Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.82 KB, 13 trang )

A. Đặt vấn đề
Như chúng ta đã biết, dân tộc Việt Nam ta có một nền văn hóa rất phong phú
và đa dạng trên mọi mặt đời sống tinh thần của người Việt cùng với cộng đồng 54
dân tộc anh em vẫn ngày ngày gìn giữ những nét văn hóa tốt đẹp từ lâu đời. Như
các dân tộc khác trên thế giới, từ thuở xa xưa dân tộc Việt Nam đã thờ các thần
linh.Họ thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu hình mà thực chất là các hiện thượng
thiên nhiên và xã hội mà họ chưa giải thích được.Từ đó hình thành nên tín ngưỡng
của dân tộc Việt Nam. Trong các loại tín ngưỡng thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là
một hình thức tín ngưỡng cơ bản và phổ biến của người Việt Nam, bất kể là đồng
bằng hay miền núi, nông thôn hay thành thị, người giàu hay người nghèo…
Nguyễn Đình Chiểu có câu:
Thà đuôi mà giữ đạo nhà
Còn hơn mắt sáng cha ông không thờ
Vượt lên trên cả khía cạnh tín ngưỡng, tôn giáo tục thờ cúng tổ tiên thấm
đượm đạo lý uống nước nhớ nguồn, một thứ ứng xử cộng đồng gia tộc, quốc gia,
nó trở thành một chuẩn mực khuôn mẫu của ứng xử của con người Việt Nam.
B. NỘI DUNG
PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG
1. Nguồn gốc:
Xuất phát từ quan niệm người chết linh hồn vẫn tiếp tục sống ở nơi chín suối,
ở thế giới bên kia, vẫn có nhu cầu sinh hoạt như người sống nên người ta chôn theo
người chết những đò tùy táng, phân chia các đò dùng sinh hoạt cá nhân cho ngời
chết.
“Thờ phụng tổ tiên không phải là thứ tôn giáo mà là lòng kính và biết ơn của
người sống đối với người đã khuất” (Toan Ánh). Thờ cúng tổ tiên là thờ những
người đã khuất , nằm trong cùng huyết thống gia đình, gia tộc. Cúng giỗ ông bà tổ
tiên vào đúng ngày ông bà tổ tiên qua đời, phạm vi tiến hành chỉ có con cháu trong
gia đình, gia tộc.
Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trước hết phải đề cập đến chế độ
phụ quyền. Khi bước vào chế độ phụ quyền, vai trò của người đàn ông trở nên
quan trọng trong hoạt động kinh tế và sinh hoạt của gia đình. Con cái mang họ cha


và con trai kế tiếp ý thức về uy quyền trong gia đình của mình. Tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên bắt nguồn từ đấy..
Không chỉ chịu ảnh hưởng từ chế độ phụ quyền, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
còn chịu ảnh hưởng từ ba dòng tôn giáo chính ở Việt Nam. Đó là:
- Nho giáo: Theo như Khổng Tử, sự sống của con người không phải do tạo
hóa sinh ra càng không phải do bản thân tự tạo ra mà nhờ cha mẹ, sự sống của cha


mẹ lại gắn với ông bà và cứ như vậy thế hệ sau kế tiếp thế hệ trước, vì thế mà thế
hệ sau phải biết ơn thế hệ trước. Cùng với tư tưởng tôn quân, quyền huynh thế phụ
đã củng cố thêm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở nước ta ngày một thể chế hóa.
- Đạo giáo: Nếu như Khổng giáo đặt nền tảng lý luận về đạo đức, về trật tự kỉ
cương xã hội cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt thì Đạo giáo góp phần
củng cố niềm tin vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên của linh hồn những người đã
chết thông qua một số nghi lễ thờ cúng như: gọi hồn, bùa chú, ma chay, tang lễ, mồ
mả và đốt vàng mã.
- Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự giữ gìn và phát triển tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam trước hết là quan niệm của Phật giáo về cái
chết, kiếp luân hồi và nghiệp báo. Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo có ảnh
hưởng lớn lao đến sự phát triển của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt nhưng
không vì thế mà có sự sao chép y nguyên. Người Việt Nam quan niệm rằng cha mẹ
tổ tiên luôn lo lắng, quan tâm cho con cái ngay cả khi họ đã chết. Người sống
chăm lo đến linh hồn người chết, vong hồn người chết sẽ quan tâm đến sự sống của
người đang sống.
2. Bản chất:
Bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt đều mang chung ba
khía cạnh:
- Thờ cúng những người trong cùng dòng họ máu mũ đã khuất, theo từng
đơn vị gia đình, gia tộc…
- Nó mang tính chất là một hình thái tín ngưỡng, thờ tự, cúng lễ, cầu mong

