Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NHÀ MÁY THUỐC LÁ THĂNG LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.36 KB, 14 trang )

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NHÀ MÁY THUỐC LÁ THĂNG
LONG.
1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA NHÀ MÁY:
1.1. Sự hình thành Nhà máy:
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, bắt
tay vào công cuộc xây dựng CNXH, trở thành hậu phương lớn, hậu thuẫn một
cách chắc chắn và tin cậy cho tiền tuyến lớn miền Nam đang kiên cường đấu
tranh vì sự nghiệp giải phóng đất nước. Thời kỳ 1955-1957 được coi là thời kỳ
khôi phục kinh tế. Trung ương Đảng quyết định: “ Cần chú ý phục hồi và xây
dựng một số công xưởng chế tạo hàng cần thiết cho đời sống của nhân dân,
xưởng sửa chữa giao thông vận tải và một số công xưởng thuộc công nghiệp
nhẹ, bỏ vốn ít mà hiệu quả nhanh để giải quyết những vấn đề cấp thiết cho đời
sống nhân dân”. Song trong thực tế việc trồng và sản xuất thuốc lá ở miền Bắc
chủ yếu được hình thành một cách tự phát, tồn tại trong thế khép kín, hạn hẹp,
không đủ cung ứng cho chu cầu tiêu thụ ngày càng gia tăng của nhân dân. Một
số hãng thuốc lá tư nhân lạinắm quyền độc quyền sản xuất, kinh doanh tự ý
thao túng thị trường, gây không ít khó khăn cho đời sống của nhân dân.
Thực tiễn đặt vấn đề, Nhà nước cần phải nhanh chóng quản lý việc sản xuất
thuốc lá. Chỉ có nắm lấy quyền quản lý chúng ta mới đáp ứng được nhu cầu
thiết yếu của cán bộ, bộ đội và quần chúng lao động, mặt khác, ngăn chặn sự
lũng đoạn của các hãng sản xuất thuốc lá tư nhân. Vấn đề xây dựng một nhà
máy sản xuất thuốc lá có quy mô đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Nhận
thức đúng yêu cầu khách quan đó, giữa năm 1955, theo Quyết định số 2990-QĐ
của Phủ Thủ Tướng, Vụ quản lý xí nghiệp đã cử đồng chí Trịnh Văn Ty cùng
một số cán bộ khác khảo sát tình hình, lập hồ sơ nghiên cứu để nhanh chóng
xây dựng một nhà máy thuốc lá quốc doanh.
Ngay lập tức, nhóm khảo sát bắt tay vào công việc. Vừa lục tìm lại các tài
liệu cũ thời thuộc Pháp về tình hình phân bố và trồng trọt, kỹ thuật chế biến và
quy trình công nghệ sản xuất thuốc lá, nhóm khảo sát vừa trực tiếp đến các địa
phương để xem xét, tìm hiểu khả năng thực tế trong việc khoanh vùng sản xuất
nguyên liệu cho nhà máy. Sau những ngày làm việc say mê và trách nhiệm,


