Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, từ thực tiễn toà án nhân dân tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (826.49 KB, 92 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG TH THU

THựC HIệN NHIệM Vụ, QUYềN HạN CủA THẩM PHáN
TRONG XéT Xử SƠ THẩM Vụ áN HàNH CHíNH,
Từ THựC TIễN TOà áN NHÂN DÂN TỉNH HảI DƯƠNG

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2020


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG TH THU

THựC HIệN NHIệM Vụ, QUYềN HạN CủA THẩM PHáN
TRONG XéT Xử SƠ THẩM Vụ áN HàNH CHíNH,
Từ THựC TIễN TOà áN NHÂN DÂN TỉNH HảI DƯƠNG
Chuyờn ngnh: Lut Hin phỏp v Lut Hnh chớnh
Mó s: 8380101.02

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. V TH THU QUYấN

H NI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hoàng Thị Thuỷ


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ NHIỆM
VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ
THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP TỈNH ..................................................................................... 8
1.1.

Khái niệm, đặc điểm, vai trò của xét xử sơ thẩm vụ án hành

chính của Toà án nhân dân cấp tỉnh.............................................. 8

1.1.1. Khái niệm vụ án hành chính và xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ........................................................... 8
1.1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh ......................................................................................... 11
1.1.3. Vai trò xét xử án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.............. 15
1.2.

Thẩm quyền, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của
Toà án nhân dân cấp tỉnh ............................................................ 20

1.2.1. Thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ..... 20
1.2.2. Thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án nhân cấp tỉnh..... 23
1.2.3. Vai trò của thẩm phán trong xét xử án hành chính của Tòa án
nhân dân cấp tỉnh........................................................................... 27
1.3.

Các điều kiện đảm bảo xét xử án hành chính của Toà án
nhân dân cấp tỉnh ........................................................................ 28

1.3.1. Điều kiện chính trị ......................................................................... 28
1.3.2. Điều kiện pháp lý .......................................................................... 29
1.3.3. Điều kiện về giám sát .................................................................... 31
1.3.4. Điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện, kỹ thuật .......................... 32


1.4.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm

vụ án ở Toà án nhân dân cấp tỉnh theo pháp luật hiện hành ...... 32

1.4.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong quá trình chuẩn bị
xét xử ........................................................................................... 33
1.4.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tại phiên tòa sơ thẩm xét
xử vụ án hành chính....................................................................... 37
1.4.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong việc nghiên cứu hồ
sơ vụ án ........................................................................................ 40
1.5.

Những đặc thù về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét
xử sơ thẩm vụ án hành chính so với xét xử các loại vụ án khác ......... 41

Tiểu kết Chương 1 .................................................................................. 43
CHƯƠNG 2: CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ THỰC TRẠNG THỰC
HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở TÒA ÁN NHÂN
DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG............................................................ 44
2.1.

Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính
của Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương ......................................... 44

2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Hải Dương .................... 44
2.1.2. Cơ cấu tổ chức, điều kiện cơ sở vật chất của Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương .................................................................................... 45
2.2.

Thực trạng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán

trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Toà án nhân dân
tỉnh Hải Dương ............................................................................ 47

2.2.1. Kết quả xét xử sơ thẩm án hành chính của Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương trong 5 năm gần đây..................................................... 47
2.2.2. Đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
trong xét xử sơ thẩm án hành chính của Tòa án nhân dân tỉnh Hải
Dương trong 5 năm gần đây ........................................................... 49
Tiểu kết Chương 2 .................................................................................. 61


CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN TRONG
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG ............................................... 62
3.1.

Quan điểm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở Toà án
nhân dân tỉnh Hải Dương ............................................................ 62

3.1.1. Để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính cần giải quyết hài hoà mối quan
hệ giữa tính độc lập của Thẩm phán và nguyên tắc Đảng lãnh đạo
hoạt động tư pháp .......................................................................... 62
3.1.2. Để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính cần giải quyết hài hoà mối quan
hệ giữa tính độc lập của Thẩm phán và sự lãnh đạo hành chính
của Toà án..................................................................................... 63
3.1.3. Để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong

xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, cần bảo đảm sự hài hoà giữa
địa vị pháp lý và trách nhiệm pháp lý của người Thẩm phán ............ 64
3.2.

Giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán trong xét xử vụ án hành chính ở Toà án nhân dân tỉnh
Hải Dương ................................................................................... 66

3.2.1. Nhóm giải pháp chung ................................................................... 66
3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể ................................................................... 72
Tiểu kết Chương 3 .................................................................................. 79
KẾT LUẬN ............................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 82


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HĐXX

Hội đồng xét xử

HTND

Hội thẩm nhân dân

Luật TTHC

Luật tố tụng hành chính

TAND


Tòa án Nhân dân

TTHC

Tố tụng hành chính

UBND

Ủy ban Nhân dân

Viện KSND

Viện Kiểm sát Nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân (TAND) trong bộ máy Nhà nước
Việt Nam đã được xác định tại Hiến pháp năm 2013 như sau: “TAND là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp” [30]. Đây là lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 ghi nhận TAND là cơ
quan thực hiện quyền tư pháp – thể hiện sự công nhận Toà án là nhánh
quyền lực ngang bằng với các cơ quan giữ quyền lập pháp và cơ quan giữ
quyền hành pháp.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, TAND là cơ quan duy nhất

có quyền ra phán quyết về các tranh chấp trên cơ sở pháp luật, cũng như về
các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức. Quy định của Hiến pháp năm 2013 nêu trên cũng là cơ sở hiến định
cho việc mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong việc xét xử các loại án,
trong đó có án hành chính.
Sự phổ biến và phức tạp ngày càng tăng của các tranh chấp hành chính
ở Việt Nam kể từ Đổi mới (1986) đến nay cho thấy rõ sự cần thiết của hoạt
động xét xử các vụ án hành chính trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh nước
ta hiện nay, hoạt động quản lý hành chính Nhà nước còn rất nhiều bất cập,
hạn chế, tất yếu dẫn tới những tranh chấp và khiếu kiện. Vì vậy, cần thiết phải
có một cơ chế hữu hiệu nhằm giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện hành
chính, trong đó có cơ chế xét xử của Tòa án. Cơ chế xét xử của Toà án là
trọng tâm trong vấn đề này, vì Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền
phán quyết tính hợp pháp hoặc bất hợp pháp của quyết định hành chính hoặc
hành vi hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hoặc người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước, khi những quyết định và hành vi đó xâm hại
đến quyền lợi của mọi người dân, tổ chức.

1


Xây dựng cơ chế tài phán hành chính là một chủ trương lớn của Đảng
Cộng sản Việt Nam, gắn liền với các chủ trương về cải cách nền hành chính
quốc gia và cải cách hệ thống tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nêu rõ:
Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành
chính. Thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án phải
dần dần được đổi mới quyết liệt; để người dân tham gia tố tụng một
cách thuận lợi nhất, mối quan hệ giữa công dân và cơ quan công

quyền khi ra Tòa án là bình đẳng như nhau, không có sự chênh
lệch. Công tác công khai hóa các bản án, trừ những bản án thuộc
trường hợp không được công khai phải dần dần được tiến hành.
Mọi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được
thi hành cũng là một cơ chế phải được bảo đảm tuân thủ, các đối
tượng bị thi hành án phải nghiêm chỉnh chấp hành theo phán quyết
của Tòa án [4].
Trong thực tế, lần đầu tiên quyền khởi kiện vụ án hành chính của người
dân đã được ghi nhận tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
năm 1996. Pháp lệnh này cũng đầu tiên đã ghi nhận thẩm quyền của Toà án
trong việc giải quyết khiếu kiện hành chính. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung,
Pháp lệnh đã mở rộng thẩm quyền này của Toà án khi xét xử án hành chính.
Thẩm quyền đó tiếp tục được nhấn mạnh trong Luật TTHC năm 2010 (có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2011, thay thế Pháp lệnh 1996) và Luật
TTHC năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016.
Mặc dù vậy, thực tế cho thấy, trong quá trình áp dụng Luật TTHC năm
2015, các Tòa án, bao gồm TAND tỉnh Hải Dương, vẫn có sự lúng túng và có
nhiều cách hiểu không thống nhất, đặc biệt là về nhiệm vụ, quyền hạn của

2


Thẩm phán khi xét xử vụ án hành chính. Thực trạng đó đòi hỏi cần được
nghiên cứu toàn diện cả về phương diện lý luận và thực tiễn để kịp thời có
những giải pháp sửa đổi.
Trong bối cảnh nêu trên, bản thân là người đang công tác trong hệ
thống Tòa án nên học viên quyết định lựa chọn đề tài “Thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, từ thực
tiễn Toà án Nhân dân tỉnh Hải Dương” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật
học, với mong muốn góp phần giải quyết những vướng mắc trong thực tế, qua

đó nâng cao hiệu quả xét xử vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh và ở các địa
phương khác của nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tố tụng hành chính nói chung, quyền hạn, nhiệm vụ của Thẩm phán
trong TTHC nói riêng, là những vấn đề đã được nhiều cơ quan, tổ chức và cá
nhân nghiên cứu ở nước ta. Đã có một số công trình nghiên cứu công bố về
vấn đề này, trong đó có thể kể như:
- Cuốn sách “Tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng nhà nước
pháp quyền và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Cảnh
Hợp, Nguyễn Như Phát [19], trong đó các tác giả đã đi sâu phân tích vai trò
của tài phán hành chính trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền và hội
nhập quốc tế của nước ta;
- Luận án tiến sĩ luật học của Vũ Thị Hòa về “Bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong xét xử các vụ án hành chính ở Việt
Nam” [17], trong đó tác giả tập trung phân tích về những phương thức thức và
giải pháp bảo đảm quyền lợi của cá nhân, tổ chức khi xét xử các vụ án hành chính;
- Luận án tiến sĩ luật học của Trần Kim Liễu về “Tòa hành chính trong
nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân” [25], trong đó tác giả
tập trung nghiên cứu về vị trí, vai trò của tòa hành chính;

