Bán đảo Ả rập
Chiến tranh lập quốc Israel ( chương 12 )
Do Thái xung phong vào Palestine
Cuốn Bạch thư của Anh chưa kịp đưa ra hội đồng Vạn Quốc thì
Thế chiến nổ, thành thử nó không có giá trị về pháp lý, nhưng
người Anh bất chấp pháp lý, cứ đem ra thi hành, hạn chế sự hồi
hương của dân tộc Do Thái đúng vào cái lúc họ trốn châu Âu để
khỏi bị Hitler tiêu diệt.
Vì từ khi lên cầm quyền, bọn Hitler nuôi cái ý tận diệt nòi giống
Do Thái, chẳng những khơi lại lòng kỳ thị tôn giáo mà còn gây
thêm lòng kỳ thị chủng tộc nữa. Họ tuyên truyền rằng giống Do
Thái có máu quỉ quyệt, phản bội - xưa kia đã phản Chúa rồi đấy -
không khi nào đồng hóa với các dân tộc khác, sống ở xứ nào cũng
tìm cách làm hại chính phủ; vậy phải tống cổ chúng đi, để khỏi có
hậu hoạn và để cho giống Đức, một giống thông minh nhất, cao
thượng nhất thế giới, khỏi bị lai bậy bạ mà sa đọa.
Người ta cấm đoán Do Thái đủ thứ: cấm hành nghề, cấm vào các
chỗ công cộng như rạp hát, thư viện...; họ chịu không nổi, bỏ hết
cả gia sản, nghề nghiệp, xách một cái va li nhỏ đựng ít quần áo rồi
ra đi.
Từ năm 1942, Âu châu thành một lò sát sinh khổng lồ và kinh
khủng. Bọn Hitler dùng đủ các phương pháp khoa học tối tân để
giết cho kỳ hết dân Do Thái ở Đức và các xứ chúng chiếm được.
Chúng lùng bắt Do Thái, bóp cổ trẻ con hoặc dìm đầu vào bể nước,
tung lên cao rồi bắn như bắn chim, xé thây, chôn sống, thiêu
sống...
Thấy những trò đó phí sức, phí thì giờ, tốn xăng, tốn đạn mà kết
quả không được bao nhiêu, chúng nghĩ cách chế tạo lò thiêu và hơi
ngạt. Chúng dùng oxyde de carbone, chỉ trong mươi lăm phút giết
được mấy trăm mạng, rồi dùng lò thiêu đốt xác cho ra tro. Nhờ
cách đó chúng giết được sáu triệu người Do Thái. Riêng trại
Auschwitz đã thiêu được ba triệu Do Thái! Rồi còn vô số trại khác
nữa: Dachau, Buchenwald, Mauthausen, Birkeneau... Hết chiến
tranh, người ta còn thấy ở Auschwitz những núi giày, những phòng
chất đầy nhóc những cặp kính của các kẻ bạc mệnh, những kho
đầy tóc dùng vào việc nhồi đệm, những kho đầy răng vàng nhổ ở
miệng các thây ma ra! Chỉ văn minh Tây phương mới lưu được
những trang sử như vậy cho nhân loại!
Trước cảnh chết chắc chắn và kinh khủng đó, người Do Thái nào
trốn thoát châu Âu được mà không có cách qua châu Mỹ đành
xung phong, phá vòng vây của Anh mà vào Palestine. Năm 1941
và 1942, hai chiếc tàu chở đầy nhóc Do Thái bị đắm trong Địa
Trung Hải và Hắc Hải chỉ vì Anh cấm vào hải phận Paslestine.
Trên ngàn người Do Thái mới thoát được cảnh lò thiêu Dachau,
Auschwitz thì lại phải làm mồi cho cá mập. Nhiều người Do Thái
uất ức chửi Anh: "Tụi đó cũng chó má như tụi Đức, không kém
gì".