nhóm khảo sát đã thống nhất và đi đến kết luận: hoàn toàn có thể xây dựng
một nhà máy quốc doanh có quy mô lớn. Nhóm khảo sát cũng đã xây dựng
được một đề cương ban đầu, đề nghị chọn địa điểm xây dựng là Hà Nội hoặc
Thanh Hoá với một máy cuốn có công suất dự kiến ban đầu là 1200 điếu/phút.
Chấp thuận những kiến nghị trên đây của đoàn khảo sát, Bộ Công nghiệp
khẳng định: để tiến tới quy hoạch chính thức địa điểm xây dựng nhà máy lâu
dài, trước mắt, cần tận dụng một số cơ sở xí nghiệp cũ ở Hà Nội mà chúng ta
chưa có điều kiện khôi phục để làm nơi nghiên cứu phương pháp gia công các
loại thuốc hiện có, tổ chức sản xuất thử để rút kinh nghiệm.
Đầu tiên, địa điểm được chọn để thử nghiệm là nhà máy bia Hà nội. Nhưng
khi công việc sắp sửa bắt đầu thì tháng 4 năm 1956, Bộ Công nghiệp lại có
quyết định khôi phục lại nhà máy bia, nhóm khảo sát đành phải tìm đến một
địa điểm khác.
Sau một thời gian tìm kiếm, cơ sở nhà máy Diêm cũ được chọn làm địa điểm
sản xuất thử. Ngày 18 tháng 6 năm 1956, Cục Công nghiệp nhẹ thuộc Bộ Công
nghiệp ra quyết định thành lập Ban chuẩn bị sản xuất thuốc lá. Ngày 4 tháng 7
năm 1956, Cục Công nghiệp nhẹ đề nghị Bộ Công nghiệp xin được khắc con dấu
cho một số xí nghiệp trong đó có nhà máy thuốc lá Hà nội.
Kết quả sản xuất thử đã khẳng định thực tế và triển vọng mở rộng công
nghệ thuốc lá. Cuối năm 1956, Nhà nước quyết định chuyển bộ phận sản xuất
từ nhà máy Diêm về khu vực tiểu thủ công nghệ Hà Đông, nhằm ổn định và
phát triển sản xuất. Ngày 20 tháng 11 năm 1956, Cục Công nghiệp nhẹ chính
thức nhận địa điểm mới ở Hà Đông và bàn giao cho Ban chuẩn bị sản xuất
thuốc lá.
Tại địa điểm mới, dường như mọi việc phải bắt đầu từ đầu. Khu tiểu thủ
công nghệ Hà Đông vốn là khu tôn 14 gian do Mỹ viện trợ cho Pháp, lâu ngày bị
bỏ hoang. Nhưng được sự giúp đỡ tận tình và chu đáo của tỉnh uỷ Hà Đông và
nhân dân địa phương, toàn bộ cán bộ công nhân viên nhà máy với tinh thần
làm việc “bằng hai” đã không quản ngại khó khăn, lao động cật lực, cải tạo
những gian nhà đổ nát kia thành xưởng máy. Cuối năm 1956, 4 máy sản xuất

thuốc lá và một số phụ tùng nhãn hiệu Trung Quốc đã được đưa từ khu triển
lãm Yết Kiêu về. Lực lượng thì quá mỏng, công việc lại bề bộn, trình độ kỹ thuật
cơ khí còn yếu kém, phụ tùng lắp đặt vừa thiếu vừa không đồng bộ... nhưng các
cán bộ kỹ thuật đã kiên trì tìm tòi để cuối cùng hình thành một dây chuyền sản
xuất: một máy thái, một máy tước cuộng, một máy cuốn, bảo đảm chu trình
sản xuất của nhà máy.
Song song với việc chuẩn bị cho sự vận hành của quá trình sản xuất, nhà
máy đẩy mạnh đầu tư kỹ thuật. Bộ phận nghiên cứu kỹ thuật của nhà máy tiếp
tục nghiên cứu có chiều sâu các khâu kỹ thuật: lên men, thái sợi, sấy sợi, phun
hương liệu... đồng thời tìm các giải pháp để diệt trừ mối mọt trong các kho
chứa nguyên liệu thuốc. Các công trình nghiên cứu của nhà máy cũng nhận
được sự phối hợp của viện vệ sinh dịch tễ, Tổng công ty Lương thực nhằm đảm
bảo chất lượng sản phẩm, vừa giữ gìn môi trường sinh thái.Vóc vẻ của một cơ
sở sản xuất thuốc lá đã thực sự được hình thành ở những đường nét cơ bản
nhất.
Như vậy, sau hơn một năm vừa khảo sát tình hình vừa chuẩn bị, qua 3 lần di
chuyển địa điểm, từ hai bàn tay trắng, vượt qua muôn vàn khó khăn, đứa con
đầu lòng của ngành thuốc lá XHCN VN đã chào đời. Ngày 1 tháng 6 năm 1957
đã trở thành ngày lịch sử của Nhà máy .
1.2. Quá trình phát triển qua các giai đoạn của Nhà máy:
Quá trình hình thành và phát triển của Nhà máy được chia ra làm 3 giai
đoạn:
- Giai đoạn 1956-1975: Đây là giai đoạn đầu sau khi Nhà máy chính thức
thành lập, toàn bộ cán bộ công nhân Nhà máy khẩn trương bắt tay vào lao
động sản xuất để có được những bao thuốc đầu tiên kịo thời phục vụ nhân dân
nhân dịp Tết nguyên đán (1957). Tính từ 6/1/1957 đến ngày 30/2/1957 Nhà
máy đã giao nộp cho Công ty phát hành cấp 1 là 100000 bao thuốc lá Thăng
Long, vượt chỉ tiêu kế hoạch của Bộ công nghiệp giao.
Tháng 4 năm 1957, Nhà nước trang bị cho Nhà máy 3 máy cuốn điếu Tiệp
Khắc, 1 máy đóng bao Trung Quốc. Năm 1958 cấp thêm 1 máy thái Tiệp Khắc

