Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.93 KB, 100 trang )

học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

Đỗ Thị phơng

hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh hải dơng
Chuyên ngành

: Lý luận và lịch sử về nhà nớc và pháp luật

Mã số

: 60 38 01

luận văn thạc sĩ luật học

Ngời hớng dẫn khoa học: TS. lê thanh vân

Hà Nội - 2009


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong luận văn có cơ
sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn chưa
từng được công bố trong các công trình khác.

Hà Nội, ngày

tháng


năm 2009

Tác giả luận văn

Đỗ Thị Phương


Môc lôc
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM

1.1. Khái quát về Hội đồng nhân dân
1.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân

6
6
19

Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG TỪ 2004 ĐẾN NAY

31

2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội tỉnh
Hải Dương

2.2. Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải
Dương từ 2004 đến nay

31
33

Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ GIÁM
SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

64

3.1. Quan điểm chỉ đạo về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
tỉnh Hải Dương
3.2. Giải pháp về tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của Hội

64

đồng nhân dân tỉnh Hải Dương

67

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

86
89
94



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

UBND

:

Ủy ban nhân dân

UBHC

:

Ủy ban hành chính

TAND

:

Tòa án nhân dân

VKSND

:


Viện kiểm sát nhân dân


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những nhiệm vụ quan
trọng mà toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang không ngừng phấn đấu thực hiện.
Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên quan
tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước nói chung, của
Hội đồng nhân dân nói riêng. Chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của
HĐND đó được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng, như: Văn kiện các
Đại hội VI, VII, VIII, IX, X của Đảng, Văn kiện Hội nghị giữa nhiệm kỳ
Khoá VII, Văn kiện Hội nghị Trung ương 8 Khoá VII, Văn kiện Hội nghị
Trung ương 3,7 Khoá VIII. Những quan điểm, chủ trương đổi mới tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân trong các văn kiện nêu trên đều được kịp
thời cụ thể hoá thành các quy định trong Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban nhân dân năm 2003, và một số văn bản pháp luật khác. Gần đây,
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Khoá X đề cập sâu đến mô hình tổ chức
Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường với việc thí điểm không tổ chức Hội
đồng nhân dân ở cấp này tại một số địa phương.
Cho đến nay, hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp đã có những
chuyển biến rõ rệt, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của sự nghiệp đổi
mới và xây dựng nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều báo cáo chính thức, hoạt động của
Hội đồng nhân dân các cấp nói chung và hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh nói riêng, vẫn còn biểu hiện hình thức; chưa thực hiện tốt vai trò,
chức năng như Luật định; hiệu lực, hiệu quả còn thấp, thậm chí trong dư luận
còn có ý kiến cho rằng Hội đồng nhân dân chưa có thực quyền.

Trong khi đó HĐND cấp tỉnh có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng; là
cầu nối giữa Trung ương và địa phương trong việc thực thi đường lối chính


2
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại địa phương và là nơi trực tiếp ra
các quyết định về những chủ trương chính sách lớn liên quan đến phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương. Hơn nữa, theo Khoản 2, Điều 3, Nghị quyết
số 725/2009/NQ - UBTVQH tại một số địa phương thí điểm không tổ chức
HĐND quận, huyện, phường, HĐND cấp tỉnh sẽ thực hiện thêm một số hoạt động
giám sát (giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Toà
án nhân dân huyện, quận). Vì vậy, việc đổi mới hoạt động giám sát của HĐND
cấp tỉnh nói chung và HĐND tỉnh Hải Dương nói riêng là rất cần thiết.
Căn cứ Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, HĐND tỉnh Hải
Dương tiến hành giám sát tại kỳ họp, giám sát của Thường trực HĐND, các
Ban của HĐND, đại biểu HĐND và tổ chức Đoàn giám sát. Hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh Hải Dương đó đạt được những thành tựu nhất định, hiệu
quả của hoạt động giám sát đã có bước phát triển. Các chủ thể giám sát đó
đưa ra được nhiều kiến nghị quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước; đối tượng giám sát đã có chọn lọc; địa bàn, lĩnh vực giám sát tiêu
biểu; thời gian giám sát phù hợp. Bên cạnh những ưu điểm kể trên hoạt động
giám sát của HĐND tỉnh Hải Dương vẫn còn những hạn chế như: còn mang
tính hình thức, giám sát chưa sâu, hiệu quả giám sát chưa cao; một số kiến
nghị còn chung chung chưa chỉ rõ thực chất của vấn đề giám sát, chưa nêu rõ
hướng khắc phục, việc thực hiện kiến nghị của cơ quan giám sát chưa
nghiêm; các cá nhân, cơ quan, tổ chức chịu sự giám sát chưa thực sự coi trọng
hoạt động giám sát.
Từ những vấn đề trên cho thấy rằng việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn
về hoạt động giám sát của HĐND nói chung, của HĐND tỉnh nói riêng là
nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt việc đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động giám

sát của HĐND tại một địa bàn cụ thể như tỉnh Hải Dương lại càng có ý
nghĩa thực tiễn rất quan trọng. Chính vì thế, tôi đó lựa chọn đề tài: "Hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương" làm Luận văn
Thạc sĩ luật học.