3


- Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Danh Tú về “Giải quyết khiếu kiện
hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” [35],
trong đó tác giả tập trung phân tích những phương thức và giải pháp giải quyết
các khiếu kiện hành chính nhằm bảo đảm quyền lợi của công dân, tổ chức;
- Luận án Tiến sĩ luật học của Hoàng Quốc Hồng về “Đổi mới tổ chức
và hoạt động của Tòa hành chính đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam hiện nay” [20], trong đó tác giả đi sâu phân tích và đề ra

những giải pháp nhằm đổi mới tổ chức hoạt động của Tòa hành chính trong
điều kiện hiện nay;
- Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Thị Hà về “Xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính ở Việt Nam” [16], trong đó tác giả tập trung phân tích thực trạng
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở nước ta hiện nay và đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hành chính sơ thẩm;
- Luận văn thạc sĩ luật học của Trần Thị Lâm về “Pháp luật về căn cứ
thụ lý vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay” [24], trong đó tác giả phân tích
làm rõ những căn cứ để thụ lý vụ án hành chính đúng quy định;
- Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Mạnh Hùng về “Thẩm quyền
xét xử hành chính của TAND” [22], trong đó tác giả đi sâu nghiên cứu thẩm
quyền xét xử các vụ án hành chính của TAND các cấp.
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp một lượng kiến
thức, thông tin lớn liên quan đến đề tài, là nguồn tham khảo quý báu cho học
viên khi thực hiện luận văn. Mặc dù vậy, hiện chưa có công trình nào nghiên
cứu hệ thống và toàn diện về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Hải
Dương. Vì vậy, luận văn này vẫn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu làm rõ thực trạng nhiệm vụ, quyền
4


hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở TAND tỉnh Hải
Dương trong những năm gần đây, từ đó đề xuất các giải pháp giải quyết
những khó khăn, vướng mắc, qua đó nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử vụ
án hành chính ở địa phương và trên cả nước ta trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ

cụ thể sau:
- Khái quát hoá những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đề tài, và
khung pháp luật hiện hành của nước ta về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm
phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính.
- Phân tích bối cảnh, thực trạng, những kết quả và hạn chế, xác định
nguyên nhân dẫn tới những kết quả và hạn chế trong việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở TAND
tỉnh Hải Dương trong khoảng 5 năm gần đây.
- Nêu ra các phương hướng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính ở TAND tỉnh Hải Dương và ở các tỉnh khác của nước ta trong
những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở TAND
tỉnh Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, không
mở rộng nghiên cứu các vấn đề khác trong hoạt động tố tụng của Toà án.

5


Về mặt không gian, luận văn chỉ tập trung khảo sát thực tiễn thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở
TAND tỉnh Hải Dương, không mở rộng nghiên cứu sang các địa phương khác.
Về mặt thời gian, luận văn chỉ khảo sát, phân tích thực trạng thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở

TAND tỉnh Hải Dương trong khoảng 5 năm gần đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và một số lý thuyết về tài phán hành chính
để làm cơ sở phân tích các vấn đề đặt ra.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học
xã hội như tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh để làm rõ các vấn đề nghiên
cứu đặt ra.
Thêm vào đó, với tư cách là một cán bộ làm việc tại địa bàn nghiên
cứu, tác giả còn sử dụng phương pháp quan sát thực tế và khảo sát xã hội học
(phỏng vấn) một số Thẩm phán, Thư ký TAND tỉnh Hải Dương để thực hiện
luận văn này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện
những vấn đề lý luận về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong
xét xử sơ thẩm vụ án hành chính trong hệ thống Toà án ở nước ta trong thời
gian tới, thông qua thực tế ở TAND tỉnh Hải Dương.
Luận văn có thể xem là tài liệu tham khảo hữu ích cho TAND tỉnh Hải
Dương và những Toà án của các địa phương khác ở nước ta trong việc nâng
cao hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ
thẩm vụ án hành chính.
6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về nhiệm vụ, quyền hạn

của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của TAND cấp tỉnh.
Chương 2: Các yếu tố ảnh hưởng và thực trạng thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở TAND
tỉnh Hải Dương.
Chương 3. Phương hướng, giải pháp bảo đảm thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Thẩm phán trong xét xử sơ thẩm vụ án hành chính ở TAND
tỉnh Hải Dương.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ NHIỆM VỤ,
QUYỀN HẠN CỦA THẨM PHÁN TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính của Toà án nhân dân cấp tỉnh
1.1.1. Khái niệm vụ án hành chính và xét xử sơ thẩm vụ án hành
chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Tại Việt Nam, trước khi Tòa hành chính ra đời, vấn đề giải quyết khiếu
nại, tố cáo đối với các quyết định và hành vi của cơ quan có thẩm quyền cũng
đã được quan tâm. Nhưng do chịu ảnh hưởng của các nước XHCN trước đây
nên trong thời kỳ này mức độ quan tâm giải quyết chỉ là theo thủ tục khiếu
nại, đồng thời chỉ thừa nhận các khiếu nại hành chính mà chưa thừa nhận
khiếu kiện hành chính phát sinh giữa công dân, cơ quan, tổ chức với các cơ
quan công quyền [24, 35].
Xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn cuộc sống xã hội đòi hỏi phải có cơ
quan tài phán hành chính độc lập, bằng con đường tư pháp để giải quyết các
mâu thuẫn trong quá trình quản lý hành chính nhà nước nên việc thành lập
Toà hành chính trong hệ thống Toà án đã được quyết định trong Nghị quyết

Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII ngày
23/01/1995 [26, 35]. Tiếp theo, Luật tổ chức TAND sửa đổi, bổ sung đã được
thông qua ngày 28/10/1995, theo đó, TAND chính thức được giao chức năng
xét xử các vụ án hành chính. Khái niệm “vụ án hành chính”, “xét xử vụ án
hành chính” xuất hiện từ đó và ngày càng trở nên phổ biến hơn [24, 35].
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “vụ” là “sự việc không hay, rắc rối cần
phải giải quyết”, “án” là “tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa
án” [37, tr.1130].

8


Trong thực tế, Luật TTHC 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành
không có điều khoản nào quy định cụ thể về khái niệm vụ án hành chính,
nhưng có thể hiểu vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp hành chính được
Tòa án có thẩm quyền thụ lý theo yêu cầu khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ
chức để bảo vệ quyền lợi của họ khi mà cơ quan quản lý hành chính Nhà
nước; cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quyền quản lý hành chính Nhà
nước xâm hại đến quyền lợi của họ [24, 35].
Như vậy, vụ án hành chính chỉ phát sinh khi có yêu cầu khởi kiện của
cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính
theo quy định tại khoản 1, 2, 3, 4 Điều 30 Luật TTHC (trừ các quyết định theo
quy định tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều 30 Luật TTHC năm 2015). Theo
đó, đơn khởi kiện là căn cứ đầu tiên để Tòa án tiến hành xem xét có tiến hành
công đoạn thụ lý đơn hay không; nhưng không phải trong mọi trường hợp
Tòa án thụ lý đơn khởi kiện cũng phát sinh vụ án hành chính [24, 35]. Pháp
luật quy định rất chặt chẽ đối với các trường hợp trả lại đơn khởi kiện (08
trường hợp quy định từ điểm a đến điểm h khoản 1 Điều 123 Luật TTHC),
việc nhận đơn, xử lý đơn của Thẩm phán được phân công và công tác thụ lý
đơn khởi kiện vụ án phải bảo đảm theo đúng quy định. Nếu đơn khởi kiện

không thuộc trường hợp phải trả lại thì sau khi sau khi nghiên cứu, nếu thấy
thuộc thẩm quyền của cấp mình thì Thẩm phán được phân công giải quyết
đơn có trách nhiệm phải thông báo cho người khởi kiện biết bằng văn bản để
thực hiện nghĩa vụ nộp tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm theo quy định.
Căn cứ quy định tại Điều 125 Luật TTHC thì Tòa án thụ lý vụ án vào ngày
người khởi kiện xuất trình biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án.
Trường hợp người khởi kiện là đối tượng được miễn nộp tiền tạm ứng án phí
hoặc không phải nộp tạm ứng án phí thì ngày thụ lý chính là ngày Thẩm phán
phải thông báo cho họ biết việc Tòa án đã thụ lý vụ án, việc thụ lý phải vào sổ

9


thụ lý của Tòa án. Do đó, chỉ xuất hiện vụ án hành chính khi các công đoạn
trên đã hoàn tất [24, 35]. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án sẽ phải
tự định hướng xây dựng hồ sơ, tìm kiếm các tài liệu chứng cứ cần thiết để giải
quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Thực tiễn đời sống xã hội cho thấy các tranh chấp phát sinh ngày càng
có xu hướng gia tăng, đa dạng, phức tạp. Chính vì vậy, Pháp luật Việt Nam
cũng như các nước khác đều có các quy định rõ ràng đối với từng loại tranh
chấp trong các lĩnh vực khác nhau. Vì thế, việc xác định thẩm quyền giải
quyết của các cơ quan hành chính nhà nước, hay là của Tòa án, cần phải căn
cứ vào tùy từng loại tranh chấp cụ thể [24, 35]. Tranh chấp hành chính là
“tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực khác nhau của hoạt động hành chính
nhà nước”, rất khác với các loại tranh chấp khác. Tranh chấp hành chính là
tranh chấp giữa đối tượng quản lý hành chính và chủ thể quản lý hành chính
nhà nước, khi đối tượng quản lý hành chính nhà nước cho rằng quyền lợi của
mình đã bị xâm phạm do chủ thể quản lý hành chính nhà nước sử dụng quyền
lực [24, 35]. Các tranh chấp hành chính có hai cách để giải quyết, đó là: theo
trình tự, thủ tục giải quyết tại Tòa án theo quy định của Luật TTHC hoặc theo

