Bán đảo Ả rập
Hiệp ước Bagdad ( chương 14 )
Chính sách Menderès ở Thổ
Thổ và Iraq mà dám bao vây Nga thì dĩ nhiên là có Anh-Mỹ giật
dây.
Chúng ta còn nhớ sau Thế chiến thứ nhất, Lênin tuyên bố bỏ chính
sách đế quốc của các Nga hoàng, không xâm chiếm bờ cõi các
quốc gia khác, nhận chủ quyền của Thổ ở Constanti-nople, lại còn
giúp Thổ khí giới để chống Hy Lạp, Anh, Pháp nữa. Thổ mang ơn
Nga, và Mustapha Kémal hấp tấp duy tân Thổ, Âu hóa Thổ triệt
để, Thổ thành một quốc gia tương đối tiến bộ, vững vàng.
Kémal mất năm 1938, tướng Ismet Inonu lên thay, chưa được
mười tháng thì Thế chiến lại phát nữa. Thổ giữ thái độ hoàn toàn
trung lập, bị Berlin, Moscow, London, Washington vuốt ve rồi dọa
dẫm mà vẫn khăng khăng không tham chiến. Như vậy khôn, không
bị ăn bom của bọn họ; nhưng lại điêu đứng vì bị cả hai phe phong
tỏa kinh tế: không xuất cảng được nho, thuốc lá - thuốc lá Thổ Nhĩ
Kỳ danh tiếng nhất thế giới, thuốc Camel bán đầy đường Sài Gòn
lúc này có hương vị Thổ - mà cũng không nhập cảng được nguyên
liệu, thành thử dân hóa nghèo, mà dân nghèo thì dễ sinh loạn.
Một đảng mới, đảng Dân Chủ, được thành lập năm 1945, lãnh tụ là
Djelal Bayar và Adnan Menderès, vì đảng cũ, đảng Cộng Hòa đã
tỏ ra bất lực.
Năm 1950, đảng đó chiếm đa số ở Quốc hội. Bayar làm Tổng
thống, thay Inonu; Menderès làm Thủ tướng. Menderès rất có tài
lấy lòng nông dân, bảo đã tới lúc nông dân phải được hưởng thụ.
Và ông ta trích trong ngân quỹ một số tiền mua 42.000 chiếc máy
cày cho nông dân. Từ đó nông dân, thành phần cốt cán của Thổ,
ủng hộ ông tận tình.
Ông ta lại cởi mở cho dân, bao nhiêu luật lệ trói buộc họ, ông thủ
tiêu hết: tự do làm ăn, tự do đầu tư. Ông cũng bỏ chính sách trung
lập, chính sách tự túc của Kémal, mà nhận viện trợ của Mỹ, vay
mượn của Mỹ - để cho dân chúng hưởng thụ chứ. Tự do quá mà lại
có tiền thì dĩ nhiên có nạn tham nhũng, nhưng không sao, dân
chúng làm ăn phát đạt, nên không phàn nàn.
Rồi bỗng nhiên, không hiểu tại sao, Mỹ cúp bớt viện trợ, tình hình
lâm nguy, gần như bi đát: đồng tiền Thổ mất giá, trước đáng một
đồng nay chỉ còn đáng hai cắc.
Phải cấp tốc buộc bụng lại, sống kham khổ. Và Menderès phản
ứng kịp thời, đảo ngược lại chính sách, trước kia tự do bao nhiêu,
bây giờ bắt vào kỷ luật nghiêm khắc bấy nhiêu: kiểm duyệt báo
chí, sửa đổi hiến pháp, cấm hội họp, thanh trừng tham nhũng. Từ
tự do nhảy qua độc tài, độc tài y như một quốc vương Thổ.
Lạ lùng thay! Dùng chính sách tự do, ông đã thành công, nghĩa là
được dân chúng hoan hô; mà dùng chính sách độc tài ông cũng
được dân chúng khen "là người hùng của Thổ". Thật là tài tình!
Xưa nay chưa có một chính khách nào có được phép thần ấy. Đám
nông dân luôn luôn làm hậu thuẫn cho ông. Không hiểu ông dùng
bí quyết nào mà được họ tín nhiệm đến thế!