linh hồn ông bà tổ tiên “phù hộ” cho hiện thực cuộc sống của con cháu.
- Nó cộng thêm khía cạnh đạo lý uống nước nhớ nguồn: “Công cha như núi
Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
PHẦN II: SỰ KHÁC BIỆT TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN GIỮA
HAI MIỀN NAM BẮC.
1. Sự tương đồng tín ngưỡng thờ cúng ở hai miền Bắc- Nam
Ở cả miền bắc và miền nam trong việc thờ cúng tổ tiên có hai ngày quan trọng
nhất, đó là ngày giỗ và ngày Tết. Ngày giỗ cúng đúng vào ngày mất ( theo ngày âm
lịch ) của người được thờ tự và có 3 giỗ quan trọng trong nghi lễ thờ cúng: giỗ đầu
(tiểu thường), giỗ hết (đại tường), giỗ thường(kiết kỵ).
• Giỗ đầu (tiểu tường) là ngày giỗ đầu tiên, sau thời gian người mất đúng
một năm, năm trong kỳ tang chế. Trong ngày giỗ Đầu, những người thọ
tang vẫn mặc tang phục


• Giỗ hết (đại tường) là ngày giỗ sau thời gian người mất hai năm. Trong lễ
này, người ta vẫn tổ chức trang nghiêm, những người thọ tang vẫn mặc
tang phục
• Giỗ thường (kiết kỵ) là ngày giỗ sau thời gian người mất từ ba năm trở
đi. Trong lễ giỗ này con cháu chỉ mặc đồ thường phục, là dịp để con cháu
sum họp để tưởng nhớ người đã khuất.
Ngày tết cổ truyền của dân tộc, ngoài ý nghĩa đưa năm cũ, đón năm mới, còn
là dịp để mọi người ôn cố, tri tân và việc cúng kiến ông bà là nghi lễ hàng đầu.
Không khí Tết đến với ngôi nhà Việt bắt đầu từ việc trang hoàng bàn thờ ông bà.
Những vật dụng thờ cúng được lau chùi đánh bóng, bên cạnh đó khác với ngày
thường là có thêm lọ độc bình ( hoặc song bình ) cắm hoa tươi, một cành đào ở
Bắc, một cành mai phổ biến ở Trung và Nam.
.Cả hai miền đều có mâm ngũ quả. Mâm cúng ngày giỗ hay ngày Tết đều
không được đặt trực tiếp lên bàn thờ mà phải đặt trên chiếc bàn thấp hơn kê trước
bàn thờ. Trước khi người chủ trì thờ tự cùng con cháu dâng hương, thường thấy

