Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu hiệu ứng ngược vị thế trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.6 KB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

HUỲNH NGỌC THƯƠNG

NGHIÊN CỨU HIỆU ỨNG NGƯỢC VỊ THẾ TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ

TP.HCM, THÁNG 10 NĂM 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

HUỲNH NGỌC THƯƠNG

NGHIÊN CỨU HIỆU ỨNG NGƯỢC VỊ THẾ TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Chuyên ngành

: Tài Chính – Ngân Hàng

Mã số

: 60.34.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ


Người hướng dẫn khoa học :
TS Trần Thị Hải Lý

TP.HCM, THÁNG 10 NĂM 2012


MỤC LỤC
Danh mục bảng
Danh mục hình
Tóm lược
Giới thiệu..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT VỀ HIỆU ỨNG NGƯỢC VỊ THẾ .................... 3
1.1

Lý thuyết triển vọng .......................................................................................... 3
1.1.1 Sự ra đời của lý thuyết kỳ vọng .............................................................. 4
1.1.2 Bốn điểm chính trong lý thuyết triển vọng.............................................. 4

1.2

Hiệu ứng ngược vị thế....................................................................................... 6

1.3

Bằng chứng thực nghiệm về hiệu ứng ngược vị thế. .......................................... 7
1.3.1 Bằng chứng tại Mỹ ................................................................................. 7
1.3.2 Bằng chứng ngoài nước Mỹ ................................................................. 11

CHƯƠNG 2: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP .......................................................... 14
2.1


Dữ liệu ............................................................................................................ 14

2.2

Phương pháp ................................................................................................... 20

CHƯƠNG 3: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM VỀ HIỆU ỨNG NGƯỢC VỊ THẾ
TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM .............................................. 24
3.1

Các đặc điểm của mẫu nghiên cứu .................................................................. 24

3.2

Hiệu ứng ngược vị thế tại thị trường chứng khoán Việt Nam .......................... 25

3.3

Phân tích những thuộc tính ảnh hưởng đến hiệu ứng ngược vị thế trên thị trường
chứng khoán Việt Nam ................................................................................... 28
3.2.1 Phân tích tác động của các nhân tố đơn lẻ đến hiệu ứng ngược vị thế trên
thị trường chứng khoán Việt Nam ........................................................ 28
3.2.2 Phân tích tác động đồng thời của các nhân tố lên hiệu ứng ngược vị thế34

CHƯƠNG 4: NHỮNG KẾT QUẢ CHÍNH VỀ HIỆU ỨNG NGƯỢC VỊ THẾ Ở VIỆT
NAM VÀ MỘT SỐ HÀM Ý ..................................................................................... 41
Tài liệu tham khảo ..................................................................................................... 44



DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Mô tả tổng quan dữ liệu nghiên cứu ........................................................... 15
Bảng 3.1: Mô tả dữ liệu giá trị giao dịch, số lượng giao dịch, độ tuổi, thời gian kích
hoạt tài khoản ............................................................................................................ 24
Bảng 3.2: Tần số của biến giới tính trong mẫu ........................................................... 25
Bảng 3.3: Mô tả các biến phụ thuộc PGR, PLR và DE ............................................... 25
Bảng 3.4: Tần số các biến phụ thuộc PGR, PLR, DE ................................................. 25
Bảng 3.5: Thống kê những chỉ tiêu tính toán PGR mẫu, PLR mẫu, PGR, PLR .......... 26
Bảng 3.6: Kiểm định giả thuyết giá trị trung bình của PGR lớn hơn giá trị trung bình
của PLR ..................................................................................................................... 27
Bảng 3.7 So sánh hiệu ứng ngược vị thế tại Việt Nam và Mỹ, Trung Quốc................ 28
Bảng 3.8: Phân tích hồi quy biến giá trị giao dịch lên DE .......................................... 28
Bảng 3.9 : Phân tích hồi quy biến số lượng giao dịch lên DE ..................................... 30
Bảng 3.10 : Phân tích hồi quy biến độ tuổi lên DE ..................................................... 31
Bảng 3.11 : Phân tích hồi quy biến thời gian kích hoạt tài khoản lên DE ................... 32
Bảng 3.12: Phân tích hồi quy biến giới tính lên DE.................................................... 33
Bảng 3.13: Ma trận tương quan giữa các biến ............................................................ 35
Bảng 3.14: Phân tích hồi quy đa biến (lngtgd, lnslgd, lntuoi, lntgkh, Dgtinh) lên DE . 36
Bảng 3.15: Phân tích hồi quy đa biến lên PGR........................................................... 38
Bảng 3.16: Phân tích hồi quy đa biến lên PLR ........................................................... 39

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1 Hàm giá trị trong lý thuyết triển vọng............................................................ 6
Hình 2.1: VN-Index và HNX-Index trong giai đoạn nghiên cứu ................................ 15


Tóm lược
Nghiên cứu này nhằm trả lời cho hai câu hỏi “liệu có tồn tại hiệu ứng ngược vị thế
(Disposition Effect) trên thị trường chứng khoán Việt Nam hay không? Và những nhân
tố nào ảnh hưởng đến hiệu ứng này ở thị trường chứng khoán Việt Nam?”. Tôi sử

dụng dữ liệu giao dịch của một trăm khách hàng tại một Công ty chứng khoán trong
giai đoạn từ ngày 01 tháng 06 năm 2010 đến ngày 30 tháng 06 năm 2012. Dữ liệu gồm
27,500 giao dịch mua bán, với tổng giá trị lên đến 2,204 tỷ đồng. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, mức độ sẵn lòng bán ra cổ phiếu có lời trung bình cao hơn 8.5% so với mức
độ sẵn lòng bán ra cổ phiếu thua lỗ. Những nhà đầu tư nam giới ít chịu ảnh hưởng của
hiệu ứng ngược vị thế hơn so với nữ, những tài khoản có giá trị giao dịch càng lớn
càng ít thể hiện hiệu ứng này, trong khi đó, số lượng giao dịch càng cao lại càng thể
hiện hiệu ứng ngược vị thế mạnh.
Từ khóa: Hiệu ứng ngược vị thế, lý thuyết triển vọng, tỷ lệ lãi thực hiện, tỷ lệ lỗ thực
hiện.


