Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Hoàn thiện hình thức trả lương theo sản phẩm là nhân tố cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.55 KB, 25 trang )

Hoàn thiện hình thức trả lương theo sản phẩm là nhân tố cơ bản nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
A. Bản chất của tiền lương
I. Các quan điểm cơ bản về tiền lương
1. Quan điểm chung về tiền lương
Một trong những đặc điểm của quan hệ sản xuất xã hội là hình thức
phân phối. Mỗi phương thức sản xuất đều có một hình thức phân phối nhất
định. Ăngghen viết: “Vì phân phối là do những lý do thuần túy kinh tế chi
phối, cho nên lợi ích của sản xuất sẽ điều chỉnh việc phân phối và phương
thức phân phối nào làm cho mọi người trong xã hội có thể phát triển toàn
diện nhất, có thể duy trì và biểu hiện năng lực của mình thì phương thức
phân phối đó mới kích thích phát triển nhất”
Phân phối là một trong bốn khâu quan trọng nhất của quá trình sản
xuất xã hội: Sản xuất ---Phân phối ---Trao đổi--- Tiêu dùng. Chủ nghĩa Mac
Lênin khẳng định trong quá trình sản xuất thì sản xuất đóng vai trò quyết
định phân phối và các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất và do sản xuất quyết
định nhưng có ảnh hưởng trực tiếp, tích cực trở lại đối với sản xuất. Ănghen
viết; “Phân phối không chỉ đơn thuần là kết quả tiêu cực của sản xuất và trao
đổi, đến lượt nó cũng có tác dụng trở lại sản xuất, trao đổi”
Tổng sản phẩm xã hội do lao động xã hội tạo ra phải được đem phân
phối cho tất cả tiêu dùng cá nhân, cho cả tích luỹ tái sản xuất mở rộng và cho
tiêu dùng công cộng. Dưới chủ nghĩa xã hội việc phân phối theo lao động phù
hợp với đòi hỏi đó, toàn bộ sản phẩm xã hội là kết quả của lao động thuộc về
người lao động và được phân phối vì lợi ích của họ
Phân phối theo lao động dưới chủ nghĩa xã hội chủ yếu là tiền lương
tiền thưởng. Tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội về bản chất khác hẳn tiền
lương dưới chế độ tư bản chủ nghĩa
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa người công nhân sau thời gian làm
việc, hoặc sau khi hoàn thành một khối lượng công việc nào đó, được nhà tư
bản trả một số tiền, đó là tiền lương tư bản chủ nghĩa. Tiền lương tư bản chủ
nghĩa không phải là tiền trả công lao động, không phải là giá cả của lao động.


Tiền lương tư bản chủ nghĩa là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động là
giá cả sức lao động biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của lao động. Đó là
bản chất tiền lương tư bản chủ nghĩa còn trong CNXH tiền lương là một phần
giá trị mà xã hội làm ra trong một giai đoạn và được phân phối cho người lao
động căn cứ quĩ hàng hoá xã hội và công sức đóng góp của từng người
2. Quan điểm mới về tiền lương
Theo quan điểm mới của Đảng và Nhà nước ta, tiền lương trong giai
đoạn mới phải được trả theo đúng giá trị sức lao động. Điều này có nghĩa là
a. Tiền lương phải trả theo đúng cấp bậc công việc
Xuất phát từ quan điểm chung là tiền lương phải được trả theo đúng
giá trị sức lao động của người công nhân chúng ta nhận thấy rằng giá trị sức
lao động của người công nhân bên cạnh việc có thể lượng hoá được thông
qua các sản phẩm mà họ hoàn thành nhưng trong thực tế có rất nhiều công
việc không tạo ra sản phẩm thực tế hoặc do thời gian tạo ra sản phẩm quá