Thất bại bi thảm, nhưng họ không nản chí, xung phong một chuyến
thứ ba nữa và năm 1946 thành công. Ba trăm trẻ em Do Thái trốn
thoát một trại giam của Anh trên đảo Chypre, xuống được chiếc
tàu Exodus và đậu ngay gần bờ, cương quyết đòi được qua
Palestine, nếu không thì tuyệt thực. Họ tuyệt thực thật, tới ngày thứ
tư, mười em sắp tắt thở, cả thế giới công phẫn, chính phủ Anh
đành chịu thua, cho tàu Exodus nhổ neo lại Palestine.[27]
Chiến tranh Ả rập - Israel
Trước kia Anh là ân nhân thì bây giờ thành kẻ thù của Do Thái. Ở
Palestine Do Thái vừa phải chống với Anh, vừa phải chống với Ả
Rập. Bị đặt vào tử lộ, họ phải đoàn kết với nhau mà chiến đấu và
chiến đấu rất hăng.
Đoàn tự vệ Hagana được khuếch sung, họ tổ chức thêm các đoàn
nghĩa quân khác: Irgoun, Stern, hoặc chuyên xung phong, hoặc
chuyên ám sát. Ả Rập cũng bất bình, tấn công cả Do Thái lẫn Anh.
Palestine hỗn loạn không tưởng tượng nổi. Cả ba dân tộc đều thù
nghịch nhau và dân tộc nào cũng thù địch cả hai mặt.
Anh bất lực, đề nghị một giải pháp: họp hội nghị bàn tròn để tìm
hiểu quan điểm của nhau. Nhưng đại biểu Ả Rập không thèm ngồi
chung với đại biểu Do Thái; không ai thỏa thuận với ai cả. Anh và
Ả Rập bác bỏ đề nghị của Do Thái; Do Thái và Anh bác bỏ đề nghị
của Ả Rập; Ả Rập và Do Thái cũng bác bỏ đề nghị của Anh.
Do Thái bảo:
- Tổ tiên chúng tôi ở Palestine. Chúng tôi có quyền về quê hương
của chúng tôi. Quyền đó đã được Hội Vạn Quốc thừa nhận. Chúng
tôi lại có công khai phá Palestine mà không làm hại gì cho người Ả
Rập; chúng tôi tôn trọng quyền lợi của họ, và mức sống của họ nhờ
chúng tôi mà cao lên, thế thì tại sao lại cấm chúng tôi? Huống hồ
hiện nay có 250.000 đồng bào của chúng tôi sống sót tại các trại
giam của Đức, bảo họ đi đâu bây giờ?
Ả Rập bảo:
- Đất Palestine, tổ tiên chúng tôi đã chiếm được từ năm 687, sau ba
năm chiến đấu với người Ba Tư, vậy thì đâu còn là của Do Thái
nữa. Từ trước chúng tôi vẫn là dân tộc đa số ở đây khi đế quốc Thổ
sụp đổ, Anh đã hứa cho chúng tôi độc lập, Tổng thống Wilson đã
nêu quy tắc dân tộc tự quyết. Vậy Palestine phải là một quốc gia Ả
Rập độc lập. Chúng tôi hứa sẽ tôn trọng quyền lợi của Do Thái,
phần thiểu số trong quốc gia chúng tôi.
Anh đã lỡ hứa cho cả hai bên, không biết đáp ra sao, trút cả trách
nhiệm cho Liên hiệp Quốc. Liên hiệp Quốc đưa giải pháp: chia đôi
Palestine thành hai quốc gia. Do Thái chịu vì thà được ít còn hơn
không, sau sẽ hay; nhưng Ả Rập nằng nặc đòi đuổi Do Thái đi.
Anh thấy ôm miếng đất đó chỉ thêm bỏng tay, tuyên bố ngày mùng
một tháng tám 1948 sẽ rút lui, để "hai bên lãnh trách nhiệm với
nhau".
Tức thì hai bên thanh toán nhau dữ dội hơn trước nữa. Liên hiệp
Quốc chưa kịp can thiệp thì Anh tỏ ra bất lực mà lại có tinh thần
vô trách nhiệm, quyết định chấm dứt nhiệm kỳ hai tháng rưỡi trước
ngày đã định. Tháng 5 họ rút quân lần lần và giao lại năm mươi
đồn cho người Ả Rập.