3
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân nói chung và
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nói riêng đã được nhiều đề tài tiếp cận. Có thể kể
ra đây một số công trình tiêu biểu sau:
- Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong điều kiện cải cách bộ
máy nhà nước hiện nay, PGS,TS Bùi Xuân Đức, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, 12/2003
- Quyền giám sát của Hội đồng nhân dân và kỹ năng giám sát cơ bản,
TS Phạm Ngọc Kỳ, (2001), Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Đổi mới hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nam Định,
Đề tài đó được bảo vệ thành công tháng 02/2009;
- Đổi mới hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hoá,
Đề tài đó được bảo vệ thành công tháng 3/2006;
- Nâng cao hiệu lực giám sát của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi
mới ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ Luật học, Vũ Mạnh Thông, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,1998;
- Năng lực thực hiện chức năng giám sát của HĐND tỉnh Hải Dương
đối với quản lý hành chính nhà nước về đất đai, Luận văn thạc sỹ Luật học,
Phạm Quang Hưng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007;
Tình hình trên cho thấy việc nghiên cứu hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nói riêng trong thập
niên đầu thế kỷ XXI đã có những bước phát triển đáng kể. Nhìn chung, các đề
tài dưới nhiều góc độ khác nhau đã đề cập đến các vấn đề về lý luận và thực

tiễn trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, như: chủ thể giám sát,
đối tượng giám sát, hình thức giám sát. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có
công trình nào nghiên cứu toàn diện và đầy đủ về hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân tỉnh trên một địa bàn cụ thể ở Hải Dương với tính chất là một
đề tài độc lập đi sâu nghiên cứu thực tiễn, để đánh giá mặt được, mặt chưa


4
được qua đó đưa ra được những giải pháp có giá trị thực tiễn nhằm tăng
cường hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu các qui định của pháp luật về vị trí, chức năng
của HĐND, khái niệm, đặc điểm, vai trò, yêu cầu hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh. Luận văn đi sâu vào trọng tâm là phân tích, đánh giá
thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương, từ đó
tìm ra các ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế. Trên cơ sở
đó, Luận văn sẽ đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nói chung và Hội đồng
nhân dân tỉnh Hải Dương nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của Luận văn là phân tích vị trí, chức năng của Hội đồng
nhân dân; khái niệm, đặc điểm, vai trò, yêu cầu hoạt động giám sát của
HĐND cấp tỉnh. Luận văn còn tập trung đi sâu phân tích thực trạng hoạt động
giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương để tìm ra ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế; trên cơ sở đó đưa ra quan điểm,
giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Hải Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận về hoạt động

giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và được giới hạn trong thực tiễn hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương từ năm 2004 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước kiểu
mới, về Hội đồng nhân dân, chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân.


5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác- Lênin kết hợp
với các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế,
xin ý kiến chuyên gia...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Với việc đi sâu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến hoạt động giám
sát của HĐND tỉnh Hải Dương, Luận văn sẽ có những đóng góp mới như sau:
- Luận văn sẽ góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận và thực tiễn về vị trí,
chức năng của Hội đồng nhân dân; khái niệm, đặc điểm, vai trò, yêu cầu của
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
- Đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh
Hải Dương từ 2004 đến nay.
- Luận văn đưa ra các quan điểm chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương.
- Đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương.
7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa cho việc nâng cao nhận
thức và kiến thức pháp lý trong hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh nói
chung, của HĐND tỉnh Hải Dương nói riêng; qua đó đưa ra được các giải pháp

để tăng cường hoạt động giám sát của HĐND tỉnh Hải Dương. Luận văn cũng
có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ hoạt động nghiên cứu giảng
dạy ở cấp tỉnh, hay những người quan tâm đến đề tài này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
Luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.


6
Chương 1
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

1.1.1. Vị trí, tính chất của Hội đồng nhân dân
Trên thế giới có nhiều học thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước,
nhưng chủ yếu chỉ dừng ở tổ chức quyền lực nhà nước ở trung ương với việc
phân chia quyền lực giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoặc đề cập tới việc
phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp chính
quyền ở địa phương. Lý luận mang tính học thuyết về tổ chức quyền lực nhà
nước ở cấp địa phương, cụ thể là cấp tỉnh, chưa hình thành rõ ràng. Tuy
nhiên, nguyên lý cơ bản nhất, xuyên suốt, đó là: HĐND là cơ quan dân cử ở
địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra để thay mặt nhân dân quyết định
những vấn đề cơ bản ở địa phương.
Theo qui định tại Điều 119 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001) và Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, thì: "Hội đồng
nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên"
[47, tr.185]. Như vậy, HĐND được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở

địa phương, cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và chịu trách nhiệm
trước cơ quan nhà nước cấp trên.
Hiện nay, bộ máy nhà nước ta được tổ chức thành bốn cấp hành chính:
cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Cấp trung ương là cấp vĩ mô, tổ
chức quản lý toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Cấp tỉnh, huyện, xã là cấp cụ thể hóa
các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của cơ quan nhà
nước cấp trên.