Mỹ giúp Thổ chống Nga
Vì mãi tới tháng hai năm 1945, khi ai cũng biết rằng Đức sắp quị
theo Ý, Thổ mới tuyên chiến với Đức, nên Staline vẫn căm Thổ.
Từ đầu tháng hai 1945, tại hội nghị Yalta mà Pháp không được dự,
Staline đã thuyết phục Roosevelt và Churchill xét lại hiệp ước
Montreux ký với Thổ năm 1936 về eo biển Dardanelles, không cho
Thổ làm chủ eo biển đó nữa.
Roosevelt rất đỗi ngây thơ, có lần tuyên bố: "Có một điều tôi tin
chắc là ông Staline không có óc đế quốc?" nên nghe lời Staline, và
Churchill cũng không phản đối. Thế là tháng sau (19-3-45) Nga
gửi thư cho Thổ buộc Thổ phải bỏ hết quyền kiểm soát eo biển
Dardanelles và nhường cho Nga hai tỉnh miền Đông: Kars và
Ardahan.
Như vậy Nga đã bỏ đường lối của Lênin mà trở về chính sách cổ
truyền của các Nga hoàng. Thổ phản kháng. Nga làm dữ hơn, Mỹ
ủng hộ Nga. Anh thấy Nga trổ mòi đế quốc đâm hoảng, đổi ý, kéo
Pháp về với mình, giảng cho Mỹ thấy cái nguy cơ để Nga làm bá
chủ miền Tiểu Á. Mỹ tỉnh ngộ, không tin "bạn Nga" nữa, cùng với
Anh chặn Nga lại, vẫn để cho Thổ làm chủ eo biển Dardanelles.
Nga rất ức nhưng Mỹ còn đương nắm "độc quyền khủng bố",
nghĩa là "độc hữu bom nguyên tử", đành tạm nuốt hận. Thổ thoát
chết. Và chiến tranh lạnh mở màn.
Mỹ tận lực giúp Thổ. Từ năm 1948, khí giới Mỹ và đô-la tuôn vào
Thổ: mỗi năm 400 triệu Mỹ kim, tới năm 1951 Thổ có đội quân
mạnh nhất Tây phương, bỏ xa Anh, Pháp, nhất là về không quân.
Thổ lúc đó chỉ có độ 21 triệu dân mà hễ có chiến tranh thì có thể
gọi nhập ngũ ngay được 1.500.000 người. Thổ lại gửi một đạo
quân viễn chinh qua Đại Hàn giúp Mỹ và Mỹ rất hài lòng (1.500
quân Thổ chiến đấu hăng như cọp), mời Thổ vào Tổ chức Bắc Đại
Tây Dương tức NATO[34] (tháng 2 năm 1952). Báo chí Paris,
London, New York khen ngợi nhiệt liệt thái độ hợp tác của "đạo
quân mạnh nhất châu Âu".
Thổ móc NATO vào SEATO
Năm sau Ngoại trưởng Mỹ Dulles qua Ankara (Thổ) và nẩy ra cái
ý tạo một "chiếc mộc" ở miền Tây Á, Trung Á chống mũi nhọn
của Nga, xúi Thổ liên kết các nước chung quanh để móc nối các
quốc gia trong NATO với các quốc gia trong Tổ chức Đông Nam
Á, tức SEATO.
NATO thành lập năm 1949 gồm Mỹ, Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Lục
Xâm Bảo (Luxembourg), Ý, Bồ Đào Nha, Ireland, Gia Nã Đại
(Canada), Na Uy, Đan Mạch, Tây Đức, Hy Lạp và Thổ (vào sau).
SEATO (thành lập năm 1954) gồm Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Tân Tây
Lan (New Zealand), Thái Lan, Phi Luật Tân (Philippines),
Pakistan.
Thổ mà liên kết được Iraq, Iran, Pakistan thì tức là móc được
NATO vào SEATO: cái khoen ở phía Tây là Thổ, cái khoen ở phía
Đông là Pakistan; và như vậy Mỹ tạo được một vòng đai "kiểm
địch" vậy.