thủ tục giải quyết khiếu nại tại cơ quan quản lý hành chính nhà nước và cơ
quan cấp trên của cơ quan đó. Nếu các tranh chấp hành chính được giải quyết
tại Tòa án thì vụ án hành chính xuất hiện và trình tự giải quyết phải tuân theo
các trình tự thủ tục tố tụng (Luật TTHC) [23, 26].
Việc trao cho Tòa án chức năng xét xử các vụ án hành chính tạo ra cơ
chế riêng, công khai, độc lập, dân chủ, khách quan, công bằng hơn để bảo vệ
quyền lợi của người dân trước tình huống bị xâm hại bởi chủ thể quản lý hành
chính nhà nước [23, 26]. Xét xử là hoạt động thể hiện chức năng đặc thù của
Tòa án là chức năng xét xử. Các phán quyết của Tòa án (bản án, quyết định)
phải thông qua hoạt động xét xử, nếu không thông qua hoạt động xét xử của

10


Tòa án thì không được coi là phán quyết và bản án, quyết định của Tòa án
chính là kết quả xét xử khách quan, trung thực nhất [23, 26].
Tóm lại, ở góc độ khái quát, có thể hiểu xét xử vụ án hành chính là việc
đưa vụ án hành chính ra xét xử công khai tại phiên tòa của Tòa án có thẩm
quyền khi có đủ căn cứ do pháp luật quy định. Ở góc độ cụ thể hơn, có thể
hiểu xét xử vụ án hành chính là gồm các thao tác: nghiên cứu đơn, nếu thuộc
trường hợp đủ điều kiện thụ lý thì thông báo nộp tiền tạm ứng án phí, đảm
bảo các điều kiện về nộp tạm ứng án phí (hoặc được miễn, không phải nộp)
tiến hành thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ tài liệu, nghiên cứu hồ sơ, các hoạt
động chuẩn bị xét xử và cuối cùng là mở phiên tòa [23, 26]. Các hoạt động
nêu trên phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục của Luật TTHC.
Từ những phân tích ở trên, có thể định nghĩa xét xử vụ án hành chính
của TAND cấp tỉnh là việc TAND cấp tỉnh nghiên cứu đơn, thụ lý vụ án, thu
thập chứng cứ tài liệu, nghiên cứu hồ sơ, và mở phiên tòa để xem xét, đánh
giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
hành chính nhà nước; cơ quan, tổ chức được giao quyền quản lý hành chính

hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước bị khởi kiện.
1.1.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án nhân
dân cấp tỉnh
Xét xử sơ thẩm vụ án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh có
những đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, về đương sự trong vụ án hành chính
Xét xử vụ án hành chính là xét xử các tranh chấp phát sinh giữa chủ thể
sử dụng quyền lực nhà nước khi quản lý hành chính và đối tượng quản lý
hành chính nhà nước, do việc ban hành quyết định hay thực hiện hoặc không
thực hiện hành vi hành chính. Người bị kiện trong vụ án hành chính bao giờ
cũng là cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện

11


quản lý hành chính Nhà nước, hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ
chức đó và người khởi kiện là đối tượng quản lý nhà nước. Do đó, nếu có căn
cứ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì pháp luật
cho phép đối tượng quản lý hành chính nhà nước có quyền khởi kiện chủ thể
quản lý hành chính nhà nước [16, 19]. Đây cũng là điểm đặc trưng nhất so với
xét xử các vụ án kinh doanh thương mại, hình sự.
Qua những phân tích nêu trên thấy rằng, người bị kiện trong vụ án
hành chính luôn là chủ thể quản lý hành chính nhà nước. Khi các chủ thể
này thực hiện các nhiệm vụ, công vụ của mình đã ban hành các quyết định
hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính để đặt ra các quy định buộc
đối tượng bị quản lý phải thực hiện nếu không thì có thể bị cưỡng chế để
buộc thực hiện [17, 19].
Bản chất của hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động
điều hành - chấp hành, không có sự bình đẳng tuyệt đối giữa chủ thể quản
lý hành chính nhà nước và đối tượng quản lý. Vì vậy, xét xử vụ án hành