7
Như vậy, cấp tỉnh là cấp trung gian giữa chính quyền trung ương và
chính quyền địa phương, là cấp đầu tiên của chính quyền địa phương. Nếu
cấp trung ương là cấp đề ra chủ trương, chính sách thì cấp địa phương là
cấp tổ chức, thực hiện chủ trương, chính sách. Vì vậy, với vai trò là cấp
đầu tiên của chính quyền địa phương, cấp tỉnh là cấp quan trọng trong việc
chuyển tải chủ trương, chính sách từ trung ương xuống tới người dân. Quá
trình chuyển tải chính sách từ trung ương đến cơ sở, cấp tỉnh được pháp
luật trao cho những thẩm quyền nhất định trong việc thực hiện chức năng
quản lý trên địa bàn lãnh thổ. Xét dưới góc độ tự chủ và quyền tự quản của
nhân dân, thì cấp tỉnh là cấp có quyền tự chủ tương đối cao so với cấp
huyện và cấp xã, tác động tới hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung.
Chính vì vậy, HĐND cấp tỉnh càng khẳng định vị trí quan trọng trong hệ
thống bộ máy nhà nước. Đại hội X của Đảng chỉ rõ:
Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân... Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND và UBND,
đảm bảo quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa
phương trong phạm vi được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của
HĐND... [17, tr. 126-127].

HĐND cấp tỉnh là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân bầu ra,
quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương, một cấp ngay dưới cấp
trung ương. Vì vậy, HĐND cấp tỉnh có vị trí, vai trò quan trọng trong bộ máy
chính quyền địa phương, quyết sách những vấn đề trực tiếp ở địa phương, giải
quyết những khó khăn vướng mắc của nhân dân và quyết định hướng phát
triển cho kinh tế – xã hội ở địa phương mình.
HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương, nhưng tính chất đại
diện của HĐND khác với tính chất đại diện của Quốc hội. Theo Hiến pháp
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của


8
nhân dân (Điều 83) và đại biểu Quốc hội là người đại diện cho nhân dân cả
nước (Điều 97); còn HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương và
đại biểu HĐND là người đại diện cho nhân dân địa phương, chịu trách nhiệm
trước nhân dân địa phương.
Tính chất đại diện của HĐND được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:
- Các đại biểu HĐND do cử tri bầu ra bằng hình thức phổ thông, bình
đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các cơ quan khác của chính quyền địa
phương không được thành lập theo trình tự này.
- HĐND có cơ cấu đại biểu đại diện cho các tầng lớp xã hội, các thành
phần xã hội được phân bổ trên các địa bàn lãnh thổ của địa phương.
- Các đại biểu HĐND là những người tiêu biểu, ưu tú trong nhân dân, đại
diện cho y chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương.
Tính chất quyền lực của HĐND thể hiện ở một số mặt sau:
- Căn cứ vào những quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm các chức vụ trong tổ chức của mình (Thường trực HĐND, các
Ban của HĐND);
- Căn cứ vào nhưng quy định của pháp luật, HĐND bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm các chức danh của UBND (là cơ quan chấp hành của mình, là cơ quan

hành chính nhà nước ở địa phương);
- Căn cứ vào nhưng quy định của Hiến pháp và pháp luật, HĐND ban
hành các Nghị quyết để triển khai các mặt công tác ở địa phương.
- HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương.
Tính chất đại diện và tính chất quyền lực của HĐND có quan hệ biện
chứng với nhau. Tính đại diện là tiền đề bảo đảm để HĐND trở thành cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương. Và chỉ có thể là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, HĐND mới có đủ quyền năng thực hiện được tính chất
đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng
ở địa phương.


9
Tuy HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng xét về vị trí pháp lý,
HĐND không giống với Quốc hội, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất.
Sự khác biệt ở đây không chỉ ở phạm vi, cấp độ mà ở thẩm quyền. Quốc hội
là cơ quan duy nhất có quyền làm Hiến pháp, làm luật, sửa đổi luật. HĐND
cũng là cơ quan quyền lực nhưng chỉ có quyền ban hành Nghị quyết trong
phạm vi địa phương.
Như vậy, với vị trí, tính chất của HĐND được quy định trong Hiến pháp
1992 và Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì HĐND vừa là một cơ
quan trong bộ máy nhà nước, vừa là chủ thể quyền lực, đại diện cho nhân dân
địa phương và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương,
giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, công dân ở địa phương nhằm phát huy tiềm năng của địa phương
trên mọi mặt kinh tế, xã hội.
1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân
Chức năng của Hội đồng nhân dân là những phương diện hoạt động
chủ yếu của Hội đồng nhân dân nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của Hội
đồng nhân dân.

Với vị trí, tính chất là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ
quan, đại diện cho nhân dân địa phương, Hội đồng nhân dân có các chức năng
cụ thể sau:
1.1.2.1. Chức năng quyết định
Chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương thuộc
thẩm quyền của Hội đồng nhân dân được quy định rõ đối với từng cấp từ Mục
1 đến mục 3, Chương II của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Đối
với cấp tỉnh, thì HĐND có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong
phạm vi địa phương như sau:
+ Quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội (Điều 11);
+ Quyết định về phát triển giáo dục, y tế, xã hội, văn hóa, thông tin, thể
dục, thể thao (Điều 12);


10
+ Quyết định về phát triển khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi
trường (Điều 13);
+ Quyết định về quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều 14);
+ Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo
(Điều 15);
+ Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 16);
+Quyết định về việc xây dựng chính quyền địa phương (Điều 17)
[47, tr.12- 33].
Chức năng này thể hiện ở các quyết định mà HĐND ban hành. Căn cứ
vào nội dung, quyết định được chia làm hai loại:
+ Các quyết định về biện pháp nhằm đảm bảo việc thi hành nghiêm
chỉnh Hiến pháp, pháp luật ở địa phương, hoàn thành nhiệm vụ do cơ quan
nhà nước cấp trên giao, hoàn thành nghĩa vụ đối với cả nước. Ví dụ: quyết
định về việc thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo; quyết định về việc thi
hành pháp luật...

+ Các quyết định về biện pháp xây dựng địa phương vững mạnh trên
các mặt: kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng chính quyền, ổn định
và nâng cao đời sống nhân dân. Ví dụ, như quyết định về quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế xã hội ở địa phương; quyết định về quốc phòng an ninh, trật
tự an toàn xã hội....
Khi nghiên cứu sâu hai loại quyết định này, chúng ta thấy chúng có
quan hệ chặt chẽ với nhau, quy định lẫn nhau. Nếu HĐND chỉ chú ý các biện
pháp xây dựng địa phương, xây dựng bộ máy chính quyền, chú ý đến lợi ích
của địa phương, không chú ý đến lợi ích chung của đất nước dễ sa vào cục bộ
địa phương, tự cô lập và không thể tạo ra được môi trường ổn định để phát
triển. Nhưng nếu chỉ chú ý đến loại quyết định vì lợi ích chung của đất nước
mà thiếu tính chủ động, sáng tạo trong việc đề ra các quyết định xây dựng địa
phương, thì các quyết định vì lợi ích chung sẽ không đáp ứng được mong mỏi


11
của nhân dân địa phương. Vì thế, trong việc ban hành quyết định phải đảm
bảo lợi ích chung của cả nước và lợi ích của nhân dân địa phương.
Như vậy, nội dung chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở
địa phương của HĐND là rất rộng, bao gồm tất cả mọi mặt đời sống kinh tế xã hội, văn hóa, khoa học, quốc phòng, an ninh... Điều này càng xác định rõ
hơn vị trí, vai trò và tầm quan trọng của HĐND đối với chính quyền địa
phương. Mặt khác, đây cũng là những căn cứ pháp lý tạo môi trường thuận lợi
để chính quyền địa phương khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có ở địa
phương nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân địa phương,
làm tròn mọi nhiệm vụ mà nhân dân và cấp trên giao cho.
1.1.2.2. Chức năng giám sát
Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: "Hội
đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường
trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp; giám sát việc tuân thủ
pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức y tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ

trang nhân dân và của công dân ở địa phương". Cụ thể, HĐND tổ chức
thực hiện và giám sát việc thực hiện các quyết định của HĐND trong phạm
vi địa phương. Các quyết định của HĐND đều được thể hiện dưới hình
thức nghị quyết. Vì thế, chức năng này được triển khai trên các mặt công
tác: tuyên truyền, phổ biến nghị quyết trong nhân dân qua hoạt động của
đại biểu, Tổ đại biểu và các cơ quan chức năng thuộc UBND; Thường trực
HĐND chỉ đạo, đôn đốc UBND triển khai thực hiện nghị quyết của HĐND,
trong đó có việc ban hành các văn bản cụ thể hóa (quyết định, chỉ thị) đề ra
các biện pháp thực hiện. HĐND giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp
luật và nghị quyết của các cơ quan chịu sự giám sat của HDND, giám sát
việc thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan nhà nước cùng cấp, thông qua
việc xem xét các báo cáo của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND,
UBND, TAND, VKSND cùng cấp, thông qua hoạt động của đại biểu


12
HĐND trong kỳ họp và giữa hai kỳ họp nhất là qua chất vấn của đại biểu
HĐND tại kỳ họp của HĐND.
Chức năng giám sát có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng quyết định
của HĐND. Chức năng giám sát là cơ sở kiểm nghiệm tính đúng đắn của các
quyết định trên thực tiễn, là biện pháp phát hiện kịp thời các vi phạm của mọi
chủ thể trong hoạt động tuân thủ pháp luật. Ngược lại, các quyết định về chủ
trương chính sách lớn tại địa phương là cơ sở cho hoạt động giám sát được
tôn trọng trên thực tế, tạo định hướng cho hoạt động giám sát tập trung vào
các vấn đề cấp bách của địa phương.
1.1.2.3. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển chức năng giám
sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
- Giai đoạn 1945- 1959
Ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, cơ chế giám
sát hoạt động của cơ quan nhà nước đã được đề cao, trong đó có việc nhân