lớn và do vậy rất khó đánh giá, lượng hoá giá trị sức lao động của công nhân
theo sản phẩm. Khắc phục những khó khăn đó người ta đã tìm ra một chỉ tiêu
mới nhằm lượng hoá giá trị sức lao động mà người lao động bỏ ra đó là cấp
bậc công việc. Người ta xác định rằng để tạo ra một sản phẩm hay hoàn thành
một bước công việc bất kỳ người công nhân đều phải thực hiện một hay một
số các công việc, thao tác nhất định tác động lên đối tượng lao động nhằm cải
biến nó thành các sản phẩm, bán thành phẩm phục vụ cho quá trình sản xuất
tiếp theo. Các thao tác này tuỳ thuộc từng loại công việc, loại sản phẩm mà đòi
hỏi các yêu cầu khác nhau về sức lực cơ bắp hay về trí lực, khả năng khéo léo
trình độ khoa học, kinh nghiệm làm việc... của người công nhân. Người ta
cũng xác định được rằng có thể phân nhóm các loại công việc khác nhau đó
thành các nhóm có cùng yêu cầu về trí, lực để thực hiện và từ đó xây dựng nên
hệ thống cấp bậc công việc, các công việc có cùng cấp bậc công việc có cùng
yêu cầu để thực hiện công việc
Như vậy căn cứ vào cấp bậc công việc mà người công nhân thực hiện
người ta có thể lượng hoá chính xác hơn giá trị sức lao động mà người lao

động bỏ ra để thực hiện công việc đó. Vì vậy khi tiến hành trả lương người ta
phải căn cứ vào cấp bậc công việc để trả lương. Cấp bậc công việc cao có
nghĩa là nó đòi hỏi người công nhân phải hao tốn nhiều sức lực cơ bắp, phải
có kinh nghiệm hơn.. giá trị sức lao động bỏ ra nhiều hơn để hoàn thành công
việc do đó mà họ phải được trả lương cao hơn công nhân thực hiện công việc
có cấp bậc công việc thấp hơn.
b. Tiền lương cao hay thấp là tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh
doanh của đơn vị
Cũng xuất phát từ quan điểm tiền lương phải được trả theo đúng giá
trị sức lao động. Nếu giá trị sức lao động mà họ bỏ ra cao thì họ phải được
hưởng lương cao. Tuy vậy cần phải nói thêm rằng trong nền kinh tế thị
trường lượng lao động hao phí bỏ ra phải thực sự đem lại hiệu quả, thực sự
đem lại giá trị mới hay nói cách khác thì lao động phải hiệu quả. Lao động bỏ
ra phải đạt được hiệu quả thì mới được trả lương
Giá trị sức lao động trong hoạt động sản xuất kinh doanh là giá trị đầu
vào đặc biệt bởi vì nó không như các giá trị khác ở sản phẩm cuối cùng các
giá trị khác đều bị giảm đi riêng giá trị sức lao động lại được tăng lên ở sản
phẩm cuối cùng hay nói cách khác chính sự gia tăng của giá trị sức lao động
tạo nên hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiền lương là biểu hiện
của giá trị sức lao động và nó nhỏ hơn giá trị thực tế mà việc sử dụng sức lao
động đem lại. Chúng ta quay lại với vấn đề hiệu quả trong hoạt động kinh
doanh mà ở đây là sử dụng sức lao động. Tính hiệu quả ở đây thể hiện qua
việc sử dụng hợp lý sức lao động làm cho lượng giá trị mới mà việc sử dụng
sức lao động đem lại tăng đến tối đa có thể được và vì vậy làm tăng được kết
quả của hoạt động SXKD. Có thể dễ dàng nhận thấy kết quả SXKD là một biểu
hiện của tính hiệu quả trong quá trình sử dụng sức lao động. Giá trị sức lao
động bỏ ra của người lao động đem lại kết quả gì có thể định lượng được và
được xã hội chấp nhận được lưu thông trao đổi được sử dụng để thỏa mãn
nhu cầu của con người. Có như vậy sản phẩm tạo ra mới được thanh toán để
trả lương cho công nhân lao động.

Như vậy tiền lương cao hay thấp bên cạnh việc trả theo đúng giá trị
sức lao động mà họ bỏ ra còn phải tính đến tính hiệu quả của việc sử dụng sức
lao động mà biểu hiện của nó là kết quả hoạt động SXKD, nếu cùng một lượng
giá trị sức lao động bỏ ra nếu tính hiệu quả cao hơn, kết quả SXKD cao hơn thì
tất yếu sẽ được trả lương cao hơn và ngược lại nếu hiệu quả thấp hơn, kết
quả SXKD thấp hơn thì sẽ được trả lương thấp hơn thậm chí tiền lương sẽ
giảm tối thiểu bằng 0 nếu như không có tính hiệu quả trong việc sử dụng lao
động.
c. Phải gắn chặt tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa.
Cũng lại xuất phát từ quan điểm tiền lương phải trả theo đúng giá trị
sức lao động. Như ta đã biết giá trị sức lao động được biểu hiện qua các hao
phí về cơ bắp, trí lực trong quá trình hoạt động SXKD. Tiền lương mà người
công nhân nhận được là được trả cho các hao phí đó và như bất kỳ một hoạt
động nào nó phải được dùng để bù đắp lại các hao phí đó. Tiền lương được
trả là tiền lương tiền tệ nếu xét về mặt hiện vật nó chỉ là giấy, kim loại hay
bất kỳ một vật thể nào được xã hội coi là có giá trị trong trao đổi nhưng thực
tế cái mà tái tạo ra các hao phí của người lao động lại là thức ăn, nước uống.
Ở mức độ cao hơn đó là các giá trị tinh thần khác. Vì vậy cần phải có sự
chuyển đổi tiền lương từ tiền tệ sang các yếu tố nhằm tái tạo hao phí lao
động. Trong nền kinh tế thị trường muốn trao đổi cần phải có tiền và khi trao
đổi thì yếu tố giá cả là yếu tố quan trọng quyết định đến hành vi trao đổi.
Trên cơ sở đó người ta xây dựng nên hai khái niệm về tiền lương là tiền
lương danh nghĩa và tiền lương thực tế trong đó tiền lương danh nghĩa là
lượng tiền tệ mà người lao động nhận được do sự đóng góp sức lao động của
mình vào hoạt động SXKD. Còn tiền lương thực tế là chỉ tiêu nhằm xác định
về mặt hiện vật các giá trị vật chất mà tiền lương danh nghĩa đem lại. Giữa
tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế có mối quan hệ
TL danh nghĩa
TL thực tế = 
Chỉ số giá

Khi chỉ số giá thay đổi làm cho tiền lương thực tế thay đổi ảnh hưởng
đến cuộc sống của người lao động do vậy cần phải có sự điều chỉnh tiền
lương danh nghĩa khi chỉ số giá thay đổi nhằm ổn định tiền lương thực tế tạo
điều kiện cho nó thực hiện đầy đủ các chức năng vai trò của nó.
d. Doanh nghiệp phải đảm bảo trả lương đúng thời hạn qui định để ổn
định đời sống cho người lao động.
Trong xã hội hiện đại thời gian và tính thời điểm luôn được coi trọng.
Tiền lương của người công nhân sau khi nhận được dùng để chi cho hai nhu
cầu là tiêu dùng và tích lũy. Nhu cầu tiêu dùng là nhu cầu có ý nghĩa quan
trọng và nó là nhu cầu thường trực trong cuộc sống. Trong xã hội hiện đại
sản xuất được chuyên môn hóa cao độ lưu thông trao đổi đóng vai trò quan
trọng và vì vậy tiền tệ có vai trò rất lớn trong xã hội.