và sau đó lại bổ sung hợp đồng 1 máy thái, 1 máy cuốn Tiệp Khắc nhờ đó mà
cơ cấu ngành nghề của Nhà máy đi vào ổn định.
Đến năm 1964, giá trị tổng sản lượng của Nhà máy đạt 30968458 đồng tăng
gấp hai lần tổng sản lượng năm 1958 và 18 lần năm 1957. Ngoài việc thoả
mãn nhu cầu trong nước Nhà máy còn dành một khối lượng lớn để xuất khẩu
(năm 1964 xuất khẩu sang các nước bạn là 31117 bao).
Năm 1966, chiến tranh xâm lược của Mỹ mở rộng ra miền Bắc, trong tình
thế khẩn trương Đảng bộ Nhà máy xác định “Phải coi sản xuất như chiến đấu,
coi xí nghiệp như chiến trường, coi như mệnh chiến đấu, từ đó vượt qua mọi
khó khăn trong bất cứ tình huống nào với các biện pháp tích cực”. Trong lúc
này để sản xuất ổn định và phát triển cần bảo vệ lực lượng lao động và
phương tiện vật chất kỹ thuật.
Từ giữa năm 1966, Nhà máy chuyển sang phương án sơ tán. Bộ phận thứ
nhất chuyển lên Lạng Sơn xây dựng hoàn chỉnh khu sản xuất T2, bộ phận thứ 2
lên Ba Thá lập cơ sở T3. Năm 1967 Nhà máy xây dựng thêm cơ sở sản xuất T4
ở khu lăng Hoàng Cao Khải và cơ sở T5 ở Kim Anh-Vĩnh Phúc.
Sau 20 năm phấn đấu không mệt mỏi đã cho thấy một Thăng Long vừa dũng
cảm trong chiến đấu vừa năng động trong sản xuất kinh tế. Sức sống Thăng
Long là sức sống tập thể đoàn kết, chia sẻ ngọt bùi, cùng phát huy trí tuệ và sự
khéo léo của người công nhân yêu lao động.
- Giai đoạn từ 1975 đến 1986:
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ ba, hàng nghìn sáng kiến khoa học kỹ thuật
được đề xuất, trong đó có 314 sáng kiến được áp dụng, làm lợi cho Nhà máy
2355433 đồng. Giá trị sản phẩm đạt mức trung bình là 200 triệu bao/năm,
riêng năm 1985 đạt 235980000 bao. Điều đáng chú ý là sản phẩm Thăng Long
vừa đa dạng về chủng loại, vừa đáng tin cậy về chất lượng, các mặt hàng thuốc
lá đầu lọc xuất hiện ngày càng nhiều và chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu
sản phẩm.
- Thời kỳ đổi mới (1986 đến nay):
Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI, Đảng khởi xướng chuyển