ngoài Bắc còn đặt lên bàn thờ ba ly nước, trong Nam là 2 ly rượu, một ly nước, có
ý nghĩa tượng trưng cho sự tranh khiết của trời đất và tinh hoa của mùa màng.
Cũng có một chút khác nhau giữa hai miền là ngoài Bắc người thờ tự tổ tiên là con
trai trưởng còn miền Nam là con trai út.
Quá trình nghi lễ ông trưởng nam sẽ mặc áo the khăn xếp, bước lên chiếc
sập trước bàn thờ để thắp hương, đèn nến rồi đứng giữa sập, hai tay chắp giữa
ngực, lên gối xuống gối lễ ba lần, đoạn đứng nghiêm, mười ngón tay đan vào nhau
và đưa lên ngang trán, miệng lầm rầm khấn. Bài nhấn có ba phần. Mở đầu là ngày
tháng năm (âm lịch), tại nhà thờ ở thôn, xã, huyện, tỉnh... tiến chủ tên gì, nhân ngày
giỗ ai, thành tâm cúng tiến những gì. Phần sau là gia chủ kính mời từ thần linh, thổ
địa, táo quân... đến tên họ và hiệu, nơi an táng các vị trong gia đình theo thứ tự từ
trên xuống (chỉ khấn nam và dâu họ, nữ không khấn, trừ trường hợp chết chưa có
chồng). Cuối bài khấn là những cầu xin. Khấn xong, ông trưởng nam lễ một lễ và
ba vái nữa, rồi rót rượu cúng. Một số họ lớn, khi giỗ tổ họ, tổ chức dâng hương tế
tổ và thay bài khấn bằng một bài văn tế, ông trưởng lễ xong thì đọc bài văn tế, rồi
đem ra sân đốt như đốt sớ ở đình chùa.Khi ông trưởng nam khấn xong, những
người đến dự giỗ lần lượt già trước, trẻ sau vào lễ, người nào cũng đem một ít hoa,
quả hoặc vàng hương, trầu rượu đặt lên bàn thờ rồi lễ, mỗi người ba lễ một bái,
nam thì lễ như ông trưởng, nữ thì ngồi vào góc sập, chắp hai tay trước ngực, khi
cúi thì giáp mặt tận chiếu, hai bàn tay xòe ra đặt hai bên đầu. Những bà gia đình có


đại tang (bố mẹ hoặc chồng mới chết) phải lật một phần chiếu, ngồi xuống mặt sập,
hai tay lật ngửa vòng khăn trắng quấn tóc mà lễ
2. Sự khác biệt tín ngưỡng thờ cúng ở hai miền Bắc- Nam
Mâm cỗ
Vào ngày Tết ở miền Bắc thường thấy có 5 loại quả có 5 mầu khác nhau
như: chuối xanh, bưởi vàng, hồng đỏ, lê trắng, quýt da cam tượng trưng cho mong
ước : phú ( giàu có ) – quý ( sang trọng ) – thọ ( sống lâu ) – khang ( khỏe mạnh ) –
ninh ( bình yên ). Người miền Nam quan niệm mâm ngủ là cầu vừa đủ xài nên

mâm ngủ quả của họ thường có các loại quả như mãng cầu, dừa đu đủ, xoài,mận.
Mâm ngũ quả có ý nghĩa nói lên lòng mong ước của ngưởi dâng cúng để ông bà
được tỏ tường mà phù hộ. Trên bàn thờ ngày Tết ở miền Nam còn trung cặp dưa
hấu, loại dưa tròn, lớn, trái có dán chữ ‘ thọ ’( bằng Hán tự ) viết bằng nhũ vàng
trên giấy đỏ, nói lên mong ước cho ông bà cha mẹ còn đang sống được trường thọ,
hay chữ ‘ phúc ’ để cầu phúc cho gia đình dòng họ.
Vào ngày cúng giỗ, miền bắc có hai loại cỗ tùy hoàn cảnh gia đình mà chọn:
làm cỗ bình thường (gọi là cỗ “bàn than”): chỉ có mấy món chế biến từ thịt lợn:
luộc, rang, lòng, có thể thêm đĩa giò, làm cỗ to (gọi là cỗ “đồ Tàu”) có những món
cầu kỳ hơn, thường mỗi mâm có có tám bát và tám đĩa: giò, nem, ninh, mọc, nấm,
bóng...Có gia đình khá giả làm cả bò, lơn, gà (hoặc dê) gọi là cỗ “tam sinh”.Những
giỗ làm theo phạm vi rộng thường 30 mâm, có nhà tới hàng trăm mâm, trong phạm
vi hẹp độ 5- 10 mâm (mỗi mâm 6 người). Cỗ truyền thống của người miền bắc:
- Một con cua và một quả trứng bày chung trên một đĩa
- Xôi vò, chè đường
- Bánh dầy đậu
- Cơm trắng
- Xôi gấc (ăn kèm với giò, chả)
- Giò lụa hay giò bò thì là
- Giò thủ, Giò bì
- Chả quế
- Thịt quay
- Bê thui (chấm tương gừng)
- Thịt kho tàu
- Chả giò cua bể + bún
- Gà quay hay gà luộc (chặt miếng, sắp vào một chiếc đĩa sâu, những miếng đẹp và
có da thì nằm sát đáy đĩa, rồi úp ngược đĩa gà này vào một chiếc đĩa trảng khác,


cho ngon mắt)