Người lao động khi thoả mãn nhu cầu của mình cần phải có tiền để
mua bán, trao đổi. Tiền của người lao động ở đây có thể coi chủ yếu là tiền
lương. Vì vậy do nhu cầu tiêu dùng là nhu cầu thường xuyên nên người lao
động cũng cần tiền liên tục và họ lao động để nhận chúng, để có kế hoạch sử
dụng chúng. Bất kỳ một sự thay đổi trong thời hạn trả lương sẽ làm thay đổi
các kế hoạch, xáo trộn nhu cầu tiêu dùng và vì vậy sẽ làm cho cuộc sống của
người lao động bất định, do vậy doanh nghiệp cần phải trả lương đúng thời
hạn, không chỉ để ổn định đời sống cho người lao động mà còn đảm bảo rằng
người lao động sẽ toàn tâm toàn ý khi lao động trong doanh nghiệp.
e. Doanh nghiệp phải đảm bảo đủ việc làm để ổn định và tiến tới tăng
mức thu nhập cho người lao động. Việc làm không chỉ là nhu cầu của người
lao động mà còn là nhu cầu cả chủ doanh nghiệp. Đối với người lao động có
việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, có nguồn sống... còn đối với doanh
nghiệp có việc làm có nghĩa là có cơ hội để tồn tại và phát triển. Có đủ việc
làm là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng các kế hoạch trong tương lai và xác
định được đích đến của mình. Xuất phát từ các yếu tố đó doanh nghiệp còn
phải đảm bảo đủ việc làm để ổn định và tăng mức lương cho người lao động.
g. Trong một đơn vị phải đảm bảo công bằng hợp lý

Xã hội càng hiện đại, giá trị “mới” tạo ra ngày càng nhiều, thu nhập,
đời sống của người lao động ngày càng cao thì yếu tố tinh thần lại càng giữ
vị trí quan trọng. Khi lao động chuyển từ giản đơn sang lao động phức tạp thì
yếu tố tinh thần có vai trò quyết định đến năng suất lao động, hiệu quả lao
động. Vì vậy vấn đề tạo động lực trong doanh nghiệp ngày càng có vai trò
quan trọng trong chính sách quản lý doanh nghiệp. Và vấn đề tạo động lực
cho lao động bằng các biện pháp phi vật chất ngày càng quan trọng hơn khi
yếu tố vật chất trở nên kém ý nghĩa.
Một trong số các biện pháp phi vật chất là tạo động lực thông qua việc
trả lương công bằng hợp lý. Công bằng hơn là mục tiêu mà các nhà quản lý
luôn vươn tới, nó là cơ sở để thực hiện tất cả các qui phạm đề ra, có công
bằng mới trả lương theo đúng giá trị sức lao động, có công bằng mới trả
lương theo hiệu quả lao động... và công bằng là động lực mạnh mẽ nhất thúc
đẩy người lao động vươn lên trong hoạt động sinh tồn vì họ không chỉ mang
lại giá trị vật chất mà còn được xã hội khẳng định tính hơn trội của họ, thỏa
mãn được nhu cầu tâm lý tự hoàn thiện, khẳng định cái tôi cá nhân một
trong những nhu cầu ở cấp cao nhất của con người.
II. Các chức năng cơ bản của tiền lương
1. Chức năng tái sản xuất sức lao động
Như Các Mác đã nói trước khi làm bất cứ một việc gì từ đơn giản đến
phức tạp thì bất cứ một con người nào cũng phải ăn, mặc hay nói cách khác
họ phải được thỏa mãn các nhu cầu sinh lý tổi thiểu của mình. Muốn sống và
phát triển thì bất kỳ con người nào cũng phải được thỏa mãn các nhu cầu nói
trên.
Lao động cũng là hoạt động của con người và lẽ dĩ nhiên để có khả
năng lao động người lao động phải ăn, mặc hay chúng ta có thể nói để có sức
lao động thường xuyên người lao động cần phải được tái sản xuất sức lao
động. Để có được các yếu tố nhằm thỏa mãn các nhu cầu đó trong xã hội hiện
nay người lao động cần phải có hoạt động trao đổi mua bán với một công cụ
đặc biệt đó là tiền tệ; có tiền họ mới có được các yếu tố trên.