1

Giới thiệu
Tâm lý thúc đẩy những thiên hướng trong giao dịch mua bán chứng khoán, những
thiên hướng này có ảnh hưởng nhất định đến thành quả của nhà đầu tư, và vì vậy
nó có tiềm năng tác động đến giá trị tài sản. Trong nghiên cứu này, tôi đi tìm bằng
chứng thực nghiệm hiệu ứng ngược vị thế (Disposition Effect) trên thị trường
chứng khoán Việt Nam, hiệu ứng ngược vị thế là xu hướng nhà đầu tư bán cổ
phiếu lời quá sớm trong khi đó lại giữ cổ phiếu lỗ quá lâu.
Hiệu ứng ngược vị thế đã được Odean (1998), Dhar và Zhu (2006) tìm thấy trên
thị trường chứng khoán Mỹ; Gong-Meng Chen, Kenneth A. Kim, John R.
Nofsinger, Oliver M. Rui (2004) tìm thấy trên thị trường chứng khoán Trung
Quốc; Brad M. Barber, Yi-Tsung Lee, Yu-Jane Liu, Terrance Odean (2007) tìm
thấy trên thị trường chứng khoán Đài Loan,…
Tuy vậy, ở thị trường chứng khoán Việt Nam, một thị trường còn khá non trẻ, vẫn
chưa có một nghiên cứu nào về hiệu ứng ngược vị thế. Đây là lý do thôi thúc tôi
tìm bằng chứng thực nghiệm về sự tồn tại của hiệu ứng này trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.

Mục tiêu đề tài: Tìm bằng chứng thực nghiệm hiệu ứng ngược vị thế ở các nhà đầu
tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đồng thời, tìm kiếm mối quan
hệ giữa hiệu ứng này với giá trị giao dịch, số lượng giao dịch, thời gian kích hoạt
tài khoản, độ tuổi và giới tính của nhà đầu tư.
Các câu hỏi nghiên cứu:


Hiệu ứng ngược vị thế (Disposition effect) có tồn tại ở các nhà đầu tư cá nhân
trên thị trường chứng khoán Việt Nam không?



Giá trị giao dịch, số lượng giao dịch, thời gian kích hoạt tài khoản, độ tuổi và
giới tính của nhà đầu tư ảnh hưởng thế nào đến hiệu ứng ngược vị thế?

Bài nghiên cứu này được trình bày như sau:


2

Chương 1: Khung lý thuyết về hiệu ứng ngược vị thế. Trong chương này, tôi điểm
qua những lý thuyết có liên quan đến hiệu ứng ngược vị thế và bằng chứng từ
những nghiên cứu trước đó về hiệu ứng này.
Chương 2: Dữ liệu và phương pháp. Trong chương này, tôi sẽ mô tả dữ liệu, cách
tổ chức dữ liệu và trình bày phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Bằng chứng thực nghiệm hiệu ứng ngược vị thế trên thị trường chứng
khoán Việt Nam. Trong chương này, tôi chạy các thống kê mô tả, hồi quy và kiểm
định để làm rõ các câu hỏi nghiên cứu.
Chương 4: Những kết quả chính về hiệu ứng ngược vị thế tại Việt Nam và một số
hàm ý.



3

CHƯƠNG 1: KHUNG LÝ THUYẾT VỀ HIỆU ỨNG NGƯỢC VỊ THẾ
Hiệu ứng ngược vị thế được tìm thấy trên hành vi của nhà đầu tư. Do vậy để hiểu
rõ khái niệm này, chúng ta phải đi từ nền tảng lý thuyết tài chính hành vi, mà cụ
thể là lý thuyết triển vọng. Bên cạnh đó, những nghiên cứu đã được công bố của
các tác giả trước đây về hiệu ứng ngược vị thế đóng vai trò quan trọng cho cơ sở lý
thuyết của nghiên cứu này.
1.1

Lý thuyết triển vọng

Trong hầu hết các mô hình lý thuyết truyền thống, dựa trên những giả định nền
tảng, chẳng hạn như giả định về khẩu vị rủi ro của các nhà đầu tư, giả định về cách
đánh giá rủi ro của họ trước các thương vụ mạo hiểm. Các mô hình này thường giả
định những người tham gia thị trường thường đánh giá rủi ro theo khuôn khổ của
“hữu dụng kỳ vọng” (the expected utility framework- viết tắt là EU). Lý thuyết
hữu dụng kỳ vọng được phát triển bởi Von Neumann và Morgenstern (1944). Theo
đó, các tác giả cho rằng khẩu vị rủi ro của các nhà đầu tư nếu thỏa tính độc lập,
liên tục,… thì nó được đại diện bằng một hàm hữu dụng.
Ngay khi lý thuyết EU ra đời, các công trình nghiên cứu thực nghiệm theo sau đó
phát hiện rằng những người tham gia thị trường vi phạm một cách có hệ thống lý
thuyết EU, từ đó làm bùng nổ sự ra đời và phát triển của các lý thuyết non-EU, mà
trong đó, các lý thuyết này cố gắng xâu chuỗi lại các chứng cứ thực nghiệm trong
các bài nghiên cứu của họ. Có thể kể ra một số các nghiên cứu đáng chú ý như “lý
thuyết sự thất vọng” [Gul (1991)], “lý thuyết hối tiếc” [Loomes và Sugden (1982)],
và “lý thuyết triển vọng” [Kahneman và Tversky (1979), Tversky và Kahneman
(1992)].

Trong số các nghiên cứu theo trường phái non-EU, lý thuyết triển vọng do
Kahneman và Tversky, nghiên cứu năm 1979 và 1992 là hứa hẹn nhất. Nguyên
nhân chính là vì lý thuyết này thành công nhất trong việc tập hợp các bằng chứng
thực nghiệm và mô tả một cách rõ ràng thái độ của những người tham gia thị
trường trước nhiều dạng trò chơi may rủi khác nhau. Trong khi các nghiên cứu


4

khác chỉ đơn thuần tập hợp các chứng cứ thực nghiệm về một số hiện tượng bất
thường, với mục đích làm suy yếu lý thuyết EU.
1.1.1 Sự ra đời của lý thuyết kỳ vọng
Lý thuyết tài chính truyền thống giả định rằng các nhà đầu tư ra quyết định trong
điều kiện không chắc chắn bằng cách tối đa hóa hữu dụng kỳ vọng của tài sản và
tiêu dùng. Lý thuyết hữu dụng kỳ vọng là một lý thuyết thuần toán học và các tiên
đề trong đó được xây dựng dựa trên nền tảng các tư duy hợp lý. Tuy nhiên, theo
nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng một số giả định của lý thuyết hữu
dụng kỳ vọng không đúng trong thực tế, dẫn đến sự mô tả của lý thuyết này về
hành vi của con người khi lựa chọn các phương án chọn lựa không chính xác.
Kahneman và Tversky (1979) đề xuất lý thuyết triển vọng như là một mô hình mô
tả hành vi ra quyết định của con người trong các điều kiện không chắc chắn. Lý
thuyết triển vọng tiếp cận vấn đề bằng cách mô tả các hành vi thực tế của con
người khi họ quyết định lựa chọn các phương án. Lý thuyết này khác với lý thuyết
hữu dụng kỳ vọng ở chỗ con người được khảo sát trong lý thuyết triển vọng
thường có xu hướng vi phạm các quy tắc đặt ra trong lý thuyết hữu dụng kỳ vọng.
1.1.2 Bốn điểm chính trong lý thuyết triển vọng
Lý thuyết triển vọng được hiểu rõ hơn qua những điểm sau:
Thứ nhất, con người trong lý thuyết EU lựa chọn phương án dựa trên cơ sở tác
động của các cấp độ tài sản. Ngược lại, con người trong lý thuyết triển vọng lựa
chọn các phương án dựa trên tác động của các kết quả thay đổi trong các cấp độ tài

sản. Nói cách khác, người ta đánh giá các kết quả dựa trên lời và lỗ.
Thứ hai, con người trong lý thuyết EU luôn luôn không ưa thích rủi ro (risk
averse), không bao giờ tìm kiếm rủi ro trong bất kỳ lựa chọn nào của họ. Ngược
lại, con người trong lý thuyết triển vọng không ưa thích rủi ro trong miền lời và
tìm kiếm rủi ro trong miền lỗ. Xem xét ví dụ sau:


A = chắc chắn đạt được 25000$.