Rồi ngày 12-5, với tinh thần phớt tỉnh truyền thống của họ, họ
tuyên bố:
"Ủy quyền sẽ chính thức mãn hạn vào mười hai giờ một phút trong
đêm 14 rạng 15 tháng 5. Tổng ủy đại nhân, ngày 14-5 sẽ rời
Jérusalem mà đi Haìfa và xuống tàu H.M.S Euryalus, chiếc này sẽ
nhổ neo mười hai giờ khuya. Các quân đội của ta cũng bắt đầu rút
ra khỏi Jérusalem và các miền khác ở Palestine ngày 14 tháng 5".
Nghĩa là họ chỉ tuyên bố trước có hai ngày rưỡi vào đúng lúc ủy
ban Liên hiệp Quốc không có mặt ở Palestine.
Ngày 14-5, hồi 16 giờ, vị lãnh tụ Do Thái, Ben Gourion, tuyên bố
giữa quốc hội Do Thái họp ở Tel Aviv:
"Tôi tuyên bố thành lập một quốc gia Do Thái ở Palestine. Kể từ
hôm nay, quốc gia đó lấy tên là Israel. Hỡi các đồng bào Do Thái ở
khắp thế giới xin các bạn nghe tôi đây. Các bạn đứng hết cả về
phía Israel. Giúp cho quốc gia phát triển. Giúp cho dân tộc chiến
đấu để thực hiện cái mộng ngàn năm của chúng ta, cái mộng cứu
quốc và phục hưng Israel".
Đêm hôm đó, không người Do Thái nào ngủ được. Đúng nửa đêm.
Anh hết quyền ở Palestine, thì nửa giờ sau Tổng thống Truman
loan báo rằng Hoa Kỳ đã thừa nhận quốc gia Israel. Vài giờ sau
Nga cũng đánh điện thừa nhận, không biết hai chục triệu người
Hồi giáo ở Nga nghĩ sao. Sau Nga, tới nhiều quốc gia khác. Các
nhà ngoại giao Do Thái hoạt động ngầm trong mấy tháng nay đã
thành công.
Nhưng bây giờ mới bắt đầu tới lúc phải hy sinh ghê gớm. Bi kịch
đã khai diễn ngay từ cái lúc bản văn thành lập quốc gia Israel chưa
ráo nét mực.
Bom đạn nổ ở khắp nơi, ở phía Bắc, phía Đông, phía Nam. Quân
đội Ả Rập tấn công từ mọi biên giới.
Vua Abdallah xứ Transjordanie, người có cảm tình nhất với Do
Thái, cũng tuyên bố với Liên hiệp Quốc rằng quân đội của ông bắt
buộc tiến vào Palestine để che chở những người Ả Rập sinh trưởng
tại đó khỏi bị Do Thái tiêu diệt. Đồng thời hai đạo quân Ai Cập
tiến vào Gaza và Hébron trong sa mạc Neguev. Hai đạo quân khác
của Transjordanie bao Hắc Hải, tiến vào Jérusalem và phía dưới
Sodome. Một đạo quân lính chặn phía Nam Gahlée, một đạo quân
Syrie tấn công Tibériade, Safed. Một đạo quân nữa của Liban tấn
công phía Bắc Galilée, đổ về Haifa. Tel Aviv bị tấn công cả ba
mặt. Có một điều lạ là Ibn Séoud đầu năm 1945, nói với Roosevelt
nhất định không cho Do Thái vào Palestine vì với tư cách đại diện
Hồi giáo, ông phải bênh vực tín đồ của ông, vậy mà bây giờ mấy
nước kia đều đem quân tấn công Do Thái, ông lại không nhúc
nhích, đứng ngoài nhìn! Thần dầu lửa cơ hồ thiêng hơn Allah! Liên
quân Ả Rập tính thanh toán Israel nội trong mười ngày và vua
Abdallah định ngày 25-5 sẽ vào Jérusalem.
Xét bề ngoài thì thế của Ả Rập mạnh gấp mười Israel (ngay bộ
trưởng ngoại giao của Mỹ, tướng Marshall cũng ngại cho Do Thái
bị đè bẹp mất); nhưng xét kỹ bề trong thì Israel mạnh hơn Ả Rập: