Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIỀN LƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.47 KB, 28 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIỀN LƯƠNG
I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG, TIỀN THƯỞNG.
1. Khái niệm.
Lịch sử Việt Nam cũng đã trải qua những bước thăng trầm, biến đổi để
từng bước khẳng định vị thế của mình về mọi mặt ở cả trong và ngoài khu vực.
Trong những khoảng thời gian khác nhau gắn liền với những chế độ xã hội
khác nhau mà tiền lương được quan niệm khác nhau, được hiểu khác nhau và
bản chất thực tế cũng khác nhau.
Trước đây trong nền kinh tế Xã hội Chủ nghĩa thì “Tiền lương là một bộ
phận của thu nhập quốc dân, biểu hiện bằng tiền, được Nhà nước trả cho
người lao động một cách có kế hoạch, căn cứ vào số lượng và chất lượng lao
động mà người đó đã cống hiến cho xã hội”.
Hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì “tiền lương là giá cả
của sức lao động được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động
và người sử lao động phù hợp với quan hệ cung cầu về sức lao động trong nền
kinh tế thị trường”.
Như vậy theo thời gian tiền lương được định nghĩa khác nhau, song dù
định nghĩa theo kiểm nào thì tiền lương luôn có những cái chung nhất, cụ thể
nhất, “Tiền lương là sự biểu hiện bằng tiền của những gì mà người lao động
nhận được căn cứ vào số lượng và chất lượng sức lao động mà họ đã bỏ ra. Từ
đó cũng có thể quan niệm rằng: tiền lương là giá cả hàng hoá sức lao động, giá
cả này được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người mua và người bán.
Tiền lương đã trở thành giá cả của một loại hàng hoá đặc biệt là hàng hoá sức
lao động và điều này đã được kiểm chứng trong thời kỳ kinh tế thị trường hiện
nay, cụ thể:
+ Người lao động có sức lao động, có quyền tự do về thân thể của mình,
nhưng vì không có vốn và tài sản gì khác ngoài sức lao động của mình, nên anh
ta muốn tồn tại thì phải cho thuê (bán) sức lao động của mình.
+ Người sử dụng lao động có vón, có tài sản, nhưng lại thiếu sức lao
động, do đó phải đi thuê, mua sức lao động.
Khi đó dẫn tới một sự trao đổi “mua – bán” sức lao động thông qua một


hợp đồng lao động. Sau quá trình làm việc người lao động nhận được một
khoản thu nhập liên quan đến kết quả lao động của mình gọi là thù lao, hay
được nhận công lao động.
Tiền công theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các hình thức bù đắp hao phí
lao động mà doanh nghiệp trả cho người lao động, sau khi họ làm việc cho
doanh nghiệp. Bao gồm có tiền lương, tiền thưởng, cùng các hình thức trả tiền
khác như phúc lợi xã hội, bảo hiểm, phụ cấp, trợ cấp. Sát thực hơn “tiền công
lao động là lượng tiền mà người chủ doanh nghiệp (đơn vị) đồng ý trả và
người lao động đồng ý chấp nhận trong mối quan hệ với việc đem khả năng
lao động của mình ra hoàn thành các công việc nhất định.
Trong thực tế “tiền công” cần được phân tích sâu xa hơn và phải được
phân chia thành:
Tiền công danh nghĩa: là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho
người bán sức lao động.
Tiền công thực tế: biểu hiện qua số ượng hàng hoá tiêu dùng và các loại
dịch vụ mà họ mua được thông qua tiền công danh nghiã.
Qua đó cho thấy tiền công danh nghĩa không những liên quan đến tiền
công thực tế mà còn phụ thuộc chặt chẽ vào sự biến động của giá cả hàng hoá
và công việc phục vụ mối quan hệ này có thể được thể hiện qua công thức:
I
TCTT
=
GC
TCDN
I
I
Trong đó:
I
TCTT
: chỉ số tiền công thực tế

