Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Quá trình hình thành và phát triển của sở kế hoạch và đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.79 KB, 21 trang )

Quá trình hình thành và phát triển của sở kế hoạch và đầu tư
tỉnh Bắc Ninh
I. Quá trình hình thành và phát triển của sở kế hoạch và đầu tư tỉnh
Bắc Ninh
Sau 35 năm hợp nhất hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc
(hợp nhất ngày 27/10/1962); cán bộ nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã có những đóng
góp to lớn cho công cuộc xây dựng phát triển kinh tế xã hội và sự nghiệp chiến
đấu giải phóng miền nam, thống nhất tổ quốc. Theo nghị quyết kỳ họp thứ 10
quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX ngày 6/1/1996, tỉnh
Bắc Ninh được tái lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm
1997. Ngay sau khi tỉnh Bắc Ninh được tái lập, ban chấp hành lâm thời Đảng bộ
tỉnh đã tập trung lãnh đạo, nhanh chóng kiện toàn bộ máy tổ chức Đảng, đồng
thời chỉ đạo thành lập các cơ quan nhà nước, các cơ quan sự nghiệp và các hội
quần chúng. Với tinh thần phấn khởi, Đảng bộ và nhân dân Bắc Ninh đã khẩn
trương bước vào xây dựng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của
tỉnh; cùng cả nước thực hiện công cuộc đổi mới về phát triển kinh tế xã hội của
Đảng và nhà nước.
1. Quá trình hình thành
Ngày 6 tháng 11 năm 1996 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa IX thông qua nghị quyết kỳ họp lần thứ 10, tỉnh Bắc Ninh được tái
lập và đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính mới kể từ ngày 01 tháng 01 năm
1997
Ngày 15 tháng 11 năm 1996 Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 857 về lãnh
đạo công tác phân chia đại giới hành chính
Ngày 11 tháng 12 năm 1996 Ban thường vụ tỉnh ủy Hà Bắc ra quyết định
số 87/QĐ-TU về việc phân công lãnh đạo hai sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bắc
Ninh và Bắc Giang
Ngày 31 tháng 12 năm 1996 sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Hà Bắc tiến hành
bàn giao chức năng, nhiệm vụ, tổ chức giữa sở kế và đầu tư Hà Bắc với sở kế
hoạch và đầu tư Bắc Ninh. Danh sách công chức, viên chức chia tách về sở kế
hoạch và đầu tư Bắc Ninh gồm 13 người, trong đó lãnh đạo sở 02 người (đồng


chí Trần Sủng và đồng chí Nguyễn Bá Thư), trưởng phòng 02 người và cán bộ
viên chức 09 người
Ngày 06 tháng 01 năm 1997 ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh ra quyết định
số 01/UB về việc thành lập các sở ngành và các hội quần chúng. Danh sách
thành lập các cơ quan trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh gồm 20 cơ quan nhà
nước, 02 cơ quan sự nghiệp và 05 hội quần chúng, trong đó mở đầu danh sách
các cơ quan trực thuộc ủy ban nhân dân tỉnh là Sở kế hoạch và Đầu tư
Trong điều kiện tỉnh mới được tái lập còn nhiều khó khăn, với đội ngũ cán
bộ ban đầu 13 người, Sở kế hoạch và Đầu tư đã nghiên cứu khởi thảo đệ trình
ủy ban nhân dân tỉnh những đề án về chính sách, chương trình và, kế hoạch kinh
tế- xã hội và những vấn đề quan trọng khác. Sở đã tập trung tham mưu cho tỉnh
ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, giải quyết những vấn đề bức xúc trước mắt, đồng thời
tiến hành xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Với tinh thần vừa làm, vừa học, vừa nâng cao trình độ, các cán bộ, công chức,
viên chức, công nhân viên của sở đã tổ chức triển khai tốt công việc được giao,
tích cực nghiên cứu, thực hiện tốt vai trò tham mưu của mình. Xuất phát từ
những đặc điểm, tình hình cụ thể, quán triệt và vận dụng Nghị quyết Đại hội
VIII của đảng, tư tưởng chủ đạo và xuyên suốt trong việc xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch năm 1997 là:
- Khai thác và sử dụng mọi tiềm năng bên trong của các cơ sở kinh tế xã
hội, của mọi thành phần kinh tế, của mọi tầng lớp nhân dân, sớm đi vào ổn
định và tạo đà phát triển
- Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, trang thủ sự giúp đỡ của các cơ
quan trung ương, thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài
- Phát huy sức mạnh tổng hợp, trong đó chú ý thỏa đáng các đòn bẩy kinh
tế, các lợi ích kinh tế nhằm mục tiêu cao nhất là từng bước xây dựng tỉnh
bắc ninh giàu manh và văn minh
Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế năm đầu tái lập tỉnh ngày càng
mở rộng và phát triển. Ngoài các xí nghiệp đã có, tiếp tục xây dựng một số cơ
sở công nghiệp mới như nhà máy kính nổi, nhà máy khí công nghiệp, nhà máy