Tiền được nói ở đây gồm phần lớn là tiền lương từ lao động của người
lao động hay nói cách khác muốn có được các yếu tố thỏa mãn nhu cầu của
mình người lao động cần có tiền lương. Tiền lương phải đảm nhận việc đem
lại cho người lao động các yếu tố mà họ cần. Tiền lương phải thực hiện chức
năng tái sản xuất sức lao động trí tuệ để lao người lao động nghiên cứu, tích
lũy kinh nghiệm, mua sách báo khoa học... giải trí, thư giãn...
Từ cơ sở là chức năng tái sản xuất sức lao động của tiền lương, người
ta đã xây dựng lên tiền lương tối thiểu. Đây là tiền lương đủ để tái sản xuất
sức lao động cho người lao động khi thực hiện một công việc nào đó. Trong
thực tế trên lương tối thiểu có thể khác nhau tùy yêu cầu tái sản xuất sức lao
động của người lao động như thế nào.
2. Chức năng kích thích lao động
Tiền lương là cơ sở để tái sản xuất sức lao động, để người lao động có
một cuộc sống tốt đẹp hơn, là điều kiện để người lao động tự hoàn thiện mình,
khẳng định mình... Do vậy sức ép của tiền lương đối với người lao động là rất
lớn. Họ sẽ phải cố gắng để có được tiền lương cao vì nó không chỉ đem lại cho
họ giá trị vật chất mà còn đem lại cho họ giá trị tinh thần. Từ quan điểm tiền
lương trả đúng theo giá trị sức lao động và nhận định về hiệu quả của sử
dụng sức lao động, người lao động cần phải đóng góp được nhiều hơn giá trị
sức lao động của họ. Họ phải sử dụng hợp lý thời gian làm việc để đóng góp
được nhiều nhất sức lao động của mình. Họ sẽ phải lao động hăng say, tăng số
giờ làm việc thực tế, giảm số giờ hao phí không cần thiết. Họ phải sử dụng
hiệu quả sức lao động của mình, tăng tỉ lệ sức lao động có ích trên tổng hao
phí sức lao động, họ phải giảm được các thao tác thừa trong quá trình sản
xuất, tăng được năng suất lao động, tăng tỉ lệ thành phẩm đạt chất lượng
cao, phát huy sáng kiến nhằm tận dụng công suất máy móc... nâng cao hiệu
quả sử dụng lao động cho doanh nghiệp và những cố gắng nỗ lực này của họ
được ghi nhận, cùng với việc tăng lương kích thích lao động, tiền thưởng còn
tạo cho họ một động lực mạnh mẽ hơn nữa và cứ như vậy tiền lương đã làm
cho kích thích lao động từ thụ động sang việc chủ động nâng cao năng lực của

mình.
3. Chức năng điều phối lao động
Tiền lương được trả theo đúng giá trị của sức lao động nhưng đánh
giá về hiệu quả, chất lượng của giá trị sức lao động lại phụ thuộc nhiều yếu tố
khác nhau như tính cấp thiết, tính thời điểm... Do vậy người ta đã lợi dụng
đặc tính này để sử dụng tiền lương như một công cụ hiệu quả trong điều phối
lao động. Lao động ở đây làm công việc gì là tự quyền quyết định của người
lao động trên cơ sở đánh giá xem xét tiền lương đem lại và sức lao động hao
phí bỏ ra. Nếu cùng một công việc, cùng điều kiện làm việc mà họ được đánh
giá là có giá trị sức lao động đóng góp cao, được tiền lương cao thì họ sẽ chấp
nhận công việc đó. Do vậy khi mong muốn lao động tập trung hay giảm bớt
lượng lao động có một công việc, nhà quản lý sử dụng đến công cụ tiền lương.
Muốn tập trung lao động họ chỉ cần đánh giá cao sức lao động mà người lao
động bỏ ra và trả lương cao lên thì tất yếu lao động sẽ tập trung tại đó và
ngược lại muốn giảm bớt lượng lao động quản lý chỉ cần giảm lương thấp
xuống. Đây không phải là sự điều phối lao động bằng các mệnh lệnh hành
chính. Sự điều phối này thực chất là sự tự nguyện của người lao động và vì
vậy hiệu quả của lao động sẽ cao hơn rất nhiều.