I
TCDN
: Chỉ số tiền công danh nghĩa
I
GC
: Chỉ số giá cả.
Từ công thức trên cho thấy: Nếu chỉ số giá cả tăng lên đồng thời chỉ số
tiền công danh nghĩa không đổi thì sẽ làm giảm tiền công thực tế, điều đó sẽ
ảnh hưởng tới sức mua của công nhân.
2. Vai trò của tiền lương trong nền kinh tế thị trường
a. Chức năng thước đo giá trị:
Tiền lương là giá cả của sức lao động, là sự biểu hiện bằng tiền của giá
trị sức lao động, do đó tiền lương có chức năng thức đo giá trị và được dùng
làm căn cứ để xác định đơn giá trả lưoưng, đồng thời là cơ sở để điều chỉnh
giá cả sức lao động khi giá cả tư liệu sinh hoạt biến động.
Sức lao động có thể phân chia làm hai loại hình lao động cơ bản là lao
động cơ bắp và lao động trí tuệ, mỗi loại hình lao động có những đặc trưng và
đặc điểm khác nhau do đó tiền lương khi thực hiện chức năng thước đo giá trị
của mình cũng phải có sự điều chỉnh và phân biệt khác nhau. Cụ thể như sau:
Lao động cơ bắp: là loại hình lao động chủ yếu sử dụng sức khoẻ, không
cần có trình độ chuyên môn cao, không qua đào tạo mà vẫn có thể làm việc
được. Người có sức khoẻ tốt, nhanh nhẹn có khả năng hoàn thành được khối
lượng công việc nhiều hoặc công việc nặng nhọc hơn thì trả lương cao hơn,
còn những người làm những công việc nhẹ hoặc làm ít thì hưởng lương thấp.
Tuy nhiên trong thực tế hiện nay với loại hình lao động này ở nước ta, chức
năng thước đo giá trị của tiền lương chưa thật sự phản ánh chính xác, nhiều
khi còn mang tính tương đối đại khái. Nguyên nhân chủ yếu là bởi vì một phần
những người lao động cơ bắp thường an phận với mức lương của mình học
thường chỉ cố gắng để hoàn thành công việc để nhận một khoản lương cố định
hàng tháng để đảm bảo cuộc sống sinh hoạt hiện tại của họ.

Lao động trí tuệ: Với hình thức lao động này chức năng thước đo giá trị
của tiền nghề, thâm niên công tác theo chức vụ chức danh nắm giữ.
Hiện nay ở nước ta khi đề cập tới vấn đề này còn nhận thấy một sự bất
cập rất lớn. Cụ thể: Với các doanh nghiệp Nhà nước tiền lương thường thấp
hơn so với các công ty tư nhân, Công ty TNHH, Công ty Liên doanh này Công ty
nước ngoài. Nếu nhìn từ góc độ này thì thước đo giá trị sức lao động có sự
chênh lệch rất lớn, song để bù lại các doanh nghiệp tạo cho người lao động
một sự ổn định lâu dài, đây chính là cái giá phải trả chọ đánh đổi này.
b. Vai trò tái sản xuất sức lao động
Trong quá trình lao động, sức lao động bị hao mòn dần cùng với quá
trình tạo ra sản phẩm. Muốn duy trì khả năng làm việc lâu dài cho người lao
động, cần phải bù đắp lại sức lao động đã hao phí, tức là cần tái sản xuất sức
lao động mới với quy mô mở rộng hơn sức lao động đã hao phí như Mác đã nói
“Sức lao động của một người chỉ tồn tại trong con người sống đó và để phát
triển và duy trì đời sống của mình con người phải tiêu dùng một số lượng nhất
định, vì vậy muốn cho quá trình sản xuất được tiếp tục, sức lao động cũng phải
được tái sản xuất liên tục”.
Các quốc gia khác nhau đều có những mức tiền lương khác nhau, mức
lương tối thiểu quy định thường là hình thức, biểu hiện của tái sản xuất giản
đơn, nó là mức lương trả công lao động thấp nhất để đảm bảo cho người lao
động có một mức sống tối thiểu. ở các nơi khác nhau mức sống tối thiểu cũng
khác nhau, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, chỉ số giá
cả, vị trí địa lý … từ đó cũng có thể thấy được khái niệm “Mức sống tối thiểu”
chỉ có tính chất tương đối, nó chỉ đúng trong một phạm vi hẹp, còn khi mở
rộng ra thì không còn phù hợp nữa. Chẳng hạn ở nước ta với những vùng nông
thôn thì mức sống tối thiểu được hiểu là đủ cơm ăn áo mặc, nhưng ở một số
thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh thì mức sống tối thiểu
không chỉ dừng lại ở cơm ăn áo mặc, mà phải là ăn ngon mặc đẹp. Mở rộng
hơn ra phạm vi toàn cầu thì một số nước phát triển như Mỹ, Pháp… thì mức
sống tối thiểu của họ phải làm đảm bảo cuộc sống, đồng thời có đủ điều kiện