dân giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước. Đối với bộ máy nhà nước, cơ
chế giám sát tự thân trong nội bộ các cơ quan nhà nước được thực hiện thông
qua việc cơ quan cấp trên giám sát cơ quan cấp dưới, cơ quan dân cử giám sát
cơ quan hành pháp và tư pháp.
Sắc lệnh số 63/SL ngày 23/11/1945, văn bản đầu tiên đặt nền móng cho
việc xây dựng chính quyền địa phương, đã có những quy định sơ khai về
quyền giám sát của HĐND cấp tỉnh. Mặc dù trong Sắc lệnh không có một quy
định nào nhắc đến hoạt động giám sát của HĐND tỉnh, nhưng thông qua
những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND tỉnh, có thể thấy hình
thức giám sát đầu tiên đã được quy định. Đó là quyền bỏ phiếu tín nhiệm
UBHC tỉnh và UBHC kỳ của HĐND tỉnh và hậu quả pháp lý của hình thức
giám sát này. Điều thứ 48 và 59 của Sắc lệnh số 63/SL qui định:
Khi một phần ba (1/3) tổng số hội viên tất cả các Hội đồng
nhân dân tỉnh yêu cầu phúc quyết Uỷ ban hành chính tỉnh thì Uỷ


13
ban hành chính tỉnh phải triệu tập ngay Hội đồng nhân dân tỉnh để
bỏ phiếu tín nhiệm... Nếu quá nửa tổng số hội viên của Hội đồng
nhân dân tỉnh bỏ phiếu không tín nhiệm UBHC thì UBHC tỉnh bắt
buộc phải từ chức...
Khi một phần ba tổng số hội viên tất cả các HĐND tỉnh yêu cầu
phúc quyết UBHC kỳ thì Bộ trưởng Bộ Nội vụ phái người về tổ chức
cuộc bỏ phiếu tín nhiệm... Nếu quá nửa tổng số hội viên HĐND tỉnh
không tín nhiệm UBHC kỳ thì UBHC kỳ phải xin từ chức... [3].
Có thể thấy rằng trong văn bản đầu tiên quy định về tổ chức và hoạt
động của chính quyền địa phương, thì quyền giám sát, hình thức giám sát và
đối tượng giám sát còn đơn giản, chỉ là UBHC tỉnh mà không có giám sát cá
nhân từng thành viên của UBHC.
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên được ban hành trong đó các quy định

về tổ chức và hoạt động của HĐND nói chung và HĐND cấp tỉnh nói riêng.
Tuy nhiên, phải đến năm 1958, văn bản luật đầu tiên quy định chi tiết về tổ
chức, hoạt động của HĐND, UBND được ban hành với tên gọi là Luật tổ
chức chính quyền địa phương. Trong Luật này, những quy định về “giám sát”
của HĐND tỉnh được mở rộng hơn, mặc dù cũng chưa có một điều nào ghi
nhận cụ thể HĐND có quyền giám sát. Khoản 5, 7, 8, Điều 7 của Luật quy
định quyền giám sát của HĐND tỉnh không chỉ còn giới hạn trong việc bỏ
phiếu tín nhiệm UBHC bao gồm:
1) Thẩm tra và phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách.
2) Thẩm tra các báo cáo công tác của UBHC cấp mình.
3) Sửa đổi hoặc huỷ bỏ những nghị quyết không thích đáng của UBHC
cấp mình, của HĐND và UBHC cấp dưới. Xét duyệt những nghị quyết của
HĐND và UBHC cấp dưới trong các trường hợp do luật lệ quy định.
- Giai đoạn 1959 - 1980
Giai đoạn này Nhà nước ta ban hành Hiến pháp 1959. Đây là Hiến
pháp đầu tiên của thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa kết hợp với


14
đấu tranh thống nhất đất nước. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản nhất
về HĐND cấp tỉnh, ngoài ra có đề cập một vài quyền của HĐND tỉnh gián
tiếp liên quan tới hoạt động giám sát ở khía cạnh hậu quả pháp lý, như: quyền
sửa đổi, bãi bỏ văn bản của UBHC cấp tỉnh, HĐND và UBHC cấp huyện; giải
tán HĐND cấp huyện ...
Năm 1962, Quốc hội ban hành Luật tổ chức HĐND và UBHC các cấp.
Chức năng giám sát của HĐND cấp tỉnh quy định trong Luật tổ chức HĐND
và UBHC năm 1962 so với Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 1958 ít
hơn về số lượng điều luật, chủ thể, đối tượng, hình thức và hậu quả pháp lý.
Tuy nhiên, một hình thức giám sát lần đầu tiên được đưa vào luật, đó là quyền
chất vấn của đại biểu HĐND. "Đại biểu Hội đồng nhân dân có quyền chất

vấn Uỷ ban hành chính và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban hành
chính” (Điều 33 ).
- Giai đoạn 1980-1992
Lần đầu tiên, quyền giám sát của HĐND được khẳng định trong một
văn bản pháp lý cao nhất - Hiến pháp 1980. Điều 115 khoản 12 quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND có đoạn: “Trong phạm vi nhiệm vụ và quyền
hạn của mình, giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, xí nghiệp
và các tổ chức khác của cấp trên ở địa phương”. Và quyền này tiếp tục được
quy định trong Điều 117 “Hội đồng nhân dân, căn cứ vào pháp luật của Nhà
nước và quyết định của cấp trên, ra những nghị quyết và kiểm tra việc thi
hành những nghị quyết đó”. Tuy Hiến pháp quy định HĐND “kiểm tra”
nhưng trong bối cảnh đó, có thể hiểu đây là hình thức đơn giản của quyền
giám sát của HĐND.
Phát triển những quy định này, Luật tổ chức HĐND và UBND năm
1983 quy định cụ thể hơn về quyền giám sát của HĐND cấp tỉnh. Chủ thể
hoạt động giám sát được mở rộng, gồm: HĐND, Ban của HĐND và đại biểu
HĐND. Trong đó, Ban của HĐND lần đầu tiên được hình thành.