gạch, các xí nghiệp may….bước đầu hình thành khu công nghiệp tập trung Tiên
sơn, Quế võ. Phong trào hợp tác xã nông nghiệp đã chuyển sang làm dịch vụ,
kinh tế hộ gia đình phát triển
Cùng với Sở kế hoạch và đầu tư, một số phòng kế hoạch của các sở, ban
ngành, phòng tài chính kế hoạch các huyện, thị được huy động để tập trung tổ
chức nghiên cứu những quy hoạch được đặt ra. Một số dự án Quy hoạch đã
được lập và phê duyệt như: Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Bắc Ninh
đến năm 2000, định hướng đến năm 2010; quy hoạch ngành công nghiệp- tiểu
thủ công nghiệp, cải tạo phát triển mạng lưới điện, giao thông, thể dục thể thao,
định hướng phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng
quy hoạch thị xã Bắc Ninh….
Kết thúc năm kế hoạch đầu tiên (1997), nhiều chỉ tiêu đã đạt và vượt mức
kế hoạch đề ra. Có thể nói báo cáo về phương hướng và nhiệm vụ phát triển
kinh tế xã hội tại kỳ họp thư nhất Hội đồng nhân dân tỉnh ngày 09 tháng 01 năm
1997 được đánh dấu như bước chuẩn bị cho giai đoạn đổi mới kinh tế xã hội của
tỉnh thời kỳ mới.
2. Thời kỳ từ năm 1997-2000 với việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 1997-2000 được tổ chức nghiên
cứu trong bối cảnh thực trạng tình hình kinh tế xã hội của tỉnh còn nhiều khó
khăn và thách thức, đòi hỏi nhanh chóng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, đổi
mới cơ chế kế hoạch hóa nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế xã hội của
tỉnh. Điều đó đòi hỏi sự vươn lên cả về tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của sở
kế hoạch và đầu tư nói riêng và ngành kế hoạch và đầu tư nói chung
Đội ngũ cán bộ sở thời kỳ này đã được tăng cường ( từ ngày 01/01/1997 có
13 người, đến năm 2000 tăng lên 20 người). Bộ máy tổ chức được củng cố,
công tác xây dựng cơ chế chính sách, các giải pháp kinh tế xã hội, công tác quy
hoạch được chú ý xây dựng. Trình độ cán bộ nhìn chung đã được nâng lên khá
nhiều so với thời gian đầu mới chia tách. Phong cách nghiên cứu tư duy và cách
tiếp cận nghiên cứu đã có nhiều đổi mới, tầm nhìn trung hạn và dài hạn, thông

tin và kiến thức về kinh tế thị trường, phương pháp và khả năng dự báo …đều
được nâng cao.
Sở kế hoạch và đầu tư đã thực hiện nhiều hình thức đào tạo nhằm nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ trong toàn ngành để đáp ứng công cuộc đổi mới như
mở các khóa đào tạocác lớp ngắn hạn. Tham quan khảo sát học tập theo các
chuyên đề ở trong nước va cả nước ngoài, khuyến khích học tin học, ngoại ngữ.
Phong trào học tập chuyên môn, ngọai ngữ, tin học trong cơ quan được mở
rộng, khỏa lấp dần những khoảng trống năng lực; chất lượng nghiên cứu do vậy
dần dần được nâng cao.
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 1997-2000 được xây dựng sát
với thực tế. Các cân đối được dự báo và tính toán có căn cứ. Đã đưa ra nhiều
giải pháp đòn bẩy, mang tính khuyến khích và thúc đẩy phát triển kinh tế tạo ra
nhiều khả năng và điều kiện huy động nguồn lực của tất cả các thành phần kinh
tế để phát triển.
Dưới sự chỉ đạo của tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh, kết hợp với các Sở,
Ngành, Địa phương, Sở kế hoạch và đầu tư đã tổ chức và triển khai nghiên cứu
soạn thảo chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đầu tiên đã được tổ
chức nghiên cứu kỹ lưỡng. Kế hoạch lấy ổn định làm trọng tâm đồng thời tạo
điều kiện cho sự phát triển nhanh hơn trong giai đoạn sau.
Đại hội đại đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XV đã thông qua phương
hướng, mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu kế hoạch phát triển kinh tế xã hội thời kỳ
này là “phát huy truyền thống cách mạng và văn hiến, tinh thần làm chủ của
dân, khai thác mọi nguồn lực, tranh thủ thời cơ vượt qua khó khăn thủ thách tiếp
tục sự nghiệp đổi mới, tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để từng
bước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đẩy mạnh
sản xuất tiểu thủ công nghiệp và xuất khẩu; phát triển kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết những vấn đề bức
xúc của xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh tạo tiền