học hành, có khả năng vui chơi giải trí từ một đến hai lần trong năm. Trong
trường hợp này mức lương tối thiếu không đơn thuần là tái sản xuất giản đơn
nữa mà nó còn mang tính chất xã hội sâu sắc, địa diện cho khả năng, cũng như
trình độ phát triển của các quốc gia.
Tiền lương là một phạm trù thuộc về lĩnh vực quan hệ sản xuất, do đó
tiền lương hợp lý sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển và
ngược lại nó sẽ kìm hãm sản xuất. Tái sản xuất không chỉ đơn thuần là sản
xuất lặp lại như cũ mà nó cần được tái sản xuất mở rộng hơn, tức là thoả mãn
đầy đủ hơn những nhu cầu vạat phẩm tiêu dùng cho người lao động để họ
không những duy trì sức lao động mà còn tạo ra thể lực và trí lực cao hơn. ở
những nước phát triển tiền lương tối thiểu vẫn cho phép họ có được điều kiện
học hành vui chơi giải trí, điều đó có nghĩa là thể lực và trí lực của họ được
tăng cường và mở rộng hơn trước nó sẽ góp phần tăng nhanh và mạnh hơn
trong việc tái sản xuất sức lao động.
Trong nền kinh tế hàng hoá, sức lao động là một trong những yếu tố
thuộc chi phí đầu vào của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, muốn cho
tái sản xuất sức lao động của xã hội diễn ra một cách bình thường, cần khôi
phục và tăng cường sức lao động cá nhân để bù lại sức lao động đã hao phí
trong quá trình sản xuất. Tiền lương là một trong những tiền đề vật chất có
khả năng đảm bảo tái sản xuất sức lao động trên cơ sở bù lại sức lao động đã
hao phí. Vì vậy các yếu tố cấu thành tiền lương phải đảm bảo không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần người lao động, đồng thời trong sử dụng
lao động không được trả lương thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước
quy định. Nước ta hiện nay mức lương tối thiểu được áp dụng là
210000đ/tháng cho một người lao động, tuy nhiên khi các doanh nghiệp khi
áp dụng tuỳ theo loại hình hoạt động kinh doanh mà có hình thức điều chỉnh
cho phù hợp trên cơ sở vẫn đảm bảo tuân thủ các quy định của Nhà nước.
c. Vai trò điều phối lao động
Một trong những ưu điểm của nền kinh tế thị trường là tạo ra sự phối
hợp, hợp lý hoá các nguồn lực thông qua hệ thống thị trường. Sự ra đời của hệ