15
Đối tượng giám sát cũng được mở rộng, không chỉ giới hạn UBND cấp
tỉnh mà còn gồm: thành viên UBND, thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc
UBND, HĐND cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cơ quan, đơn vị và
các tổ chức khác trên địa bàn tỉnh.
Nội dung giám sát cũng được mở rộng hơn, đó là: việc tuân theo pháp
luật, chính sách của nhà nước, nghị quyết của HĐND tỉnh của cơ quan, tổ
chức trên địa bàn tỉnh; công tác của các cơ quan do HĐND bầu, của các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, của Tòa án nhân dân tỉnh; báo cáo giải
quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri.
Hình thức giám sát được quy định đa dạng hơn, gồm: xem xét báo cáo

tại kỳ họp HĐND; chất vấn của Ban và của đại biểu HĐND; Ban thẩm tra báo
cáo, đề án trình HĐND; tiếp công dân, yêu cầu cơ quan hữu quan giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân.
Hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát cũng được quy định rõ hơn,
giúp hoạt động giám sát của HĐND tỉnh có thực quyền hơn với những chế tài
cụ thể, đó là: giải tán HĐND cấp huyện, ra nghị quyết về việc trả lời và trách
nhiệm của cơ quan hoặc người bị chất vấn.
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1983 đã xây dựng nền móng
tương đối cơ bản về chức năng giám sát của HĐND cấp tỉnh. Tuy vậy, các
quy định của pháp luật vế giám sát thời kỳ này cũng bộc lộ những hạn chế
nhất định. Cụ thể như, tại Điều 47 Luật tổ chức HĐND và UBND năm
1983 quy định: giữa hai kỳ họp HĐND, UBND được xét và giải quyết các
vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND cùng cấp. Đây là một mâu
thuẫn cơ bản khi UBND thực hiện một lúc hai chức năng vừa chức năng
của cơ quan hành pháp vừa chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước (khi
HĐND không họp). Quy định này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực hoạt
động giám sát, giảm hiệu quả hoạt động của HĐND, tạo nguy cơ lạm dụng
quyền lực trong bộ máy chính quyền địa phương. Chính vì vậy, trên cơ sở


16
tổng kết nhiệm kỳ hoạt động của HĐND các cấp 1985- 1989, sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội VIII (Tháng
6/1989), Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức HĐND và UBND năm
1983. Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1989, một cơ quan mới của
HĐND cấp tỉnh, huyện được thành lập với tên gọi là Thường trực HĐND.
Thường trực HĐND là cơ quan hoạt động thường xuyên, có nhiệm vụ bảo
đảm tổ chức các hoạt động của HĐND. Đối tượng giám sát của HĐND cấp
tỉnh được bổ sung thêm Thường trực HĐND, Viện trưởng viện kiểm sát
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.Cụ thể hóa Luật tổ chức

HĐND và UBND năm 1989, Hội đồng nhà nước Khóa VIII đã ban hành
Quy chế hoạt động của HĐND các cấp, trong đó có nhiều qui định về
quyền giám sát của HĐND cấp tỉnh.
- Giai đoạn 1992 -2003
Hiến pháp 1992 đánh dấu thời kỳ đổi mới của đất nước ta kể cả về kinh tế
– xã hội và tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương xuống địa phương. Bộ máy
nhà nước, trong đó có HĐND cấp tỉnh có những thay đổi cơ bản để đáp ứng đòi
hỏi quản lý được nền kinh tế mới, theo kịp sự phát triển của tiến trình dân chủ.
Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994
đã xác định rõ 2 chức năng của HĐND, một trong hai chức năng đó là:
Giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ
ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp;
giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân về các
lĩnh vực được quy định tại các điều 12, 13, 14, 15, 16, 17 và 18 của
Luật này; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công
dân ở địa phương [44].
Nhìn chung, chức năng giám sát của HĐND cấp tỉnh trong Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 1994 không có thay đổi nhiều so với quy định trong