5



B = 25% cơ hội nhận được 100000$ và 75% không nhận được gì cả.



C = chắc chắn lỗ 75000$.



D = 75% cơ hội mất đi 100000$ và 25% không mất gì cả.

Kahneman và Tversky phát hiện rằng lựa chọn phổ biến là A, và lựa chọn ít phổ
biến hơn là B. Điều này khẳng định cho lập luận rằng các nhà đầu tư không ưa
thích rủi ro, và không bao giờ tìm kiếm rủi ro (risk-seeking) theo lý thuyết EU đã
đề xuất. Tuy nhiên, giữa C và D, lựa chọn phổ biến là D. Điều này ủng hộ cho lý
thuyết triển vọng vì khi đó, người ta có xu hướng tìm rủi ro khi lựa chọn phương
án D. Ở đây lưu ý rằng kỳ vọng lỗ 75,000$ trong phương án D (75% lỗ 100,000$)

bằng với mức lỗ 75,000$ ở phương án C, nhưng lựa chọn D rủi ro hơn lựa chọn C
vì thực tế, người ta có thể lỗ 100,000$. Kahneman và Tversky cho rằng con người
thích lựa chọn D thay vì C là do họ không ưa thích các khoản lỗ chắc chắn
(aversion to sure loss).
Thứ ba, lý thuyết triển vọng thường đề cập đến thuật ngữ “không ưa thích lỗ”. Một
cá nhân không ưa thích lỗ khi không thích một cách như nhau các trò cá cược 5050, và hơn nữa sự không ưa thích lỗ đối với các trò cá cược này có thể tăng lên
thậm chí ngay cả khi rủi ro của các trò cá cược đó không thay đổi. Nói cách khác,
người ta đánh giá không đồng đều giá trị hữu dụng của việc nhận được một khoản
lời hay lỗ có cùng giá trị với mức xác suất xảy ra là như nhau. Sự không ưa thích
lỗ nói lên rằng hữu dụng mất đi do việc từ bỏ các giá trị tốt thì cao hơn giá trị hữu
dụng của việc nhận được giá trị tốt đó. Sự không ưa thích lỗ nói lên rằng có thể
trong một số trường hợp, việc né tránh lỗ có thể dẫn đến việc phải chấp nhận một
mức rủi ro cao hơn khi lựa chọn phương án. Vài tranh luận cũng cho thấy rằng các
nhà đầu tư lựa chọn một phương án mục đích không phải để tránh rủi ro mà mục
đích là để tránh lỗ. Ý tưởng này có thể được minh họa bằng ví dụ của Samuelson
(1963). Samuelson đề nghị các đồng nghiệp của ông chơi trò tung đồng xu, nếu
sấp, họ nhận được 200$, nếu ngửa thì họ mất 100$. Báo cáo của ông ghi lại câu
nói của đồng nghiệp ông rằng: “tôi sẽ không đánh cược đâu vì tôi cảm thấy lỗ
100$ nhiều hơn lời 200$”.


6

Thứ bốn, con người theo lý thuyết EU đánh giá rủi ro khách quan thông qua xác
suất xảy ra của nó. Ngược lai, độ hữu dụng của con người trong lý thuyết triển
vọng ít phụ thuộc vào xác suất xảy ra mà thay vào đó, hữu dụng này phụ thuộc
nhiều vào sự thay đổi trong xác suất. Sự thay đổi xác suất này có thể được xem
như là một trọng số quyết định, hoặc là xác suất chủ quan. Họ không đo lường xác
suất xảy ra của sự kiện, thay vào đó, họ đo lường tác động của các sự kiện lên ước
muốn hình thành từ các kỳ vọng. Đặc điểm này của lý thuyết triển vọng có thể giải

thích một số trường hợp vi phạm lý thuyết EU của những người tham gia thị
trường, bao gồm nghịch lý nổi tiếng Allais. Con người trong lý thuyết triển vọng
đánh giá cao quá mức các xác suất nhỏ. Việc đánh giá cao quá mức xác suất nhỏ
giải thích tại sao tồn tại nhu cầu của con người đối với vé số, một hình thức cung
cấp một cơ hội nhỏ cho một khoản lời lớn, và nhu cầu của con người đối với bảo
hiểm, một hình thức chứa đựng một xác suất nhỏ cho một khoản lỗ lớn.
Nói tóm lại, dưới lý thuyết triển vọng con người đánh giá rủi ro bằng việc sử dụng
hàm giá trị được định nghĩa trên lời và lỗ. Theo đó hình dạng của hàm giá trị sẽ là
lõm trong miền lời và lồi trong miền lỗ. Điểm xoắn lại tại điểm tham chiếu
(referenve point) cho thấy người ta nhạy cảm với các khoản lỗ hơn các khoản lời;
và sử dụng xác suất chủ quan (transformed hay subjective probability), được cung
cấp bởi hàm trọng số (weighting function), hơn là xác suất khách quan để đánh giá
rủi ro.
Hình 1.1 Hàm giá trị trong lý thuyết triển vọng

Nguồn: Kahneman và Tversky (1979)


7

1.2

Hiệu ứng ngược vị thế

Hiệu ứng ngược vị thế (Disposition Effect) là khuynh hướng nhà đầu tư nắm giữ
cổ phiếu lỗ quá lâu, trong khi bán cổ phiếu lời quá sớm.
Hầu hết nhà đầu tư tham gia thị trường đều từng nghe qua nguyên tắc cắt lỗ. Theo
nguyên tắc này, ở vị thế mua (long position) nhà đầu tư phải bán cổ phiếu ra khi
giá đi ngược dự đoán của nhà đầu tư một tỷ lệ phần trăm nhất định. Tỷ lệ phần
trăm này phụ thuộc vào từng nhà đầu tư khác nhau. Tuy nhiên, rất nhiều nhà đầu

tư gặp khó khăn khi tuân theo nguyên tắc này. Thay vào đó, họ có khuynh hướng
bán sớm các cổ phiếu có giá tăng và tiếp tục nắm giữ các cổ phiếu đang giảm giá.
Đây chính là biểu hiện của hiệu ứng ngược vị thế. Hiệu ứng ngược vị thế có thể
cản trở việc tạo ra những quyết định sáng suốt và có thể dẫn đến thành quả kém cỏi
do nhà đầu tư quá tập trung vào giá mua cổ phiếu đó. Và một khi cả thị trường bị
tác động một cách có hệ thống bởi hiệu ứng ngược vị thế thì rất có thể số lượng
giao dịch và sự sai khác giữa giá trị thị trường với giá trị nội tại có thể xảy ra.
1.3

Bằng chứng thực nghiệm về hiệu ứng ngược vị thế.