chính sẽ góp phần quan trọng tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ giữa hai
chủ thể này [17, 19].
- Thứ hai, về đối tượng xét xử trong vụ án hành chính
Các tranh chấp trong lĩnh vực hành chính chính là đối tượng để xét xử
trong vụ án hành chính. Những tranh chấp này xoay quanh các quyết định
hành chính và hành vi hành chính. Khi cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức được giao quyền hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà
nước đó thực hiện nhiệm vụ công vụ của mình ban hành ra quyết định hành
chính theo quy định tại Điều 30 Luật TTHC (trừ các điểm a, b, c khoản 1 điều
30) mà người dân, cơ quan tổ chức - đối tượng quản lý hành chính cho rằng
quyết định đó xâm phạm quyền của mình thì có quyền khởi kiện vụ án hành
chính để bảo vệ các quyền lợi của chính mình. Khi thực hiện chức năng quản

12


lý nhà nước, cơ quan nhà nước có quyền ban hành quyết định hành chính hay
thực hiện hành vi hoặc không thực hiện hành chính nhất định. Tính quyền lực
nhà nước thể hiện rất rõ trong quyết định hành chính, thể hiện ở nội dung và
biện pháp bảo đảm thi hành quyết định. Khi quyết định hành chính được ban
hành, mọi người dân, cá nhân, cơ quan, tổ chức phải có nghĩa vụ thi hành, nếu
không thì có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc thực hiện. Tính “bất
bình đẳng” của quan hệ quản lý nhà nước làm nên tính chất đặc biệt của đối
tượng của vụ án hành chính [17, 19].
- Thứ ba, ở Việt Nam, ngành Luật TTHC còn non trẻ so với nhiều
ngành luật khác, các quy định của pháp luật hành chính đang trong quá trình
hoàn thiện nên không thể tránh khỏi những bất cập, hạn chế. Tòa hành chính
ở Việt Nam ra đời năm 1996, là tòa chuyên trách chuyên xét xử án hành chính
(cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Tòa cấp cao). Vì mới thành lập
nên hệ thống toà hành chính còn thiếu các Thẩm phán có kinh nghiệm, dẫn

đến chất lượng xét xử các vụ án hành chính bị ảnh hưởng. Thực tế cho thấy
Thẩm phán của nước ta còn ít kinh nghiệm trong việc giải quyết các vụ án
hành chính, đặc biệt là vụ án mà đối tượng bị kiện là hành vi hành chính. Bên
cạnh đó, trên thực tế, rất khó xác định như thế nào là hành vi hành chính,
trong khi đó, để thực hiện việc khởi kiện hành vi hành chính cần phải cung
cấp các căn cứ chứng minh quyền lợi của mình bị xâm phạm bởi hành vi hành
chính. Đặc biệt, với những hành vi hành chính là hành vi “không hành động”,
thì việc người dân hiểu như thế nào là hành vi không hành động của chủ thể
quản lý nhà nước để kịp thời thực hiện quyền khởi kiện của mình càng là một
vấn đề khó khăn. Đây cũng cần được xem là một đặc điểm quan trọng trong
xét xử vụ án hành chính để có giải pháp giải quyết.
- Thứ tư, tính độc lập của tòa án khi xét xử vụ án hành chính có thể bị
ảnh hưởng nhiều hơn so với các loại vụ án khác, do đặc thù về chủ thể và đối

13


tượng xét xử của vụ án hành chính. Việc tổ chức mô hình cơ quan xét xử theo
đơn vị hành chính lãnh thổ và những mối quan hệ phụ thuộc về tổ chức, nhân
sự giữa Tòa án với chính quyền địa phương đã gián tiếp ảnh hưởng tới chất
lượng xét xử nói chung, và đặc biệt là xét xử án hành chính nói riêng ở Việt
Nam. Ngoài ra, tính chất là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực
nhà nước là thống nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy
nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội cũng là một yếu tố chi phối đến hoạt động
trọng tâm của hệ thống tư pháp đó là công tác xét xử các vụ án, trong đó có
xét xử án hành chính. Biểu hiện cụ thể là quy trình bổ nhiệm Thẩm phán cũng
như bổ nhiệm các chức danh quản lý trong ngành tòa án phải được sự đồng ý
của cấp ủy địa phương. Điều đó dẫn đến sự phụ thuộc nhất định vào cấp ủy
đảng trong công tác bổ nhiệm, quy hoạch cán bộ tòa án; mà khi đã có sự phụ
thuộc thì ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến tính khách quan, công tâm của Thẩm phán