Thổ biết Nga sẽ oán mình lắm, nhưng làm sao được, đã nhận cả
mấy tỷ đô-la của Mỹ rồi, lấy lẽ gì mà từ chối. Thôi thì đành theo
lao vậy và tự an ủi: "Cái thời trung lập đã qua rồi, bây giờ phải dứt
khoát đứng về một phe. Nga ăn hiếp mình, mình mới phải nhờ
Anh, Mỹ. Dù sao Anh, Mỹ cũng không độc tài bằng Nga".
Năm 1954 Thổ thuyết phục được Pakistan. Cái xứ Pakistan này là
một sản phẩm kỳ dị của đế quốc Anh.
Từ năm 1906, đã có một nhóm trí thức Hồi giáo ở Ấn Độ muốn
liên kết các đồng bào Hồi giáo để thành lập một tổ chức tự trị.
Người Anh tán thành. Năm 1940, một lãnh tụ tài ba Hồi giáo
Mohamed An Jinnah, đưa ra chương trình thành lập quốc gia
Pakistan. Phong trào mỗi ngày một lên, được 90% người Hồi giáo
Ấn Độ hưởng ứng.
Năm 1947, Thủ tướng Anh là Attlee tuyên bố Anh sẽ rời khỏi Ấn
Độ trước tháng sáu 1948. Ông ta còn giúp cho Pakistan thành lập,
kinh đô là Karachi. Quốc gia này có hai miền, miền Tây giáp giới
Afghanistan và Iran, miền Đông giáp giới Miến Điện, ở giữa là Ấn
Độ[35]. Ít nhất 15 triệu người phải di cư và vài chục ngàn người
chết trong các cuộc xô xát Ấn, Hồi. Thánh Gandhi vì muốn hòa
giải mà bị một kẻ cuồng nhiệt bắn chết, hắn kính cẩn vái ông rồi
mới bóp cò.
Nhờ Pakistan có hai miền như vậy mà vòng đai của Mỹ gần khép
kín Nga chỉ thiếu khoen Ấn Độ và khoen Miến Điện.
Tháng 4 năm 1954, Thổ thuyết phục được Pakistan rồi quay lại rủ
Iraq. Thủ tướng Iraq, Nouri Said, là con người "tận trung" với Anh
(trong một chương sau chúng tôi sẽ giới thiệu thêm ông ta), tới nỗi
các chính khách Ả Rập từ năm 1918 đã bảo nhau: "Cứ nhận xét
hành động của Nouri Said thì biết được các dự tính của Anh ở Tây
Á". Nouri Said tán thành liền và hiệp ước ký ngày 25 tháng 2 năm
1955, ở Bagdad, cho nên gọi là hiệp ước Bagdad.
Anh gia nhập liên minh Bagdad liền để củng cố địa vị của mình ở
Iraq, nghĩa là bảo vệ các mỏ dầu mà công ty Iraq Petroleum đương
khai thác.
Mỹ mặc dầu mớm lời cho Thổ mà lúc này lại do dự vì thấy hiệp
ước gây phong trào phản đối ở nhiều quốc gia Ả Rập mà Mỹ muốn
giữ cảm tình: Ả Rập Saudi, Ai Cập, Syrie. Nhất là Ai Cập nhao
nhao lên đả đảo Iraq đã tách ra đi với Tây phương, làm nứt rạn tình
đoàn kết giữa các quốc gia Ả Rập, phá chủ trương thống nhất của
Ai Cập. Điểm đó chúng ta sẽ xét sau, hãy tiếp tục kể tiếp công việc
vận động của Thổ đã.
Có được hai cái khoen Iraq và Pakistan rồi, cần phải có thêm cái
khoen Iran để nối Iraq với Pakistan. Iran rất quan trọng vì đất rộng
(1.645.000 cây số vuông), dân đông (17 triệu), có nhiều mỏ dầu và
có 2.300 cây số biên giới chung với Nga. Không nắm được Iran thì
hiệp ước Bagdad không có giá trị.