thống thị trường lao động mà trong đó sức lao động chính là hàng hoá, tiền
lương được coi là giá cả hàng hoá, sức lao động đã tạo nên một thế cân bằng
cung cầu nhất định giữa những công việc và các vùng khác nhau. Người lao
động chỉ đồng ý bán sức lao động của mình khi họ nhận được một mức tiền
công nhất định hoặc thoả mãn một nhu cầu nhất định nào đó. Do đó với một
mức tiền lương nhất định thì cũng chỉ có một số lượng nhất định nào đó. Do đó
với một mức tiền lương nhất định thì cũng chỉ có một số lượng nhất định
những người lao động làm việc, bởi xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của công
việc phù hợp với khả năng của họ cũng như mong muốn có thể có mức tiền
lương tương xứng với khả năng làm việc. Song chính những điều đó sẽ góp
phần tích cực vào quá trình điều phối lao động. Chẳng hạn có những công việc
độc hại nguy hiểm, hoặc có thể có yêu cầu trình độ cao, do đó chỉ có một số
lượng nhất định những người lao động có thể sẵn sàng làm việc trong những
điều kiện lao động như thế này, ngược lại những công việc đơn giản phù hợp
với những người lao động cơ bắp có mức lương thấp, khi đó những người có
trình độ cao lại không thích làm việc.
Nước ta hiện nay chính sách tiền lương đãi ngộ cho những người làm
việc ở khu vực vùng sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số …, nếu làm việc ở đây
họ có thể nhận được thêm phụ cấp từ 10% đến 100% tiền lương cấp bậc của
họ, phần phụ cấp này nhằm giúp những người làm việc tại đây có cuộc sống ổn
định hơn trong những điêù kiện đi lại và sinh hoạt khó khăn đây cũng là một
chính sách khuyến khích mọi người làm việc tại những khu vực này. Có thể
thấy những chính sách phụ cấp hiện này của nhà nước ta rất đa dạng: như phụ
cấp trách nhiệm, phụ cấp độc hại, phụ cấp lưu động, phụ cấp đắt đỏ… tất cả
những chính sách này đều nhằm một mục đích chung nhất là hợp lý hoá chính
sách tiền lương cũng như sự điều phối lao ,động.
d. Vai trò tạo động lực thúc đẩy sản xuất
Trong hoạt động kinh tế thì lợi ích kinh tế là động lực cơ bản, nó biểu
hiện trên nhiều dạng, có lợi ích tinh thần và lợi ích vật chất, lợi ích trước mắt
và lâu dài, có lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và công đoàn xã hội. Tuy vậy, lợi

ích cá nhân người lao động là động lực trực tiếp và tiền lương có thể tạo động
lực vật chất trong lao động. Vì vậy, khi người lao động làm việc đạt hiệu quả
cao phải được trả lương cao hơn. Tiền lương phải đảm bảo khuyến khích
người lao động nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả lao động,
tiền lương phải khuyến khích người lao động có tài năng, khuyến khích lao
động sáng tạo góp phần điều phối và ổn định lao động xã hội. Mặt khác cần
phát huy vai trò tiền thưởng và các khoản phụ cấp, đó là sự thể hiện chức
năng kích thích. Cụ thể:
- Tiền lương theo cấp bậc: Phần tiền lương này tương đối ổn định và
thường thay đổi sau khoảng thời gian từ hai đến ba năm, phần tiền lương cơ
bản này phụ thuộc rất lớn vào tay nghề, trình độ chuyên môn của người lao
động. Muốn tiền lương cơ bản cao người lao động hải không ngừng hoàn thiện
mình nâng cao năng suất lao động tăng cường khả năng sáng tạo trong công
việc đồng thời cũng phải hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình để được thay đổi
nâng bậc lương.
- Phụ cấp: Đây là phần ngoài lương để đảm bảo cao hơn những nhu cầu
đòi hỏi, cũng như đảm bảo công bằng hơn cho người lao động đồng thời thể
hiện sự quan tâm của doanh nghiệp, của xã hội đối với từng loại hình lao động
làm việc nặng nhọc khác nhau.
- Tiền thưởng: có thể nói tiền thưởng là động lực thúc đẩy người lao
động làm việc chỉ đứng sau tiền lương cấp bậc, trong một chừng mực nhất
định nào đó nó còn có ý nghĩa rất lớn bởi nó đánh dấu một kết lao động mà có
thể nhìn thấy một cách rõ ràng, đồng thời bổ xung thêm những động lực mà
tiền lương cấp bậc không thể đảm đương hết. Hiện nay trong nền kinh tế thị
trường yếu tố tiền thưởng càng khẳng định vị trí đúng đắn của nó trong vai
trò tạo động lực cho người lao động.
e. Thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp
Một chế độ tiền lương thoả đáng đối với từng đối tượng, khuyến khích
người lao động hăng say làm việc và thu hút những người lao động có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao, sẽ luôn là một chiến lược quan trọng của Công ty.