4. Chức năng quản lý lao động
Các tác dụng to lớn của tiền lương đối với người lao động đã rõ như
vậy sử dụng công cụ tiền lương trong hoạt động quản lý là điều tất yếu. Tiền
lương thể hiện chức năng quản lý lao động thể hiện qua việc nó được sử dụng
nhằm theo dõi, giám sát người lao động, quản lý gián tiếp người lao động,
đánh giá hiệu quả sử dụng lao động. Nhìn vào tiền lương của người lao động,
ta thấy được nguyên nhân của việc tiền lương cao, thấp là do đâu, do đơn giá
cao hay thấp, do người lao động chăm chỉ hay biếng nhác. Ta thấy được trong
cùng một đơn vị thời gian sự khác nhau về tiền lương giữa hai công nhân
cùng làm việc, đưa ra các nhận định, đánh giá. Khi tiến hành phân tích, chứng
minh các nhận định đó đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện đầy đủ các quan
điểm về tiền lương là thực chất chúng ta đã thực hiện hoạt động quản lý.

III. Vai trò kinh tế của tiền lương
1. Đối với người lao động
Đối với người lao động tiền lương với ý nghĩa là thu nhập của họ có
vai trò to lớn đối với hoạt động của họ trong xã hội. Và vì vậy họ luôn luôn có
mong muốn được tiền lương cao hơn, có được thu nhập nhiều hơn. Muốn vậy
họ phải đóng góp nhiều hơn giá trị sức lao động cảu mình vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của xã hội. Họ tăng lượng giá trị sức lao động đóng góp vào
hoạt động sản xuất không chỉ bằng việc tăng cường độ hoạt động mà ngày
nay họ phải nâng cao hiệu quả sức lao động, phải chuyển từ lao động giản
đơn sang lao động phức tạp. Vì vậy họ phải không ngừng nâng cao khả năng
của mình, cố gắng học hỏi trí thức khoa học, tích lũy kinh nghiệm và sử dụng
những gì họ có một cách sáng tạo nhất nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao
nhất.
Phấn đấu vì một mức tiền lương cao hơn tự thân nó đã làm giảm ảnh
hưởng vật chất của tiền lương khi tiền lương cao và khi kích thích lao động
trở thành cái bên trong của mỗi cá nhân người lao động thì điều đó có nghĩa
là người công nhân đạt được mức độ hoàn thiện rất cao, có khả năng tham
gia các hoạt động cao hơn hoạt động sản xuất như hoạt động quản lý, hoạt
động nghiên cứu khoa học, ranh giới giữa người quản lý và người lao động bị
xóa bỏ. Đây là một mục tiêu lớn mà nếu đạt được thì bản thân người công
nhân cũng như doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng phát triển mạnh mẽ
trong nền kinh tế.
2. Đối với người sử dụng lao động
Chi phí lao động là chi phí đặc biệt, nó mang lại hiệu quả lớn hơn chi
phí bỏ ra nhưng với danh nghĩa là chi phí, chủ doanh nghiệp đều phải đặt ra
yêu cầu tiết kiệm chi phí lao động nhưng nội dung của tiết kiệm ở đây là
không chỉ đơn thuần là giảm, là bớt mà nội dung chủ yếu của tiết kiệm ở đây
là sử dụng hợp lý, hiệu quả chi phí lao động.
Để sử dụng hợp lý chi phí lao động chủ doanh nghiệp hay người quản
lý phải xây dựng được kế hoạch sử dụng lao động hợp lý, xây dựng nên bộ

máy tổ chức quản lý phù hợp, có được hệ thống các đòn bẩy kinh tế đối với lao
động... có như vậy, người lao động mới hăng say với công việc, nỗ lực thực
hiện và mang lại hiệu quả cao nhất.
Sử dụng chi phí lao động phải có tính kế tiếp, phải có kế hoạch trong
tương lai vì vậy người quản lý phải có được kế hoạch nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của doanh nghiệp, phải có kế hoạch tuyển mộ, bồi dưỡng, đào
tạo lại nguồn nhân lực.