- Chân giò (giò heo) hầm măng khô, mộc nhĩ
- Thịt đông, dưa chua (nếu cúng giỗ vào mùa lạnh)
- Nem dê (làm bằng thịt bò nhưng gọi là nem dê)
- Tôm sú hay tôm càng rim
- Tôm thịt xào nấm đông cô, đậu ve, cà rốt, su hào
- Lươn om với bắp chuối bào
- Nộm măng (+ tôm, thịt, khế thái dọc, mè rang)
- Miến xào lòng gà (+ mộc nhĩ)
- Món bóng cá nhồi giò sống hay bóng lợn (canh bóng, nấu với rau củ, nấm, mộc
nhĩ)
- Xà lách búp, cà chua, dưa deo (chấm nước tôm rim)
Trước ngày giỗ độ 10 ngày, ông trưởng (con trai đầu) mời tất cả con trai, con gái
của người mất đến họ để thống nhất cách làm giỗ và phân công mỗi người một
nhiệm vụ; người mua thực phẩm, người mượn bát đũa, mâm nồi, người dựng rạp.
Các người con tự nguyện đóng góp, tùy khả năng và tùy tâm, không bổ bán, không
chia đều.
Người miền nam thì thỏa mái hơn miền bắc. Nghi thức tổ chức của người
dân miền nam cũng tương tự như miền bắc và nó chỉ khác nhau trong mâm ngủ
quả. Còn về bình hoa: Thường thờ 1 lọ để cắm hoa vào ngày mùng 1 và rằm, ngày
thường để không, nên xưa gọi là Độc bình. Nay người hiện đại mua 2 lọ thờ đối
xứng là không đúng, 02 lọ mua chỉ để chơi trong nhà không được đặt lên bàn thờ.
Lọ lộc bình thường đặt bên tay trái – hướng đông – theo quan niệm: đông bình tây
quả.Khay cốc đựng nước thờ: nước thanh tịnh được thay vào mỗi lần thắp hương:
nén nhang chén nước.
Dịp cúng giỗ tổ tiên tùy hoàn cảnh mà có bốn món : Hầm, Thịt luộc, Xào, Kho.
Người dân hiểu rằng không chỉ là dâng cúng cho cha mẹ đã quá cố mà còn là cho
tổ tiên đời ông cố của gia chủ, hiểu ngầm rằng những bà con xa gần thời xa xưa
cũng được tham dự. Vì vậy, nếu cúng 3 mâm ở 3 bàn thờ (giữa, bên trái, bên mặt),
hoặc 1 bàn thờ, thì thức ăn phải giống nhau. Món hầm, tức là thịt heo hầm, thường
là giò heo hầm măng tre Mạnh Tông, loại măng ngon nhất của Nam Bộ . Món thịt

luộc là thịt ba chỉ, xắt mỏng. Xào là món thịt bị câu thúc về hình thức: xào chua,
xào mặn, với rau cải đồ lòng, hoặc tôm, gần như tuyệt đối không dùng thịt rừng.
Món kho thường là thịt heo, cá lóc, kho với nước dừa để gợi phong vị miền Nam.
Ở miền quê, ngày xưa bày đám giỗ linh đình với quá nhiều món khác nhau, lắm
khi ăn không hết đủ món, nhưng cơ bản phải đủ 4 món cổ truyền như trên, có thể