Bởi điều đó là một trong những nhân tố quyết định trực tiếp tới hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Chẳng hạn khi một doanh
nghiệp trả lương thoả đáng cho người lao động để họ không ngừng nâng cao
năng suất lao động luôn phát huy những sáng kiến cải tiến kỹ thuật sẽ thúc
đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển còn ngược lại
khi sự công bằng và sự thoả đáng ở mức tối thiểu cũng không được đáp ứng sẽ
không tạo được động lực cho người lao động và sẽ cản trở quá trình phát triển
sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn hiện nay, nhân tố con người lại càng
được hết sức chú ý vì họ sẽ chính là những người tạo nên nhiều bước nhảy mới
cho doanh nghiệp, để duy trì sức mạnh cạnh tranh trong thời kỳ mới này, mà
muốn làm được điều đó thì một phần rất lớn phụ thuộc vào chính sách tiền
lương, tiền thưởng của doanh nghiệp.
h. Chức năng bảo hiểm
Bảo hiểm là nhu cầu thiêng liêng trong lao động. Chức năng bảo hiểm
của tiền lương đảm bảo cho người lao động chẳng những duy trì được cuộc
sống hàng ngày diễn ra bình thường, trong thời gian còn khả năng lao động và
đang làm việc, mà còn có khả năng dành lại một phần tích luỹ dự phòng cho
cuộc sống mai sau, khi họ hết khả năng lao động hoặc chẳng may gặp rủi ro
bất trắc trong cuộc sống.
Khi đời sống xã hội càng phát triển, nhu cầu của người lao động tăng
cao thì chức năng bảo hiểm càng được người lao động chú ý, nó không còn
thuần tuý là thoả mãn một mức sống tối thiếu mà nó tạo dựng lòng tin, sự
đảm bảo cuộc sống của họ và gia đình họ trong những trường hợp thiết yếu
như khi ốm đau, bệnh tật …
Sự vận động của xã hội là muôn hình muôn vẻ, và ngày một tăng cao, các
gia đình có xu hướng tăng cường vui chơi giải trí, đồng thời có nguồn tiết kiệm
nhiều hơn, điều đó càng củng cố lòng tin cho người lao động có tiền lương, có
nguồn chi phí và bảo đảm cuộc sống cho họ.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương chịu sự chi phối của nhiều nhân