đề vững chắc cho bước phát triển tiếp theo”.
Đồng thời với tổ chức nghiên cứu xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, Sở đã tập hợp đông đảo cán bộ ngành kế hoạch và đầu tư đi sâu nghiên
cứu tìm tòi các giải pháp kinh tế xã hội, huy động các nguồn lực; giải tỏa những
ách tắc, cản trở, tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành và đổi mới các
cơ chế chính sách, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế… để vượt qua những khó
khăn thử thách đưa tỉnh ta phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kết thúc thời kỳ kế hoạch 1997-2000, nhìn chung kinh tế của tỉnh tăng
trưởng với nhịp độ cao, và đạt được nhiều mục tiêu chủ yếu do đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XV đề ra. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng bình quân hàng năm
12,4%. Trong đó nông nghiệp tăng 7,4%, công nghiệp tăng 23%, dịch vụ tăng
9,2%. GDP bình quân đầu người tăng từ 256 USD năm 1996 lên 395 USD năm
2000. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm từ 46% năm 1996 xuống 38%
năm 2000. Tỷ trọng khu vực công nghiệp- dịch vụ tăng từ 54% năm 1996 lên
62% năm 2000.
Song song với mức tăng trưởng và khả năng chuyển đổi cơ cấu kinh tế,
Bắc Ninh đã xây dựng hai khu công nghiệp tập trung, tạo môi trường thu hút
vốn đầu tư vào tỉnh. Các khu công nghiệp này bước đầu đã phát huy tác dụng.
Đầu tư phát triển các cụm công nghiệp làng nghề và đa nghề. Lập các giải pháp
khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống. Tiến hành tổ chức sắp xếp
lại doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa và đa dạng hóa các hình thức sở hữu
nhằm khai thác có hiệu quả tài sản xã hội, khuyến khích toàn nhân dân và các
nhà đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Ngoài ra cũng tham mưu cho tỉnh
tiến hành một số giải pháp đồng bộ như mở rộng thị trường, xây dựng các chính
sách kinh tế xã hội phù hợp để khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh phát
huy hiệu quả. Đó là tiền đề cho một triển vọng tăng trưởng đưa Bắc Ninh đi lên
vững chắc
Hoạt động kinh tế đối ngoại được quan tâm chỉ đạo và khuyến khích phát
triển đạt hiệu quả bước đầu. tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn

tỉnh hơn 139 triệu USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 49 triệu USD,
tăng 2,4 lần so với năm 1996 , kim ngạch nhập khẩu 29,7 triệu USD, tăng 2 lần
so với năm 1996
Sự nghiệp giáo dục phát triển nhanh về quy mô, chất lượng giáo dục toàn
diện được nâng lên một bước, đón đầu những yêu cầu, đặc điểm của nền kinh
tế tri thức trong tương lai. Thực hiện mục tiêu “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Đời sống nhân dân trong tỉnh có cải thiện đáng kể. Một số công trình phúc
lợi công cộng như bệnh viện, đường xá, cầu cống, các công trình văn hóa được
xây dựng. Đường giao thông nông thôn được cải tạo, nâng cấp, phục vụ giao
lưu, trao đổi hàng hóa, đi lại giữa các huyện thị. 100% các xã, phường, có điện
sinh hoạt. Thông tin liên lạc tiếp tục được hiện đại hóa, dịch vụ viễn thông phát
triển.
3. Thời kỳ từ năm 2001-2005 với việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội 5 năm
Ngày 03 tháng 01 năm 2001, Đại hội đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVI
khai mạc và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2001- 2005) đã được
thông qua với mục tiêu tổng quát là : “… đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo hướng định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế xã hội với nhịp
độ cao, hiệu quả, bền vững; từng bước cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng đảng, chính trị trong sạch vững
mạnh, tăng cường công tác dân vận, tạo sức mạnh tổng hợp xây dựng Bắc Ninh
giàu mạnh, văn minh”.
Mặc dù còn nhiều khó khăn song với nỗ lực phấn đấu, trình độ nghiên cứu
của đội ngũ cán bộ trong ngành kế hoạch và đầu tư nói chung, cán bộ sở kế
hoạch và đầu tư nói riêng đã được nâng cao một bước. Tổ chức bộ máy trong cơ
quan sở đã được củng cố. Số lượng cán bộ công chức sở năm năm 2005 tăng lên
28 người trong đó có 1 tiến sĩ, 4 thạc sĩ, 23 cử nhân, kỹ sư. Trung tâm tư vấn
đầu tư thuộc sở được thành lập với biên chế là 7 người; ngành kế hoạch và đầu
tư đã đáp ứng được vai trò tham mưu kinh tế cho tỉnh uỷ, Ủy ban nhân dân tỉnh;

