200.000 feddan, tính ra mỗi người trung bình chiếm 550
feddan, khoảng 237 héc-ta.

Đạo luật cải cách điền địa hạn chế số ruộng của mỗi người là 200
feddan (khoảng 90 héc-ta). Các đại điền chủ được quyền bán số
ruộng dư cho tá điền trong một thời hạn là mấy tháng, sau thời hạn
đó bị truất hữu để phát cho dân nghèo.

Đạo luật cũng định số địa tô mà chủ điền có quyền thu của tá điền:
số đó không được quá bảy lần số thuế chính phủ thu của chủ điền.
Chính điều lệ thứ nhì này ảnh hưởng tới đời sống tá điền hơn điều
lệ trên.

Ngày mùng 2 tháng sáu năm 1953, chính phủ Cộng hòa thành lập.
Néguib lên chức Tổng thống. Nasser lúc này mới ra mặt, lãnh chức
Phó Tổng thống kiêm bộ Nội vụ.

Các đảng phái, nhất là đảng Huynh đệ Hồi giáo đòi chia nhau các

×