tố như: điều kiện kinh tế xã hội, luật lao động, thương lượng tập thể, thị
trường lao động, vị trí địa lý, giá sinh hoạt tưng vùng, khả năng tài chính của
doanh nghiệp v.v… từ đó cũng cho thấy trách nhiệm to lớn của những người
làm nhiệm vụ quản lý nguồn nhân lực, bởi lẽ họ cần phải nghiên cứu một cách
chi tiết và tỉ mỉ sự ảnh hưởng cũng như mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố
tới tiền công của người lao động, từ đó đảm bảo tính công bằng cho những
người lao động. Cụ thể được biểu hiện qua sơ đồ sau:
B ả n thân công vi ệ c
(Độ phức tạp của vị trí công việc)
Xã h ộ i v thà ị tr ườ ng lao độ ng
- Sự phát triển của nền kinh tế xã hội
- Chi phí sinh hoạt
- Lương trung bình trên thị trường lao động của ng nh à …
B ả n thân ng ườ i lao độ ng.
- Khả năng kiến thức tay nghề
- Thâm niên v mà ức độ trung th nhà
- Tiềm năng cá nhân
- Mức độ ho n th nh công vià à ệc
Doanh nghi ệ p
- Khả năng t i chínhà
- Chính sách tiền lương
- Môi trường v hoá doanh nghiệp …
Tiền lương
a. Xã hội và thị trường lao động
+ Nhu cầu lao động: Lực lượng lao động thừa hay thiếu là một trong
những yếu tố ảnh hưởng rất lớn tiền công của người lao động. Cụ thể khi lực
lượng lao động dư thừa, tỷ lệ thất nghiệp cao thì tiền công lao động có xu
hướng giảm dần tới mức tối thiểu, người lao động lo mất việc làm phải không
ngừng cố gắng thoả mãn những yêu cầu khắt khe trong công việc, còn khi lực
lượng lao động khan hiếm thì những người lao động có nhiều cơ hội tự do lựa

chọn những công việc thích hợp và có mức lương thoả đáng. Với doanh nghiệp
họ phải nâng cao mức lương để kích thích, thu hút người lao động về phía
doanh nghiệp mình.
+ Chi phí sinh hoạt: người lao động khi làm việc họ cần mức lương phù
hợp, đáp ứng những yêu cầu về vật chất và tinh thần, đồng thời phải đáp ứng
được chi phí sinh hoạt tối thiểu của họ. Khi xã hội càng phát triển thì nhu cầu
chi tiêu cho sinh hoạt ngày càng gia tăng, có nghĩa là họ mong muốn thu nhập
của họ cũng gia tăng theo sự phát triển của xã hội.
+ Xã hội: Tiền lương chịu ảnh hưởng rất mạnh của chỉ số giá trên thị
trường, cụ thể khi giá cả trên thị trường tăng sẽ làm cho tiền lương thực tế
của người lao động giảm xuống, do đó nếu muốn tiền lương thực tế không
thay đổi thì tiền lương danh nghĩa cũng phải tăng lên theo.
Tiền lương được dùng để tái sản xuất sức lao động, sức lao động lại tạo
ra tiền lương mới, đây được coi như một vòng tuần hoàn trong quá trình luân
chuyển trao đổi. Tuy nhiên nếu xét trong một khoảng thời gian đủ lớn, nó được
thể hiện thông qua sự phát triển của nền kinh tế xã hội, nhu cầu đời sống sinh
hoạt tăng cao hơn trước, thì tiền lương giai đoạn sau phải lớn hơn giai đoạn
trước.
TL
i
Tái sản xuất sức lao động TL’
i+1
Trong đó:
TL
i
: Tiền lương ở một thời điểm
T’
i+1
: Tiền lương ở thời điểm i + 1
Theo sơ đồ này TL

i+1
> TL
i
+ Luật pháp: chính sách tiền lương phải theo quy định của Nhà nước,
theo các giai đoạn khác nhau mà Nhà nước có những quyết định khác nhau về
tiền lương, thường là có sự thay đổi tăng mức lương tối thiểu, bên cạnh đó có
thể có thêm những chính sách mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể
thay đổi mức lương tối thiểu của mình.
b. Bản thân người nhân viên
Bản thân người lao động quyết định chủ yếu tới mức lương, bởi lẽ mỗi
người lao động được đào tạo khác nhau, có khả năng, trình độ, kinh nghiệm
cũng như thâm niên công việc khác nhau. Cụ thể.
+ Khả năng hoàn thành công việc: Người lao động khi tham gia làm việc
họ có những kỹ năng nhất định cho phép họ hoàn thành một khối lượng công
việc nhất định. Những người có thể hoàn thành công việc một cách nhanh
chóng, kết quả cao, có kiến thức sâu rộng, tay nghề vững chắc sẽ tạo dựng cho
họ có thể có được những lương cao hơn so với mức lương chung của xã hội,
mà cụ thể hơn đó là một thời gian, một lượng hao phí về cả trí tuệ lẫn tài sản
để đảm bảo cho họ có một bước đi vững chắc trong công việc.
ở nước ta hiện nay trong phạm vi khuân khổ của các doanh nghiệp Nhà
nước, những người có trình độ khác nhau thì có những hệ số lương khác nhau.
Chẳng hạn người tốt nghiệp đại học có hệ số lương khởi điểm là 1.78 còn
những người tốt nghiệp cao đẳng các trường trung học thì hệ số lương thấp
hơn.
+ Kinh nghiệm và thâm niên công tác: Hiện nay trong mọi lĩnh vực hoạt
động đều không thể phủ nhận yếu tố kinh nghiệm, bởi nó sẽ góp phần không
nhỏ trong việc tăng cường hiệu quả lao động. Hiện nay ở nước ta kinh nghiệm
được thừa nhận được gắn liền với thâm niên công tác, người có thâm niên
công tác nhiều lương cao và ngược lại.
Thực tế hiện nay những cán bộ công nhân viên làm việc trong doanh