khi xét xử, đặc biệt là trong xét xử án hành chính.
Cụ thể, trong vụ án hành chính, bên bị kiện luôn là cơ quan nhà nước
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan đó ở địa phương nên rất dễ dẫn đến
tình trạng Thẩm phán e dè, nể nang, và thiếu công tâm. Trong thực tế, nhiều
Thẩm phán “ngại” xét xử án hành chính vì lý do này. Không chỉ vậy, cơ chế
quản lý hành chính giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị quản lý được quy
định trong pháp luật nước ta hiện nay còn chưa phân định rõ ràng. Thực tế là
chỉ đến khi Hiến pháp 2013 ra đời thì Toà án mới được khẳng định “..là cơ
quan xét xử của nước cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Như vậy, hiện tại nhận định Tòa án là cơ quan chịu sự quản lý của cơ quan
hành chính nhà nước (cơ quan thuộc nhánh quyền hành pháp) là không phù
hợp với quy định của Hiến pháp 2013. Tuy nhiên, ở một số địa phương hiện
vẫn tồn tại tư duy xem Tòa án cũng là đối tượng quản lý hành chính nhà nước
về tổ chức, hoạt động cũng như công tác chuyên môn. Tình trạng đó càng gây
khó khăn cho các Thẩm phán khi xét xử các vụ án hành chính.
14


Xét xử án hành chính và hoạt động quản lý hành chính có mối quan
hệ tương hỗ đối với nhau. Nếu quản lý hành chính tốt thì sẽ ít phải xét xử,
và ngược lại nếu quản lý hành chính không tốt, không hiệu quả thì việc xét
xử các vụ án hành chính sẽ gia tăng. Mặt khác, do ngành luật hành chính
còn non trẻ, đang trong quá trình hoàn thiện các quy định có liên quan, và
chủ thể là đặc thù trong quan hệ tranh chấp nên rất cần xây dựng cơ chế
đảm bảo tính độc lập của Tòa án nhằm mục đích đảm bảo hoạt động xét xử
án hành chính [19, 20].
1.1.3. Vai trò xét xử án hành chính của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Vai trò xét xử án hành chính của TAND cấp tỉnh thể hiện qua những
khía cạnh sau đây [19, 20]:
Một là: xét xử án hành chính của TAND cấp tỉnh góp phần bảo vệ

Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân; bảo vệ các quyền
và lợi ích chính đáng của công dân, cơ quan, tổ chức. Nói đến Nhà nước
pháp quyền là nói đến bảo đảm dân chủ và tổ chức quyền lực Nhà nước mà
vai trò pháp luật là thượng tôn. Để xây dựng được Nhà nước pháp quyền thì
mọi chủ thể trong nhà nước phải sống và làm việc theo Hiến pháp, mọi
người đều phải tôn trọng pháp luật, pháp luật phải xác định rõ ràng, chính
xác trách nhiệm của mình đối với xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Trong Nhà nước pháp quyền vấn đề lợi ích của nhân dân
luôn được đặt lên hàng đầu. Tinh thần đó hiện đã được thể hiện tại Hiến
pháp 2013, thể hiện qua quy định trong hoạt động xét xử của mình Tòa án
phải coi con người là trung tâm và mục đích của quyền lực Nhà nước phải là
bảo vệ quyền lợi của con người.
Sự ra đời của Tòa hành chính vào năm 1996 ở nước ta là phù hợp
với định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Pháp
luật TTHC hiện hành của nước ta đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục giải

15


quyết các vụ án hành chính; thông qua đó người dân có thể khởi kiện khi
quyền lợi bị xâm phạm trong quá trình quản lý hành chính nhà nước. Như
vậy, có thể thấy rằng ở xã hội Việt Nam hiện nay, mối quan hệ giữa bên
chấp hành - bên điều hành đã được nâng lên tầm cao mới, khác so với
quan niệm trước đây xem mối quan hệ giữa người dân và cơ quan nhà
nước luôn là “bất bình đẳng” [19, 20].
Như đã đề cập, những mâu thuẫn, bất đồng trong mối quan hệ giữa chủ
thể quản lý và đối tượng quản lý trong hành chính nhà nước là không thể
tránh khỏi, do vậy, sự xuất hiện của một cơ quan trung gian, khách quan để
giải quyết các tranh chấp là điều tất yếu. Thông qua việc xem xét, đánh giá
tính hợp pháp của các đối tượng bị khởi kiện sẽ góp phần giúp các bên hiểu

được quy định của luật pháp, nâng cao trách nhiệm của Nhà nước đối với
công dân và bản thân công dân đối với Nhà nước.
Hai là: xét xử án hành chính của TAND cấp tỉnh góp phần kiểm soát
quyền lực nhà nước, duy trì, bảo vệ và thúc đẩy phát triển trật tự quản lý nhà
nước, ổn định chính trị - xã hội:
Trong quan hệ TTHC thì chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước cũng
phải “ra tòa”. Đây là sự đổi mới về tư tưởng xây dựng luật pháp, qua đó cho
thấy rõ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc dùng quyền lực để
kiểm soát quyền lực – điều mà được nhấn mạnh trong Hiến pháp 2013.
Cụ thể, nguyên tắc khi xét xử án hành chính đó là “dùng quyền lực tư
pháp để kiểm soát quyền lực hành pháp”, thông qua đó góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nâng cao trách nhiệm của
cán bộ công chức. Thông qua hoạt động xét xử của mình, Tòa án có thẩm
quyền đưa ra các phán quyết về tính hợp pháp của các quyết định hành chính,
hành vi hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước. Trường hợp
quyết định hành chính, hành vi hành chính đó là trái luật hoặc nếu việc không