gọi là nghi thức thống nhất cả nước. Nhiều món phụ, có thể dọn chung với 4 món
chính như rau, bì cuốn, nem chua. Ngoài ra còn để dành ở một bàn riêng, không
cúng trên bàn thờ vốn đã chật chội, chờ khi đãi khách sẽ dọn ra như thịt bò xào,
bánh mì cà-ri, chả giò ... Thời xưa ông bà ta không có kiểu ăn tráng miệng như
người Tây Phương, vả lại trái cây đã được chưng sẵn từ trước trên bàn thờ rồi.
Cách bày trí bàn thờ
Người miền Bắc nhà nào cũng có một bàn thờ gia tiên. Trang trí bàn thờ là
cách để con cháu bày tỏ lòng yêu kính và tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên.Bàn thờ là
nơi ngự vị của các bậc tiền nhân trong gia đình, vì thế nó thường được đặt ở vị trí
trung tâm và cao nhất trong nhà.. Nhà nghèo thì bàn thờ là một tấm gỗ sơn đỏ nối
hai cột chính với hai cột sau. Trên tường chính giữa dán một vuông giấy đỏ có viết
một chữ Hán to "Phúc" hoặc "Thần". Trên tấm gỗ, đặt ba bát hương, bát giữa kê
cao hơn thờ thần linh, bát bên phải thờ gia tiên và bát bên trái thờ các "bà cô, ông
mãnh" - những người chết chưa vợ, chưa chồng và được gia đình coi là linh
thiêng. Hai góc trước của bàn thờ có hai cây nến tiện bằng gỗ.Nhà khá hơn thì bàn
thờ là một án thư có trang trí hoa văn, sơn son hoặc sơn then (đen), đèn nến bằng
gỗ tiện sơn son. Nhà giàu thì chạm trổ "tứ linh" (bốn con vật thiêng: long (rồng), ly
(kỳ lân), quy (rùa), phượng (chim phượng hoàng); mặt trước án thư là một tấm gỗ
quý chạm "mai long" (cây hoa mai uốn hình rồng) hoặc chữ "ngũ long" (năm con
rồng quây thành một vòng tròn), tất cả đều bằng sơn son thếp vàng. Trên án thư có
bộ "tam sự" bằng đồng, có nhà còn thêm bộ đài rượu bằng gỗ sơn son hoặc bằng
đồng (gồm ba khối hình ống, đáy cao, có nắp đậy, trên mỗi đáy đặt một chiếc chén
hạt mít, khi cúng cơm, gia chủ mở nắp, rót vào chén). Có nhà thêm ống cắm hương

chưa thắp, mâm bồng để bày hoa quả... Việc lau dọn sạch sẽ bàn thờ là công việc
trước tiên và được thực hiện một cách cẩn thận, tỉ mỉ. Chổi quét hoặc khăn lau bàn
thờ thường được dùng riêng, và rất hạn chế sự chung đụng. Nước lau bàn thờ
thường được dùng từ nguồn nước sạch sẽ, có người còn dùng nước mưa thậm chí
nước nấu từ lá trầu, lá bồ đề để lau. Nếu là những gia đình khá giả, trước di ảnh
còn có đỉnh đồng để đốt trầm vào mỗi dịp cúng kiến, đỉnh đồng thường được chạm
khắc long, lân, mai, trúc. Hai bên bát nhang phía trước là đôi chân đèn để thắp nến,
có ý nghĩa tượng trưng cho đôi vầng nhật nguyệt, cũng để nói lên người đã chết
nhưng linh hồn của họ thì không bao giờ tắt. Ở miền Bắc đôi khi thấy ở vị trí đôi
chân đèn là hai ngọn đèn dầu. Tường sau bàn thờ nhà khá giả là hoành phi, liễn đối
xứng bằng Hán tự sơn son thếp vàng, có nội dung nói lên công đức của những
người đã khuất. Ở gia đình bình dân, đó là tranh thờ, thường là trang dân gian vẽ
ngũ quả, chiếc cuốn thư, cá chép vượt vũ môn hay các chữ như Phúc, Lộc, Thọ
( đều bằng Hán tự ).