1.3.1 Bằng chứng tại Mỹ
Khoảng 28 năm trước, Shefrin và Statman (1984) phát hiện ra một mẫu hình thú
vị, mô tả cách thức các nhà đầu tư cá nhân nắm giữ những cổ phiếu trong danh
mục đầu tư của họ với các khoảng thời gian khác nhau, tùy thuộc vào thành quả
trước đó của cổ phiếu này.
Gần đây hơn, Odean (1998) cũng tìm thấy bằng chứng về hiệu ứng ngược vị thế ở
một mẫu lớn các nhà đầu tư cá nhân từ một công ty môi giới chiết khấu. Ngoài ra,
Odean tìm thấy những hành vi như vậy có lẽ không xuất phát từ những động cơ
hợp lý, bởi thực tế là những cổ phiếu có lời trong quá khứ có thành quả tốt hơn so
với những cổ phiếu lỗ sau ngày bán cổ phiếu của một nhà đầu tư cá nhân. Dữ liệu
của ông bao gồm các đầu tư trên thị trường chứng khoán của 10,000 tài khoản tại
một công ty môi giới chiết khấu ở Mỹ từ 1987 đến 1993 (đây là bộ dữ liệu rất lớn
để nghiên cứu hiệu ứng ngược vị thế, bộ dữ liệu đã giải quyết những khó khăn về


8

dữ liệu của các nghiên cứu trước đó). Odean phát triển một phương pháp để đo
lường hiệu ứng ngược vị thế, mà một vài nghiên cứu sau này sử dụng. Trong

phương pháp này, vào thời điểm một nhà đầu tư bán một cổ phiếu, các nhà nghiên
cứu sẽ ghi chép số lượng các vị thế cổ phiếu (các công ty khác nhau trong danh
mục đầu tư) như sau (1) bán có lãi, (2) bán bị lỗ, (3) không bán và thể hiện một
mức lãi, (4) không bán và thể hiện một mức lỗ. Odean tính toán lãi và lỗ theo giá
mua ban đầu của các cổ phiếu. Lãi thực hiện (1) và lỗ thực hiện (2) là các giao
dịch thật sự mà nhà đầu tư thu được lãi hay lỗ thực tế. Các cổ phiếu mà chưa bán
được gọi là lãi danh nghĩa (3) và lỗ danh nghĩa (4), cũng được xét theo giá mua, và
bằng việc sử dụng giá đóng cửa của ngày như là giá bán giả định của họ. Tất cả 4
loại vị thế cổ phiếu là các yếu tố quyết định giá trị tài sản của các nhà đầu tư.
Tổng lãi thực hiện (1) và lãi danh nghĩa (3) cho thấy tất cả các khoản lãi có thể
nhận được. Tổng lỗ thực hiện (2) và lỗ danh nghĩa (4) cho thấy tất cả các khoản lỗ
tương ứng. Hiệu ứng ngược vị thế dự báo rằng các nhà đầu tư hiện thực hóa nhiều
lãi hơn so với tổng lãi có thể nhận được, và hiện thực hoá lỗ ít hơn so với tổng lỗ
có thể có. Việc so sánh các khoản lãi và lỗ đã thực hiện với các cơ hội lãi hay lỗ
tương ứng loại bỏ sự ảnh hưởng của các điều kiện thị trường. Ví dụ, trong thị
trường chứng khoán bùng nổ, một nhà đầu tư có thể tiềm ẩn nhiều lãi hơn lỗ trong
danh mục đầu tư, vì vậy việc nhận thấy nhiều lãi đã thực hiện hơn thì không đáng
ngạc nhiên. Odean (1998) tính toán các con số này cho cả mẫu và cho từng nhà
đầu tư riêng biệt.
Ông sử dụng tổng các số để tạo thành tỷ lệ sau:


Lãi thực hiện (Real Gains)/[Lãi thực hiện (Real Gains) + Lãi danh nghĩa
(Paper Gains)] = Tỷ lệ lãi thực hiện (PGR)



Lỗ thực hiện (Real Losses)/[Lỗ thực hiện (Real Losses) + Lỗ danh nghĩa
(Paper Losses)] = Tỷ lệ lỗ thực hiện (PLR)


Trong đó:


PGR: Tỷ lệ lãi thực hiện (Proportion of Gains Realized)


9



PLR: Tỷ lệ lỗ thực hiện (Proportion of Losses Realized)

PGR và PLR cho thấy các nhà đầu tư sẵn lòng thực hiện các khoản lời và các
khoản lỗ của mình. Hiệu ứng ngược vị thế được thể hiện khi PGR lớn hơn PLR.
Odean đã tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ cho hiệu ứng ngược vị thế. Các nhà đầu
tư trung bình hiện thực hóa các khoản lời (PGR) 14.8%, trong khi chỉ hiện thực
hóa các khoản lỗ (PLR) trung bình 9.8%. Như vậy, các nhà đầu tư hiện thực hóa
các khoản lời lớn hơn 50% so với việc hiện thực hóa các khoản lỗ.
Mặc dù thực tế hiệu ứng ngược vị thế được phát hiện phổ biến ở cấp độ thị trường,
Dhar và Zhu (2006) thấy có những biến thể đáng kể trong hiệu ứng này ở cấp độ
nhà đầu tư cá nhân. Họ phân tích các dữ liệu giao dịch của một nhà môi giới chiết
khấu lớn để khám phá hiệu ứng ngược vị thế và cố gắng giải thích sự khác biệt
giữa các nhà đầu tư khác nhau. Tác giả sử dụng dữ liệu giao dịch của 50,000 nhà
đầu tư cá nhân của một công ty môi giới chiết khấu từ năm 1991 đến 1996. Ông
lưu giữ dữ liệu trong 3 tập tin, một tập tin về giao dịch, một tập tin về vị thế và một
tập tin mô tả (nhân khẩu học, demographics). Tập tin về giao dịch ghi lại những
giao dịch mua, bán, giá cả và thời gian của tất cả giao dịch. Tập tin về vị thế bao
gồm thông tin về danh mục của nhà đầu tư vào thời điểm kết thúc mỗi tháng trong
suốt thời kỳ nghiên cứu. Tập tin về nhân khẩu học lưu lại tất cả những thuộc tính
của nhà đầu tư chẳng hạn như tuổi, sự chuyên nghiệp và thu nhập. Dựa vào những