16


thực hiện hành vi hành chính là trái luật thì Toà án có quyền buộc người bị
kiện phải thực hiện. Ngoài ra, qua việc xét xử án hành chính, toà cũng chỉ ra
những thiếu sót của pháp luật hành chính, của hoạt động quản lý hành chính
nhà nước, từ đó các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thể kịp thời bổ
sung, sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp. Trường hợp các quyết định hành
chính, hành vi hành chính là hợp pháp thì đối tượng chịu tác động của quyết
định, hành vi đó phải nghiêm túc chấp hành mệnh lệnh hành chính, qua đó
thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, tạo sự ổn định chính trị
- xã hội. Đây có thể xem là một cách giám sát cơ quan quản lý nhà nước bằng
cơ quan tư pháp từ bên ngoài.

Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và
hoạt động của nhà nước, theo đó cán bộ, công chức nhà nước chỉ được làm
những điều pháp luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều
pháp luật không cấm. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật là thượng tôn,
mọi tổ chức, cá nhân và bản thân nhà nước phải tuyệt đối tuân thủ pháp luật
Thông qua việc xét xử án hành chính, cơ quan Nhà nước sẽ buộc phải cẩn
trọng hơn trong hoạt động, luôn phải đảm bảo duy trì tính pháp chế và dân
chủ. Do có thể khởi kiện trước toà hành chính, trong hoạt động, các cơ quan
quản lý hành chính cũng phải tự thân kiểm soát hoạt động của mình để không
bị “triệu tập ra tòa”. Các quy định Luật TTHC và pháp luật nội dung khi Tòa
án vận dụng để xét xử sẽ bảo đảm các quyền lợi hợp pháp của người khởi
kiện, sửa chữa phần nào được thiếu sót trong quản lý hành chính nhà nước
đồng thời cũng góp phần ngăn chặn tệ quan liêu, cửa quyền, lộng quyền, tham
nhũng; các chủ trương của Ðảng, pháp luật của nhà nước được từ đó được bảo
đảm thực hiện.
Ba là: xét xử án hành chính của TAND cấp tỉnh góp phần bảo đảm
bình đẳng, dân chủ và pháp luật được thực thi. Do các hoạt động của Nhà

17


nước đều hướng tới mục tiêu phục vụ con người, vì vậy, Nhà nước luôn cố
gắng thiết lập những thiết chế nhằm bảo đảm thực hiện mọi quyền của công
dân. Dù vậy, Nhà nước, trong quá trình thực hiện quyền hành pháp không thể
tránh khỏi việc sẽ xảy ra va chạm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đến quyền
và nghĩa vụ của công dân. Mặc dù công dân được làm tất cả những gì luật
không cấm, nhưng chỉ khi có một cơ chế bảo đảm và cơ chế thực thi ổn định,
hợp lý thì công dân mới thực hiện được hết các quyền của mình. Thực tế cho
thấy rằng, có một số quyền của công dân như: quyền nhân thân (khai sinh,
thay đổi tên, họ, cư trú…) tự do kinh doanh, quyền khiếu nại, tố cáo bị cản

trở, hoặc bị hạn chế bởi các thủ tục khác, và sự thiếu trách nhiệm của một số
cơ quan nhà nước, của một số cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước khi
thực thi công vụ. Đồng thời, do cơ chế chính sách trong nhiều trường hợp còn
có sự chồng chéo, rườm rà thậm chí còn phức tạp hóa, các quy trình, thủ tục
thiếu sự công khai, rõ ràng để triển khai thực hiện. Điều này tạo nên những
bức xúc của nhân dân và tranh chấp hành chính xảy ra là điều không thể tránh
khỏi. Trong bối cảnh đó, tòa án, với chức năng phán quyết những tranh chấp
hành chính, có trọng trách là xét xử các tranh chấp một cách khách quan, bình
đẳng, công bằng, dân chủ.
Bốn là: xét xử án hành chính của TAND cấp tỉnh góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Điều này là bởi
thông qua việc xét xử các vụ án hành chính, Tòa án sẽ đánh giá tính hợp pháp
của quyết định hành chính, hành vi hành chính, chỉ ra những điều đã làm
đúng và những điều vi phạm trong hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán
bộ, công chức. Theo đó, cũng chỉ ra những thiếu sót, bất cập và khiếm khuyết
trong hoạt động quản lý và điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước.
Tòa án có quyền tuyên bố đúng, sai và đưa ra phán quyết về việc hủy quyết
định hành chính, buộc thực hiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính; buộc cơ

18


×