Như vậy để đạt được hiệu quả trong việc sử dụng sức lao động (tiền
lương) buộc chủ doanh nghiệp, người quản lý phải có sự cố gắng rất lớn, phải
nâng cao trình độ của mình... như vậy nó không chỉ có lợi cho người lao động
mà còn có ích cho sự phát triển của doanh nghiệp mang lại nhiều lợi nhuận
cho chủ doanh nghiệp.
3. Đối với xã hội
Có thể nhận thấy ảnh hưởng của tiền lương đối với nền kinh tế quốc
dân là rất to lớn. Trong kinh tế vĩ mô tiền lương là một bộ phận không thể
tách rời trong việc xây dựng nên các chính sách kinh tế vĩ mô. Tiền lương
trong nền kinh tế là một phần trong giá trị tổng sản phẩm quốc dân và quốc
nội (GDP và GNP)
Nó là cơ sở để xây dựng nên các chính sách về đầu tư, lãi suất, thu
nhập, những chính sách lớn đối với bất kỳ nền kinh tế nào.
Ảnh hưởng xã hội của tiền lương cũng rất lớn vì nó tác động trực tiếp
đến cuộc sống của người lao động. Khi có sự bất cập trong chính sách tiền
lương sẽ là một trong các nguyên nhân cơ bản gây ra sự bất ổn trong xã hội
và gây cản trở sự phát triển của xã hội trên nhiều mặt kinh tế, văn hóa...
B. Các hình thức tiền lương đang được áp dụng trong các
doanh nghiệp
Các hình thức tiền lương hợp lý có tác dụng kích thích tăng năng suất
lao động, sử dụng thời gian lao động hợp lý nâng cao chất lượng sản phẩm.
Với mục đích phát huy tính chủ động sáng tạo của doanh nghiệp trong lĩnh
vực tiền lương Nhà nước quy định.

“Xí nghiệp có quyền lựa chọn các hình thức trả lương thực hiện rộng
rãi lương khoán, lương sản phẩm và các hình thức tiền lương trong xí nghiệp,
trên cơ sở quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động và đảm bảo mối
quan hệ giữa nhịp độ tăng tiền lương (thu nhập) bình quân với năng suất của
đơn vị”
Tùy thuộc vào các điều kiện cụ thể khác nhau của quá trình lao động
và các nhiệm vụ kinh tế được giải quyết mà lựa chọn hình thức trả lương. Về
nguyên tắc, tất cả các hình thức trả lương đều quy về hai hình thức chủ yếu là
lương sản phẩm và lương thời gian, có thể được trả kết hợp với các khoản
tiền thưởng theo lương (lương thời gian có thưởng và lương sản phẩm có
thưởng). Bằng cách này trong tiền lương bao hàm các kết quả khác nhau về
mặt chất lượng và số lượng mà nếu chỉ trả lương thời gian hoặc lương sản
phẩm đơn thuần không thể thực hiện được.
I. Hình thức trả lương theo thời gian
Hình thức trả lương theo thời gian là số tiền lương trả cho người lao
động căn cứ vào thời gian làm việc và tiền lương trong một đơn vị thời gian.
Như tiền lương theo thời gian phụ thuộc vào 2 nhân tố ràng buộc là mức độ
tiền lương trong một đơn vị thời gian và thời gian làm việc.
Tùy điều kiện và trình độ quản lý thời gian lao động, hình thức trả
lương theo thời gian có thể áp dụng theo 2 cách trả lương theo thời gian giản
đơn và trả lương theo thời gian có thưởng.
1. Hình thức trả lương theo thời gian giản đơn
Tiền lương theo thời gian giản đơn là số tiền trả cho người lao động
chỉ căn cứ vào bậc lương và thời gian thực tế làm việc không xét đến thái độ
lao động và kết quả công việc. Tiền lương theo thời gian giản đơn bao gồm:
Lương tháng, lương ngày, lương giờ.

×