sang nền kinh tế thị trường, xoá bỏ chế độ độc quyền phân phối thuốc lá từ
năm 1987 làm cho thị trường có nhiều thay đổi và biến đổi lớn. Đã làm cho
Nhà máy lâm vào tình trạng bế tắc, sản lượng năm 1986 là 255,066 triệu bao
xuống còn 171,730 triệu bao trong năm 1989, nhịp độ sản xuất cùng với khả
năng tiêu thụ đều giảm, lao động dư thừa so với nhu cầu sản xuất nhưng đây
là tình trạng chung của các doanh nghiệp lúc bấy giờ. Với sự nỗ lực của toàn
thể cán bộ công nhân viên, Nhà máy đã vượt qua thử thách đó. Đồng thời để
theo kịp sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, Nhà máy đã nhập
hàng loạt thiết bị mới, do vậy số lượng sản phẩm sản xuất tăng lên nhanh
chóng. Năm 1992 là 130,646 triệu, năm 1994 là 156,345 triệu bao, tỷ lệ thuốc
lá đầu lọc năm 1992 chiếm 47,77% tới năm 1994 là 82%.
Sự nỗ lực vượt bậc đã đưa Thăng Long trở thành một trong những cơ sở sản
xuất năng động và có hiệu quả trong cơ chế thị trường. Năm 1991, doanh thu
của Nhà máy là 150 tỷ đồng trong đó nộp ngân sách là 52,74 tỷ đồng, năm
1995 doanh thu đã lên tới 526,827 tỷ đồng (nộp ngân sách là 215,645 tỷ đồng).
Đến năm 2000, doanh thu đạt 583,904 tỷ đồng (nộp ngân sách 227,024 tỷ
đồng), năm 2001 doanh thu đạt 616,000 tỷ đồng (nộp ngân sách 227,500 tỷ
đồng).
Về sự phát triển đầu tư, chưa tính đến công trình hợp tác của Dunhill, Nhà
máy cơ bản đã hoàn thiện và đưa vào sử dụng có hiệu quả các công trình đầu
tư theo chiều sâu, theo luận chứng kinh tế kỹ thuật 1991-1995 với số vốn là 78
tỷ đồng. Năm 1996, Nhà máy đã có 51 sáng kiến làm lợi 380 tỷ đồng. Hiện nay,
Nhà máy đang mở rộng theo hướng sản xuất kinh doanh bằng cách hợp tác
với Rothmans của Anh quốc để lập dây chuyền sản xuất thuốc lá Dunhill tại
Nhà máy. Hợp tác với hãng Tobaco và BAT (Bristish American Tobaco).
Để phục vụ chủ trương gián tem thuế các sản phẩm thuốc lá đều áp dụng từ
ngày 01/04/2000, Nhà máy đã tự nghiên cứu, thiết kế chế tạo thành công máy
dán tem cho thuốc lá bao cứng. Sáng kiến này đã tiết kiện được một lượng
ngoại tệ đáng kể thay thế cho việc nhập thiết bị từ nước ngoài, duy trì và phát
triển tốt dây chuyền công nghệ chế biến sợi hiện đại của Trung Quốc đã đáp

ứng cho sản xuất thuốc lá bao và hỗ trợ nhu cầu nguyên liệu cho các doanh
nghiệp.
1.3. Chức năng, nhiệm vụ của Nhà máy:
Chức năng và nhiệm vụ của Nhà máy là sản xuất các loại thuốc lá có và
không có đầu lọc để từng bước đưa sản phẩm thuốc lá vào thị trường. Do đó
đòi hỏi Nhà máy phải từng bước cụ thể hoá nhiệm vụ chủ yếu này theo các
bước:

×