tổ chức nghiên cứu đề xuất những giải pháp tạo ra động lực phát triển mới, bước
đột phá mới, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Nhìn chung các mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2001-2005 đều đạt
và vượt các chỉ tiêu đề ra, kinh tế xã hội phát triển, GDP tăng 14% ( mục tiêu
đại hội 13.5%) gấp 1,8 lần mức bình quân của cả nước. Cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng Công nghiệp, Xây dựng tăng mạnh từ
35% năm 2000 lên 46,2% năm 2004 , tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp giảm
từ 38 % năm 2000 xuống còn 25% năm 2005. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp
của tỉnh mang tính đột phá, giai đoạn 2001-2005 tăng 26,6% năm 2005 giá trị
sản xuất công nghiệp đạt 6800 tỷ đồng vượt 28,3%. Khu vực các doanh nghiệp
nhà nước, sản xuất được tổ chức sắp xếp lại, đầu tư chiều sâu, đổi mới trang
thiết bị, công nghệ nên có mức tăng trưởng liên tục cao. Khu vực công nghiệp
nha nước trung ương đạt tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp bình
quân 5 năm 2001-2005 là 30,4%/năm, khu vực công nghiệp nhà nước địa
phương đạt 49%/năm, khu vực công nghiệp ngoài nhà nước đạt 31,7%/năm.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng có bước tăng trưởng khá và đang
có xu hướng ngày càng tăng lên. Nếu như tỷ trọng của khu vực này hầu như
không đáng kể chỉ có 0,4 tỷ đồng năm 1997 thì đến năm 2000 là 796,6 tỷ đồng
và 1400tỷ đồng năm 2005, góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của
sản xuất sản phẩm công nghiệp, mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. ngoài
các khu công nghiệp tập trung Tiên sơn, Quế võ, Đại đồng-Hoàn sơn, thì các
khu công nghiệp mới như Yên Phong, Nam sơn-Hạp lĩnh, khu công nghệ thông
tin, 21 khu công nghiệp làng nghềm cụm công nghiệp vừa và nhỏ với tổng diện
tích khoảng 500ha cũng đã được đầu tư xây dựng.
Khu vực dịch vụ, thương mại tích cực phát triển theo hướng tích cực, sức
mua tăng, hàng hóa kinh doanh có khối lượng dồi dào, cơ cấu chủng loại phong
phú, quy cách mẫu mã ngày càng được cải thiện, cung ứng dịch vụ dần được
nâng cao, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng xã hội. Giáo dục và đào tạo đạt được
những thành tựu nổi bật; đã hoàn thành giáo dục tiểu học đúng độ tuổi đầu tiên
của cả nước . Hệ thống y tế tiếp tục được củng cố và tăng cường cả về cở sở vật

chất, trang thiết bị và cán bộ . Chất lượng khám chữa bệnh của các dịch vụ
chăm sóc sức khẻo nhân dân ngày càng được cải thiện, cao hơn mức trung bình
của cả nước.
Các chương trình xóa đói giảm nghèo và cuộc vận động đền ơn đáp nghĩa
đối với những người có công với cách mạng đã trở thành phong trào sâu rộng ,
đã tạo được việc làm cho hơn 14 nghìn lao động hàng năm, tỷ lệ đói nghèo giảm
từ 10,2% năm 2000 xuống còn 4,5% năm 2004 . Kết quả là tỉnh Bắc Ninh đã
giải quyết cơ bản số hộ đói, giảm đáng kể số hộ nghèo và xuất hiện ngày càng
nhiều số hộ giàu. Đại bộ phận nhân dân có cuộc sông ấm no hạnh phúc.
Với tầm nhìn chiến lược, ngành kế hoạch và đầu tư đã tham mưu cho Ủy

×