17
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1983 và năm 1989. Pháp lệnh về nhiệm
vụ, quyền hạn cụ thể của HĐND và UBND ở mỗi cấp cũng như Quy chế hoạt
động của HĐND các cấp năm 1996 đã quy định mang tính cụ thể hóa thẩm
quyền giám sát của HĐND cấp tỉnh. Cụ thể là:
- Về chủ thể thực hiện quyền giám sát, Thường trực HĐND vẫn không
được coi là chủ thể thực hiện quyền giám sát nhưng được thực hiện một số
nhiệm vụ, quyền hạn gần như hoạt động giám sát là: đôn đốc, kiểm tra UBND
cùng cấp và các cơ quan Nhà nước khác ở địa phương thực hiện các nghị

quyết của HĐND; tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết
các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, tổng hợp ý kiến và nguyện vọng
của nhân dân để báo cáo tại kỳ họp của HĐND.
- Về phương thức giám sát, bổ sung thêm hoạt động chất vấn giữa hai
kỳ họp thông qua Thường trực HĐND; hoạt động giám sát cũng đa dạng hơn,
không chỉ thông qua việc xem xét báo cáo mà còn giám sát trực tiếp tại địa
bàn, cơ quan, tổ chức.
- Giai đoạn 2003 đến nay
Sau khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 (năm 2001), Luật tổ chức
HĐND và UBND cũng được sửa đổi, bổ sung năm 2003, trong đó hoạt động
giám sát được quy định thành một chương riêng (Chương 3: Giám sát của
HĐND) đánh dấu một bước phát triển về nhận thức đối với hoạt động giám
sát của HĐND cấp tỉnh. Tiếp theo đó, Quy chế hoạt động của HĐND năm
2005 đã cụ thể hóa hoạt động này.
Luật cũng như Quy chế đã quy định rõ các chủ thể có quyền giám sát,
trong đó, lần đầu tiên, Thường trực HĐND được quy định rõ là chủ thể có
năng lực pháp lý để thực hiện quyền giám sát. Chủ thể tiến hành giám sát
gồm: HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND và đại biểu HĐND. Với
việc quy định rõ về chủ thể giám sát đã góp phần quan trọng nâng cao vị thế
của HĐND trong hoạt động giám sát nhất là vai trò của Thường trực HĐND.


18
Chương trình giám sát hàng năm được xây dựng là một trong những điểm
mới thể hiện sự quan tâm đến hoạt động giám sát của HĐND, tạo sự chủ động
cho chủ thể giám sát và đối tượng chịu sự giám sát.
Các hình thức giám sát cũng đã được phân định rạch ròi, trong đó, bổ
sung nhiều hình thức mới như: xem xét văn bản quy phạm pháp luật, thành
lập Đoàn giám sát của HĐND, bỏ phiếu tín nhiệm; Thường trực HĐND xem
xét kết quả giám sát của các Ban; các Ban có quyền yêu cầu các cơ quan hữu

quan báo cáo, cử thành viên đến cơ quan, tổ chức để xem xét, xác minh.
Trình tự, thủ tục và các hậu quả pháp lý khác khi tiến hành các hoạt
động giám sát cũng đã được quy định cụ thể, tạo thuận lợi cho hoạt động
giám sát được thực hiện trên thực tế. Luật Tổ chức HĐND và UBND năm
2003 đã có những đổi mới khi quy định việc thành lập các Đoàn giám sát
chuyên đề. Các Đoàn giám sát chuyên đề được thành lập theo quyết định
của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND. Đoàn giám sát có quyền
yêu cầu các cơ quan nhà nước báo cáo bằng văn bản, cung cấp các thông
tin tài liệu cần thiết liên quan đến nội dung giám sát, giải trình những vấn
đề mà Đoàn giám sát quan tâm. Khi phát hiện những vi phạm, Đoàn giám
sát có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân chấm dứt
ngay những hành vi vi phạm nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, các quyền
và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm. Thường trực HĐND có trách
nhiệm báo cáo HĐND về hoạt động giám sát của mình giữa hai kỳ họp.
Thường trực HĐND có quyền giám sát việc thi hành pháp luật về giải
quyết khiếu nại, tố cáo; giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật
tại địa phương trình HĐND xem xét, xử lý các văn bản vi phạm. Luật Tổ
chức HĐND và UBND năm 2003 đã quy định rõ hơn thẩm quyền, trình tự,
thủ tục trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với những chức danh do
HĐND bầu theo đề nghị của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc hoặc khi có ít nhất
một phần ba tổng số đại biểu HĐND yêu cầu.


19
Đối tượng bị giám sát cũng đã được quy định tương đối rõ. Tuy nhiên,
vẫn còn một số đối tượng mà Luật quy định HĐND có quyền giám sát, nhưng
chưa quy định hình thức, trình tự giám sát như thế nào, như: giám sát việc
tuân theo pháp luật của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, đơn vị vũ trang ở địa phương. Luật hiện hành quy định khá cụ thể về
đối tượng giám sát là hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, TAND,

VKSND cùng cấp, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của HĐND.
Hậu quả pháp lý sau giám sát, việc tiếp tục theo dõi sau kiến nghị của
hoạt động giám sát... cũng đã từng bước được quy định vào trong Luật và
Quy chế. Tuy nhiên, vẫn còn các trường hợp đối tượng bị giám sát không tiếp
thu ý kiến của HĐND, Thường trực HĐND, Ban của HĐND và đại biểu
HĐND sau khi kết thúc hoạt động giám sát.
Có thể thấy rằng, quy định về hoạt động giám sát của HĐND cấp
tỉnh đã được ghi nhận trong Luật và Quy chế, góp phần giúp hoạt động
giám sát có hiệu lực, hiệu quả, từng bước nâng cao vị thế của HĐND cấp
tỉnh. Vị trí, vai trò và chức năng giám sát của các Ban HĐND cũng được
quy định cụ thể hơn.
1.2. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