phát hiện trong kinh tế học thí nghiệm và tâm lý học xã hội, các tác giả đưa ra giả
thiết rằng những khác biệt trong sự hiểu biết của nhà đầu tư về thị trường tài chính
và tần số giao dịch là một phần nguyên nhân của hiệu ứng ngược vị thế của các cá
nhân. Sử dụng các biến nhân khẩu học và kinh tế xã hội làm những đại diện cho sự
hiểu biết của nhà đầu tư, nghiên cứu tìm thấy bằng chứng thực nghiệm là các cá
nhân giàu có và các cá nhân làm việc trong các ngành nghề chuyên nghiệp biểu
hiện hiệu ứng ngược vị thế thấp hơn. Phù hợp với kinh tế học thí nghiệm, tần số
giao dịch cũng có xu hướng làm giảm hiệu ứng ngược vị thế.


10

Một phát hiện khác của Dhar và Zhu (2006) là một vài nhà đầu tư trong mẫu của
họ không thể hiện hiệu ứng ngược vị thế và thậm chí thể hiện các mẫu hình giao
dịch ngược lại với hiệu ứng ngược vị thế trong nhiều trường hợp. Những phát hiện
này thúc đẩy các nghiên cứu trong tương lai để xem xét những nguyên nhân khác
có thể nằm đằng sau hiệu ứng ngược vị thế.
Barber và Odean (2001) cho rằng đầu tư như là một nhiệm vụ truyền thống của
người đàn ông. Do vậy đàn ông thường rơi vào tự tin thái quá, chẳng hạn như giao
dịch quá nhiều và sẵn lòng nhận mức rủi ro cao hơn. Cũng qua nghiên cứu này,
phụ nữ tạo ra thành quả đầu tư cổ phiếu tốt hơn nam giới.
Kaustia (2004) cung cấp một kiểm định khác của hiệu ứng ngược vị thế và dựa vào
hiệu ứng giá tham chiếu trong bối cảnh thị trường phát hành lần đầu ra công chúng
(IPO). Bởi giá mức giá chào bán là mức giá mua phổ biến, hiệu ứng ngược vị thế
có thể được xác định rõ ràng. Kaustia thấy rằng khối lượng giao dịch thấp nếu giá
thấp hơn giá chào bán và có sự bùng nổ về khối lượng giao dịch nếu giá vượt giá
chào bán. Hơn nữa, có sự gia tăng đáng kể trong khối lượng giao dịch nếu giá đạt
tới mức tối đa hoặc tối thiểu mới, điều này cho thấy bằng chứng của hiệu ứng giá
tham chiếu.
Weber và Camerer (1998) thực hiện các thí nghiệm được thiết kế đặc biệt để phát

hiện hiệu ứng ngược vị thế. Theo đó, các đối tượng được mua và bán trong sáu tài
sản rủi ro. Giá các tài sản giao động trong từng thời kỳ. Kết quả cho thấy, các đối
tượng có xu hướng bán cổ phiếu lời và giữ cổ phiếu lỗ. Khi cổ phiếu được bán một
cách tự động sau từng thời kỳ, hiệu ứng ngược vị thế giảm đi đáng kể.
Bên ngoài phòng thí nghiệm, Heath, Huddart và Lang (1999) xác định hiệu ứng
ngược vị thế trong thực hiện quyền chọn của các nhân viên tại Mỹ. Sử dụng dữ
liệu hơn 50,000 nhân viên ở 7 tập đoàn, họ thấy rằng có sự liên hệ chặt chẽ giữa
việc lựa chọn quyền chọn của các nhân viên với thành quả trong quá khứ của cổ
phiếu đó. Nhân viên thực hiện các hoạt động này xấp xỉ gấp đôi khi giá vượt quá
giá tối đa của năm trước đó. Trong một nghiên cứu khác, Genesove và Mayer


11

(2001) tìm thấy mẫu hình tương tự giữa các giao dịch hộ gia đình tại chung cư
Boston. Họ cho thấy, chủ sở hữu nhà chung cư chịu các khoản lỗ danh nghĩa, thiết
lập mức giá chào bán cao hơn 25-35% chênh lệch giữa giá bán kỳ vọng và giá mua
ban đầu của họ, đây là những người ít thành công trong việc bán tài sản hơn so với
những người khác.
Barberis và Xiong (2009) tìm thấy rằng, tuỳ thuộc vào độ lớn của các khoản lời
hoặc lỗ và tần suất đánh giá thành quả của nhà đầu tư, đôi khi lý thuyết triển vọng
dự đoán hành vi ngược lại với hành vi được mô tả bởi hiệu ứng ngược vị thế. Phát
hiện này mang lại một số quan điểm mới và có khả năng kích thích những nghiên
cứu xa hơn.
1.3.2 Bằng chứng ngoài nước Mỹ
Ngày càng có nhiều nghiên cứu cho thấy hiệu ứng ngược vị thế phổ biến ở các thị
trường bên ngoài Mỹ. Dưới đây sẽ chỉ cung cấp một vài nghiên cứu trong số đó.
Trong một nghiên cứu toàn diện về hoạt động giao dịch, sử dụng bộ dữ liệu của
Phần Lan, Grinblatt và Keloharju (2001) xác nhận hiệu ứng ngược vị thế. Họ cũng
thấy rằng tồn tại hiệu ứng giá tham chiếu, trong đó các cá nhân có nhiều khả năng

bán cổ phiếu nếu giá của chúng đạt đến mức cao của tháng trước đó.
Đối với các tổ chức, họ thường đầu tư vào các cổ phiếu có thành quả hoạt động
trước đây tốt (Grinblatt, Titman, và Wermers, 1995; Badrinath và Wahal, 2002),
trong khi những nhà đầu tư cá nhân dường như đi ngược lại trào lưu trên. Nghĩa là,
họ nhiều khả năng sẽ mua những cổ phiếu có thành quả trong quá khứ dưới mức
trung bình (Grinblatt và Keloharju, 2000).
Lãi và lỗ được tính tương tự như Odean (1998). Nghĩa là một khi nhà đầu tư bán
một loại cổ phiếu, những cổ phiếu khác đang được nắm giữ của nhà đầu tư này
được ký hiệu là doanh thu danh nghĩa cho ngày hôm đó. Grinblatt và Keloharju
(2001) chạy hồi quy logarit với biến phụ thuộc nhận giá trị 1 đối với doanh thu
thực hiện và 0 cho doanh thu danh nghĩa. Các biến độc lập bao gồm các biến kiểm
soát liên quan đến cổ phần (ví dụ như lợi nhuận trong quá khứ), nhà đầu tư (như