nghiệp Nhà nước thường từ hai đến ba năm thì được xét duyệt tăng lương
một lần, đây cũng là một điểm mạnh của chính sách tiền lương, bởi nó tạo
dựng thêm lòng trung thành của cá nhân đối với doanh nghiệp.
+ Tiềm năng nhân viên và các yếu tố khác: Người lao động không chỉ
được quan tâm đến những khả năng hiện tại mà họ còn được chú ý tới cả
những tiềm năng lâu dài, lòng trung thành … tuy nhiên nhân tố này thường
thường chưa được áp dụng hoàn toàn trong các doanh nghiệp Nhà nước mà
chủ yếu mới chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp tư nhân và các Công ty nước
ngoài.
c. ảnh hưởng của doanh nghiệp
+ Chính sách tiền lương của doanh nghiệp: Trong mỗi doanh nghiệp đều
có chính sách riêng về tiền lương. Doanh nghiệp có thể trả lương cao hơn mức
lương tối thiểu vì các mục đích khác nhau, nhưng chủ yếu là đảm bảo cho quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh lương cơ bản thì trong
mỗi doanh nghiệp thì bên cạnh lương cơ bản có có các khoản cộng thêm như
tiền thưởng, phụ cấp … những khoản này tổng hợp lại làm tăng mức thu nhập
của người lao động. Một doanh nghiệp có thể trả lương cao để thu hút lao
động, thu hút những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tay nghề, nhưng
cũng có thể trả lương thấp khi nhu cầu lao động của họ không cao.
+ Khả năng tài chính của Công ty: Mỗi doanh nghiệp đều có sức mạnh tìa
chính riêng, khả năng chi trả cũng khác nhau, khi các doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả thu được lợi nhuận họ sẵn sàng trả lương cao hơn thông qua các hệ
số hoàn thành nhiệm vụ và tiền thưởng, nhưng ngược lại khi làm ăn không có
hiệu quả thì các phần thưởng hoàn thành nhiệm vụ các khoản tiền thưởng
khác sẽ bị cắt giảm.
+ Các yếu tố khác: Bên cạnh các chính sách tiền lương và khả năng tài
chính của doanh nghiệp, thì tiền lương còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
khác từ bên trong doanh nghiệp như tiềm năng phát triển, bầu không khí văn
hoá, loại hình doanh nghiệp … những nhân tố này cũng tác động không nhỏ tới
mức lương của doanh nghiệp ở cả hiện tại cũng như trong tương lai.