1.2.1. Khái niệm giám sát
Cho đến nay, trong khoa học pháp lý các khái niệm kiểm tra, thanh tra,
kiểm soát, giám sát… chưa được phân biệt rạch ròi. Vì vậy, trong quá trình sử
dụng các thuật ngữ nêu trên dễ nhầm lấn dẫn đến cách hiểu không đúng.
Theo Đại từ điển ngôn ngữ, “Kiểm" tức là soát lại, xem xét và hiểu rõ
việc kiểm chứng, kiểm định, kiểm duyệt, kiểm điểm, kiểm kê, kiểm soát,
kiểm tra” [69, tr. 937].
Kiểm sát là: 1. Kiểm tra, giám sát
2. Công tác kiểm tra tố tụng vụ án
Kiểm soát là: Kiểm tra xem xét nhằm giải quyết các sai phạm.


20
Kiểm tra là: Xem xét thực chất, thực tế như kiểm tra chất lượng, kiểm
tra sức khỏe, kiểm tra sổ sách [69, tr. 937].
Thanh tra là: 1. Điều tra, xem xét làm rõ sự việc.
2. Người làm công tác thanh tra (thanh tra viên) [57, tr. 529].

Thuật ngữ "giám sát" cũng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Có quan niệm cho rằng giám sát là: Sự theo dõi, xem xét, làm đúng
hoặc sai những điều đã quy định [58, tr.305].
Quan niệm khác coi " giám sát là việc theo dõi và kiểm tra xem có thực
hiện đúng những điều quy định không, là chức quan thời xưa trông nom, coi
sóc một loại công việc nhất định" [59, tr. 389]. Có ý kiến chỉ coi "giám sát" là
một nhóm hoặc là một tổ chức để theo dõi một việc nào đấy [56, tr. 230].
Tuy cách diễn đạt có khác nhau nhưng nội dung cơ bản của giám sát
là việc theo dõi, xem xét và kiểm tra một chủ thể nào đó trong một công
việc, lĩnh vực cụ thể đã thực hiện đúng hay chưa những điều đã quy định;
từ đó có biện pháp điều chỉnh hoặc xử lý đối với những hành vi sai lệch,
nhằm đạt được những mục đích, hiệu quả xác định từ trước, bảo đảm cho
các quy định thực hiện đúng và đầy đủ. Theo những chỉ dẫn trên , các thuật
ngữ kiểm tra, thanh tra, kiểm soát đều diễn tả những hành vi, hoạt động của
những chủ thể nhất định và đồng nghĩa với thuật ngữ giám sát. Nhưng thuật
ngữ giám sát được phân biệt với các thuật ngữ kiểm tra, thanh tra, kiểm
soát nêu trên ở chỗ:
Kiểm tra, thanh tra, kiểm soát là hoạt động mang tính chất nội bộ
trong cùng hệ thống cơ quan nhà nước. Ví dụ: kiểm tra, thanh tra của cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên với cơ quan hành chính nhà nước cấp
dưới theo hệ thống dọc. Giám sát là hoạt động kiểm tra từ bên ngoài của
cơ quan thuộc hệ thống cơ quan khác đối với cơ quan, tổ chức chịu sự
giám sát. Ví dụ: giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với cơ quan
hành chính nhà nước.


21
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động giám sát
Qua phân tích ở trên, ta thấy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ
“giám sát” tuy có khác nhau nhưng chúng đều có đặc điểm chung nhất là:

- Giám sát dùng để chỉ các hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra và
đánh giá về một việc đã thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.
- Giám sát luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời
câu hỏi là người hoặc tổ chức có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét, đánh
giá về một việc đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định?
- Giám sát luôn luôn gắn với một đối tượng nhất định tức là phải trả
lời được câu hỏi giám sát ai và giám việc gì? Điều này có ý nghĩa quan
trọng ở chỗ nó phân biệt giữa “giám sát” với “kiểm tra”. Vì kiểm tra thì
chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể
đồng nhất với nhau, đó là việc tự kiểm tra lại hoạt động chính mình của chủ
thể hoạt động. Giám sát thì không có sự đồng nhất này. Chủ thể thực hiện
việc theo dõi, xem xét, đánh giá luôn luôn không thể đồng nhất với đối
tượng chịu sự giám sát.
- Giám sát phải thể hiện được quan hệ giữa chủ thể thực hiện hoạt
động giám sát với đối tượng chịu sự giám sát, là quan hệ mang tính quyền
lực nhà nước. Chủ thể có những quyền và nghĩa vụ gì khi thực hiện hoạt
động giám sát và ngược lại.
- Giám sát luôn thể hiện tính chủ động trong hoạt động có mục đích
được xác định trước của chủ thể thực hiện hoạt động giám sát và hoạt động
giám sát được thực hiện thường xuyên theo một chương trình kế hoạch
nhất định.
Như vậy thuật ngữ "giám sát" nếu chỉ hiểu theo nghĩa chung thì phạm
vi áp dụng của nó rất rộng. Muốn có một cách hiểu cụ thể thì hoạt động giám
sát bao giờ cũng phải gắn với một chủ thể xác định: Giám sát của Đảng, giám
sát của Hội đồng nhân dân, giám sát của Mặt trận Tổ quốc.


×