12

giá trị danh mục đầu tư), thời gian (các biến giả cho mỗi tháng) và các điều kiện
thị trường (như tỷ suất sinh lợi thị trường). Hiệu ứng ngược vị thế được đại diện
bởi một biến giả nhận giá trị 1 đối với các khoản lỗ thực hiện và danh nghĩa và
nhận giá trị 0 đối với các trường hợp khác. Dữ liệu dựa trên tất cả các nhà đầu tư
trên thị trường chứng khoán tại Phần Lan. Kết quả cho thấy có hiệu ứng ngược vị
thế mạnh khi kiểm soát nhiều nhân tố khác trong phân tích.
Trong một nghiên cứu thực nghiệm khá công phu tại thị trường chứng khoán
Trung Quốc của Gong-Meng Chen, Kenneth A. Kim, John R. Nofsinger, Oliver
M. Rui (2004) cho thấy, những nhà đầu tư Trung Quốc hay mắc phải những lỗi
giao dịch như: những cổ phiếu bị bán ra lại có thành quả tốt hơn so với những cổ
phiếu họ đã mua vào, họ miễn cưỡng thực hiện thua lỗ, họ thường tự tin thái quá
khi ít đa dạng hóa danh mục và mức độ giao dịch thường xuyên, đặc biệt họ rất
thích mua những cổ phiếu có biểu hiện tốt trước ngày họ quyết định mua vào.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy những nhà đầu tư kinh nghiệm không làm

giảm lỗi nhận thức (cognitive errors), bản thân kinh nghiệm hay sự sành điệu
không làm giảm xu hướng hành vi, hay cải thiện thành quả giao dịch. Hiệu ứng
ngược vị thế được nhóm tác giả tính toán với PGR là 0.519 trong khi đó PLR là
0.310. Như vậy, PGR lớn hơn 0.209 so với PLR cho thấy thị trường chứng khoán
Trung Quốc có hiệu ứng ngược vị thế mạnh hơn so với thị trường chứng khoán Mỹ
(vì theo kết quả của Odean ở trên, chênh lệch giữa PGR so với PLR trên thị trường
Mỹ chỉ là 0.05).
Brad M. Barber, Yi-Tsung Lee, Yu-Jane Liu, Terrance Odean (2007) tìm thấy
bằng chứng thực nghiệm hiệu ứng ngược vị thế trên thị trường chứng khoán Đài
Loan. Theo nghiên cứu này, có đến 84% nhà đầu tư Đài Loan bán cổ phiếu lời sớm
hơn so với cổ phiếu lỗ, nhà đầu tư cá nhân, doanh nghiệp và những nhà lướt sóng
không ưa thích hiện thực hóa thua lỗ, trong khi đó các quỹ hỗ tương và nhà đầu tư
nước ngoài lại có mức độ hiệu ứng ngược vị thế thấp hơn.
Chen, Gongmeng, Kenneth A. Kim, John R. Nofsinger, and Oliver M. Rui (2007)
lập luận rằng việc thực hiện hóa lợi nhuận cho phép một người duy trì lòng tự


13

trọng, trong khi thực hiện hóa khoản lỗ làm cho người đó thừa nhận một quyết
định đầu tư sai lầm, và do đó bị né tránh.
Shapira và Venezia (2001) tìm thấy hiệu ứng ngược vị thế trong mẫu đại diện các
nhà đầu tư tại thị trường chứng khoán Israel. Tác giả so sánh hiệu ứng ngược vị thế
ở những nhà đầu tư ra quyết định độc lập và hiệu ứng ngược vị thế ở những nhà
đầu tư được chăm sóc bởi nhà môi giới chuyên nghiệp, kết quả nghiên cứu cho
thấy hiệu ứng ngược vị thế ở nhóm ra quyết định độc lập lớn hơn so với nhóm
được chăm sóc bởi chuyên gia.
Tóm lại, Hiệu ứng ngược vị thế tỏ ra khá phổ biến trên thị trường chứng khoán.
Hàng loạt bằng chức thực nghiệm đã được tìm thấy ở Mỹ, Phần Lan, Trung Quốc,
Đài Loan, Nhật Bản, Israel,… Đây là cơ sở khá vững chắc cho nghiên cứu này trên

thị trường chứng khoán Việt Nam.


14

CHƯƠNG 2: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Trong chương này, tôi sẽ mô tả dữ liệu, cách tổ chức dữ liệu và trình bày phương
pháp nghiên cứu.
2.1

Dữ liệu:

Thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường khá non trẻ, số lượng nhà đầu
tư tham gia thị trường chưa lớn, hầu hết nhà đầu tư là cá nhân, kinh nghiệm nhà
đầu tư chưa nhiều. Sàn giao dịch chứng khoán tập trung chính thức đi vào hoạt
động từ năm 2000, tính đến hết năm 2011, giá trị vốn hóa thị trường chỉ đạt 25.6 tỷ
USD. Theo báo cáo thường niên của Trung Tâm Lưu Ký Việt Nam, tổng số lượng
tài khoản toàn thị trường cuối năm 2011 là 1,170,000 tài khoản. Theo một báo cáo
khác của Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước, số lượng tài khoản nhà đầu tư cá nhân
chiếm đến 99.6% tổng số lượng tài khoản toàn thị trường. Điều này cho thấy nhà
đầu tư cá nhân là lực lượng chủ yếu tham gia thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu giao dịch của một trăm khách hàng cá nhân tại
một Công ty chứng khoán. Theo số liệu của Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước ở
trên, hầu hết nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán là nhà đầu tư cá nhân, do
vậy, nghiên cứu này phù hợp với phần phổ biến của thị trường chứng khoán Việt
Nam.
Theo bảng 2.1, dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu được thu thập từ ngày 01 tháng 06
năm 2010 đến ngày 30 tháng 06 năm 2012. Dữ liệu gồm 27,500 giao dịch mua
bán, với tổng giá trị lên đến 2,204 tỷ đồng.
Theo hình 2.1, thị trường trong giai đoạn nghiên cứu có xu hướng giảm, nhưng

mức độ biến động không quá lớn. Điều này rất quan trọng, vì theo nghiên cứu của
Kim và Nofsinger (2004), hành vi nhà đầu tư (đặc biệt là sự tự tin thái quá) khác
nhau giữa thị trường lên giá mạnh mẽ và thị trường xuống giá mạnh mẽ.