d. Bản thân công việc
Mỗi công việc đều có những yêu cầu đòi hỏi khác nhau, độ phức tạp khác
nhau, do đó mức lương cho các loại hình công việc cũng khác nhau. Có những
công việc yêu cầu thời gian làm việc dài, có trình độ cao, yêu cầu kỹ thuật rất
khắt khe, nhưng cũng có những công việc chỉ mang tính thủ công thuần tuý, do
vậy yêu cầu đòi hỏi của những nhà quản lý phải có sự kết hợp với các nhà kỹ
thuật để định mức chi trả lương cho từng người lao động một hợp lý.
4. ý nghĩa của tiền công và tiền lương
+ Tiền công: Tiền công quyết định địa vị xã hội của người lao động, là động lực chủ yếu để thút
người lao động, tiền công bao hàm ý nghĩa rộng hơn tiền lương.
+ Tiền lương: Có ý nghĩa rất lớn không chỉ với người lao động mà còn
với cả doanh nghiệp. Cụ thể:
* Đối với người lao động: Tiền lương là phần thu nhập chủ yếu của
người lao động, là phương tiện để duy trì sự tồn tại và phát triển của người
lao động cũng như nhu cầu cuộc sống của gia đình họ. Tiền lương ở một góc
độ nào đó là một bằng chứng cụ thể thể hiện giá trị của người lao động, thể
hiện uy tín và địa vị của họ trong xã hội. Từ đó người ta có thể tự đánh giá
được giá trị của bản thân mình và có quyền khi có tiền lương cao, đồng thời
tiền lương còn là một phương tiện để đánh giá mức độ đối xử của doanh
nghiệp với người lao động đã bỏ sức lao động cung cấp cho doanh nghiệp.
* Đối với doanh nghiệp: Tiền lương là một khoản chi phí bắt buộc, do đó
muốn nâng cao lợi nhuận, hạ giá thành sản phẩm thì các doanh nghiệp phải
biết quản lý và tiết kiệm chi phí tiền lương. Tiền lương cao là một phương tiện
rất hiệu quả để thu hút lao động có tay nghề cao và tạo ra lòng trung thành
của người nhân viên đối với doanh nghiệp. Đồng thời tiền lương còn là một
phương tiện kích thích động viên người lao động tạo nên sự thành công và
hình ảnh đẹp đẽ của doanh nghiệp trên thị trường.
II. CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG, TIỀN THƯỞNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Các chế độ tiền lương hiện nay của nước ta
1.1. Tiền lương tối thiểu

a. Khái niệm.
Nhu cầu tối thiểu là nhu cầu thiết yếu, cơ bản tối thiểu về các mặt ăn,
mặc, ở, đi lại, học tập, đồ dùng, hưởng thụ văn hoá xã hội, giao tiếp xã hội, bảo
hiểm xã hội và nuôi con nhằm duy trì cuộc sống và làm việc. Từ đây ta có khái
niệm về mức sống tối thiểu: “Mức sống tối thiểu là mức độ thoả mãn các nhu
cầu tối thiểu, trong những điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, đó là mức sống thấp
chỉ đảm bảo cho con người một thân thể khoẻ mạnh và một nhu cầu văn hoá
tối thiể, dưới mức sống đó con người không đảm bảo nhân cách cá nhân”.
Vậy: “Mức lương tối thiểu là số lượng tiền chi dùng để trả cho người lao
động làm những công việc giản đơn nhất trong xã hội trong điều kiện và môi
trường lao động bình thường, chưa qua đào tạo nghề, đó là số tiền đảm bảo
cho người lao động có thể mua được các tư liệu sinh hoạt và tiêu dùng thiết
yếu cho tái sản xuất sức lao động cá nhân và dành một phần để bảo hiểm tuổi
già và nuôi con.
Tình hình tiền lương tối thiểu của Nhà nước ta qua các giai đoạn như
sau:
* Năm 1960 tiền lương tối thiểu là L
min
= 27đ/tháng
* Năm 1985 tiền lương tối thiểu là L
min
= 220đ/tháng
* Năm 1989 tiền lương tối thiểu là L
min
= 22500đ/tháng
* Năm 5/1993 tiền lương tối thiểu là L
min
= 120.000đ/tháng
* Năm 1/1997 tiền lương tối thiểu là L
min

= 144.000đ/tháng

×