15

Bảng 2.1: Mô tả tổng quan dữ liệu nghiên cứu
Số lượng tài khoản

100

Thời kỳ nghiên cứu

01/06/2010 đến 30/06/2012

Giá trị giao dịch (Tỷ đồng)

2,203.7

Giá trị mua (Tỷ đồng)

1,120.4

Giá trị bán (Tỷ đồng)

1,083.3

Tổng số lượng giao dịch


27,591

Nguồn: Tác giả tính toán từ dữ liệu của một Công ty chứng khoán
Hình 2.1: VN-Index và HNX-Index trong giai đoạn nghiên cứu

Nguồn: Dữ liệu từ Sở giao dịch chứng khoán Thành Phố Hồ Chí Minh (HSX) và
Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX)
Dữ liệu giao dịch gồm những thông tin sau:


Ngày giao dịch



Loại giao dịch: mua hoặc bán



Mã chứng khoán



Khối lượng giao dịch


16



Giá giao dịch


Bên cạnh dữ liệu giao dịch, những thuộc tính liên quan của từng tài khoản được
ghi lại bao gồm:


Giới tính



Ngày sinh



Ngày kích hoạt tài khoản



Giá trị giao dịch



Số lượng giao dịch, gồm số lượng giao dịch mua và số lượng giao dịch bán.

Để chuẩn hóa dữ liệu, tôi tiến hành những bước điều chỉnh sau:
Trước tiên, tôi tiến hành loại bỏ những giao dịch bán mà cổ phiếu không được
mua trong giai đoạn nghiên cứu, tức từ ngày 1 tháng 6 năm 2010 đến ngày 30
tháng 6 năm 2012.
Đây là bước điều chỉnh dữ liệu quan trọng nhằm loại bỏ những sai sót trong quá
trình nhận biết một giao dịch bán lãi hay lỗ. Những cổ phiếu không được mua
trong giai đoạn nghiên cứu nhưng lại có giao dịch bán ra, hoặc những cổ phiếu có

khối lượng mua vào trong giai đoạn nghiên cứu ít hơn so với khối lượng bán ra thì
giao dịch bán đó được loại bỏ hoặc điều chỉnh khối lượng giao dịch bán cho phù
hợp với giai đoạn nghiên cứu.
Để làm được điều này, tôi phải xử lý dữ liệu giao dịch trên excel cho từng tài
khoản riêng biệt, kết cấu các bảng tính như sau :
Bảng tính thứ nhất: Lịch sử giao dịch
Ở bảng tính này, tôi ghi lại tất cả dữ liệu giao dịch mua và bán trong giai đoạn
nghiên cứu (xem thêm bảng 1a, phụ lục 1).
Bảng tính thứ hai : Hợp nhất lịch sử giao dịch
Ở bảng tính này, tôi tính toán tổng khối lượng cổ phiếu mua, tổng khối lượng cổ
phiếu bán và giá mua, giá bán trung bình của tất cả cổ phiếu trong giai đoạn nghiên
cứu (xem thêm bảng 1b, phụ lục 1).


17

Bảng tính thứ ba : Tồn kho
Ở bảng tính này, tôi tính toán tình trạng tồn kho của tài khoản đến thời điểm 30
tháng 6 năm 2012 (xem thêm bảng 1c, phụ lục 1).
Cách điều chỉnh dữ liệu : Tôi kiểm tra số dư tất cả chứng khoán của từng tài khoản
tại thời điểm 30 tháng 6 năm 2012, nếu có phát sinh số dư khối lượng cổ phiếu âm
cho thấy tại những cổ phiếu này có hiện tượng cổ phiếu không được mua trong
giai đoạn nghiên cứu nhưng lại có giao dịch bán ra, hoặc những cổ phiếu có khối
lượng mua vào trong giai đoạn nghiên cứu ít hơn so với khối lượng bán ra. Để điều
chỉnh, tôi quay lại bảng tính lịch sử giao dịch và loại bỏ hoặc điều chỉnh lại khối
lượng giao dịch bán cho phù hợp để đưa số dư chứng khoán trong bảng tính tồn
kho về bằng 0.
Sau đó, Điều chỉnh tất cả dữ liệu giá mua, bán theo tỷ lệ điều chỉnh.
Giai đoạn nghiên cứu tương đối dài, khó tránh khỏi việc doanh nghiệp thực hiện
những chính sách ảnh hưởng đến giá cổ phiếu. Những hoạt động này như: chia cổ

tức bằng tiền mặt, chia cổ tức bằng cổ phiếu, thưởng cổ phiếu, phát hành cổ
phiếu… Do vậy, nếu dựa hoàn toàn vào dữ liệu lịch sử giao dịch để tính toán lời,
lỗ rất có thể dẫn đến sai sót.
Ví dụ: Cổ phiếu A được mua vào ngày 10 tháng 06 năm 2010 với giá 30,000 đồng.
Từ thời điểm mua đến ngày 30 tháng 04 năm 2012, cổ phiếu A đã chia cổ tức bằng
tiền mặt với tổng giá trị là 5,000 đồng. Ngày 30 tháng 04 năm 2012, nhà đầu tư
quyết định bán cổ phiếu A này với giá 28,000 đồng.
Nếu không điều chỉnh dữ liệu, kết quả kinh doanh của nhà đầu tư sẽ là : 28,000 –
30,000 = -2000 đồng. Giao dịch này sẽ được ghi nhận lỗ.
Tuy nhiên, cách tính toán trên không phản ánh đúng kết quả kinh doanh của nhà
đầu tư. Thực tế, kết quả kinh doanh sẽ là : 28,000 - (30,000 – 5,000) = 3000 đồng.
Giao dịch này được ghi nhận lãi.


18

Dữ liệu điều chỉnh được tính toán cho tất cả cổ phiếu trong tất cả các ngày trong
giai đoạn nghiên cứu bằng cách lấy giá thực tế giao dịch chia cho tỷ lệ điều chỉnh.
Tỷ lệ điều chỉnh được tính toán bằng cách lấy giá đóng cửa chưa điều chỉnh chia
cho giá đóng cửa đã điều chỉnh. Giá đóng cửa chưa điều chỉnh được xuất từ nguồn
dữ liệu của một Công ty chứng khoán, giá đóng cửa đã điều chỉnh được xuất từ
nguồn dữ liệu của Công ty Tài chính Stoxplus. Trong nghiên cứu này, khi nhắc
đến giá cổ phiếu, ta hiểu đó là giá đã được điều chỉnh. Xem chi tiết ví dụ ở Bảng
1d, Phụ lục 1.
Cuối cùng, tính toán những tham số chính để xác định hiệu ứng ngược vị thế
Sử dụng dữ liệu thực tế sau khi điều chỉnh lịch sử giao dịch và giá mua, giá bán
như trình bày ở trên, tôi đi tính toán những tham số chính cho nghiên cứu. Tỷ lệ lãi
thực hiện cho mẫu (PGR mẫu), tỷ lệ lỗ thực hiện cho mẫu (PLR mẫu), tỷ lệ lãi
thực hiện cho từng nhà đầu tư (PGR), tỷ lệ lỗ thực hiện cho từng nhà đầu tư (PLR).
Sau đó, sử dụng kiểm định trung bình để xác định trung bình chuỗi giá trị PGR có

lớn hơn trung bình chuỗi giá trị PLR với một mức ý nghĩa nhất định hay không?
Trong đó:


PGR mẫu = Tổng lãi thực hiện của mẫu (Real Gains mẫu)/[Tổng lãi thực hiện
của mẫu + Tổng lãi danh nghĩa của mẫu (Paper Gains mẫu)]



PLR mẫu = Tổng lỗ thực hiện của mẫu (Real Losses mẫu)/[Tổng lỗ thực hiện
của mẫu + Tổng lỗ danh nghĩa của mẫu (Paper Losses mẫu)]



PGR = Lãi thực hiện (Real Gains)/[Lãi thực hiện + Lãi danh nghĩa (Paper
Gains)]



PLR = Lỗ thực hiện (Real Losses)/[Lỗ thực hiện + Lỗ danh nghĩa (Paper
Losses)]



Lãi thực hiện (Realized Gains): Tổng tất cả giao dịch bán có lãi của từng tài
khoản trong giai đoạn nghiên cứu. Mỗi giao dịch bán có lãi được xác định
bằng cách so sánh giá bán với giá vốn trung bình, nếu giá bán lớn hơn giá vốn
trung bình thì giao dịch đó được xác định có lãi.



19



Lãi danh nghĩa (Paper Gains): Tổng tất cả giao dịch có thể bán có lãi tại
những ngày có phát sinh giao dịch bán của từng tài khoản trong giai đoạn
nghiên cứu. Mỗi giao dịch có thể bán có lãi được xác định bằng cách so sánh
giá đóng cửa của ngày có thể bán với giá vốn trung bình, nếu giá đóng cửa
của ngày có thể bán lớn hơn giá vốn trung bình thì giao dịch có thể bán đó
được xác định có lãi.



Lỗ thực hiện (Realized Losses): Tổng tất cả giao dịch bán lỗ của từng tài
khoản trong giai đoạn nghiên cứu. Mỗi giao dịch bán lỗ được xác định bằng
cách so sánh giá bán với giá vốn trung bình, nếu giá bán nhỏ hơn giá vốn
trung bình thì giao dịch đó được xác định lỗ.



Lỗ danh nghĩa (Paper Losses) : Tổng tất cả giao dịch có thể bán lỗ tại những
ngày có phát sinh giao dịch bán của từng tài khoản trong giai đoạn nghiên
cứu. Mỗi giao dịch có thể bán lỗ được xác định bằng cách so sánh giá đóng
cửa của ngày có thể bán với giá vốn trung bình, nếu giá đóng cửa của ngày có
thể bán bé hơn giá vốn trung bình thì giao dịch có thể bán đó được xác định
lỗ.

Ví dụ:
Một nhà đầu tư X có 5 cổ phiếu trong danh mục: A, B, C, D và E. A và B có giá
cao hơn giá vốn; C, D, E có giá thấp hơn giá vốn.

Một nhà đầu tư Y có 3 cổ phiếu trong danh mục: F, G và H. F và G có giá cao hơn
giá vốn; H có giá thấp hơn giá vốn.
Vào một ngày cụ thể, nhà đầu tư X bán cổ phiếu A và C; ngày tiếp theo, nhà đầu
tư Y bán cổ phiếu F. Việc bán A và F được tính là lãi thực hiện; việc bán C được
tính là lỗ thực hiện. B và G có thể bán lời nhưng không bán được tính vào lãi danh
nghĩa; D, E và H có thể bán lỗ nhưng không bán được tính vào lỗ danh nghĩa.
Như vậy, nhà đầu tư X có 1 lãi thực hiện, 1 lỗ thực hiện, 1 lãi danh nghĩa và 2 lỗ
danh nghĩa, khi đó, PGR = 1/(1+1) = 0.5, PLR = 1/(1+2) = 0.33. Tương tự cho nhà
đầu tư Y. Để tính PGR mẫu và PLR mẫu, hai nhà đầu tư đã thực hiện 2 lãi thực


20

hiện, 1 lỗ thực hiện, 2 lãi danh nghĩa, 3 lỗ danh nghĩa trong 2 ngày giao dịch. Do
đó, PGR mẫu = 2/(2+2) = 0.5; PLR mẫu = 1/(1+3) = 0.25.
2.2

Phương pháp

Tôi sử dụng phương pháp chuẩn của Odean (1998). Trước tiên, tôi tính toán và so
sánh PGR mẫu và PLR mẫu, hiệu ứng ngược vị thế tồn tại nếu PGR mẫu lớn hơn
PLR mẫu. Sau đó, tôi kiểm định sự tồn tại của hiệu ứng ngược vị thế bằng một
cách khác, sử dụng kiểm định trung bình để xác định trung bình chuỗi giá trị PGR
có lớn hơn trung bình chuỗi giá trị PLR với một mức độ ý nghĩa nhất định hay
không.
Giả thuyết:
H0: Giá trị trung bình của PGR <= giá trị trung bình của PLR
H1: Giá trị trung bình của PGR > giá trị trung bình của PLR
Trong bài nghiên cứu này, tôi xem xét dữ liệu liên tục từ tháng 1 đến tháng 12 và
không xem xét tác động của thuế. Trong Odean (1998), Ông xem xét hành vi giao

dịch và hiệu ứng ngược vị thế từ tháng 1 đến tháng 11 và tháng 12. Hiệu ứng
ngược vị thế dường như không đúng trong tháng 12, Ông lý giải điều này là vì
động cơ thuế. Nhà đầu tư Mỹ sẵn sàng bán ra những cổ phiếu thua lỗ trong tháng
12 nhằm hạn chế tiền thuế phải nộp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hình thức thuế đánh
trên giao dịch chứng khoán có một số đặc thù riêng. Căn cứ công văn số
5050/TCT-TNCN ngày 08 tháng 12 năm 2009 của Tổng Cục Thuế (xem phụ lục
2) về việc triển khai thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ chuyển nhượng
chứng khoán, chính thức áp dụng vào ngày 01 táng 01 năm 2010. Theo đó, nhà
đầu tư có thể lựa chọn việc đóng thuế 0.1% trên giá trị chuyển nhượng hoặc đóng
20% trên lợi nhuận có được trong năm. Trong thời gian nghiên cứu, thị trường
chứng khoán ở Việt Nam hoạt động không được tốt, hầu hết nhà đầu tư đều mắc
phải thua lỗ, do vậy, việc thực hiện các giao dịch lỗ trong tháng mười hai để giảm
bớt tiền thuế phải đóng nhà nước là không cần thiết. Ngoài ra, từ khi luật thuế thu
nhập cá nhân cho hoạt động chuyển nhượng chứng khoán được áp dụng, hầu hết


×