Bàn thờ tổ tiên ngày tết
Hiện nay, ở Hà Nội, thích nghi với điều kiện ăn ở không mấy rộng rãi, bàn
thờ thường đặt trên một cái giá cao đóng vào tường hoặc đặt trên hai con sơn, thậm
chí đặt trên nóc tủ, song nhất thiết phải có bát hương, chén trà, lọ hoa, và thay cho
khán thờ, ngai thờ, thần chủ, bài vị… là tấm ảnh của ông bà hoặc cha mẹ đã quá
có. Chỉ khoảng chục năm gần đây một số người giàu vọt lên, xây nhà cao cửa rộng,
họ thường để tầng trên cùng sát mái làm gian buồng thờ và ở đó bày biện tương đối
theo tục lệ cũ.
Việc bày biện hay thắp hương (nhang) trên bàn thờ ở miền bắc còn phân
biệt nam nữ, tuổi tác .Cũng có nhiều gia đình họ không chỉ phân biệt nam nữ mà
họ còn phân biệt giữa những người không có con trai sẽ không được thờ cúng tổ
tiên. Trên bàn thờ tổ tiên, ở chính giữa đặt bát hương (tượng trưng cho tinh tú) và
trên bát hương có cây trụ để cắm hương vòng (tượng trưng cho trục vũ trụ), hai bát
hương khác đặt ở bên trái và bên phải tạo nên tư thế tam tài; ở hai góc ngoài bao

giờ cũng có hai cây đèn dầu (hoặc nến) tượng trưng cho mặt trời bên trái và mặt
trăng ở bên phải. Khi cần giao tiếp với tổ tiên (có lúc thỉnh cầu, có lúc sám hối…
người ta thường đốt nến (đèn dầu) và thắp hương. Mọi nguyện cầu theo các vòng
khói hương chuyển đến ông bà tổ tiên.
Lễ vật dâng cúng thường bao gồm vài bộ quần áo, giấy tiền vàng mã cho các cụ,
một vài cái chung (ly nhỏ, thấp) và một bình trà; đĩa hoa quả lớn đặt ở trung tâm


bàn thờ, một bình hoa lớn và một bình rượu ngon. Xung quanh, ta có bày thêm
bánh mứt cho cân đối và đẹp mắt.
Hoa để thờ cũng có nhiều loại, ví dụ hoa tươi hay hoa làm bằng giấy bạc (một bạc,
một vàng biểu tượng cho một âm một dương, âm dương giao hòa) để có thể dùng
được lâu. Đối với hoa tươi, người Việt Nam thường sử dụng hoa cúc, hoa huệ, hoa
lay ơn, hoa đào cúng gia tiên … Việc bày mâm ngũ quả xuất phát từ lý thuyết về
ngũ hành: thuỷ – hỏa – mộc – kim – thổ những yếu tố tạo nên vũ trụ và sự vận
hành của nó. Thông thường ngũ quả gồm 5 loại quả có các màu khác nhau như
chuối xanh, bưởi vàng, hồng đỏ, lê trắng, quýt da cam tượng trưng cho mong ước:
Phú (giàu có) – quý (sang trọng) – thọ (sống lâu) – khang (khỏe mạnh) – ninh
(bình yên).
Trong khi đó, người miền Bắc hướng đến ý nghĩa biểu trưng nhiều hơn, quả phật
thủ hay nải chuối như bàn tay che chở của đức phật cho tất cả mọi người; quả bưởi,
dưa hấu thể hiện cho sự đầy đặn, trọn vẹn căng đầy sức sống; màu sắc thắm tươi
của quýt, hồng tượng trưng cho sự may mắn, phồn thịnh cát tường.
Đối với người miền Nam việc bài trí các vật dụng trên bàn thờ cũng được
sắp đặt theo một khuôn mẫu nhất định. Trên mỗi bàn thờ của người dân Nam bộ
thường có đầy đủ “ngũ sự” gồm: Lư hương, hai chân đèn, lục bình cắm hoa và một
ống bằng gỗ hoặc đồng dùng đựng nhang. Lư dùng đốt (xông) trầm hương mà bà
con quen gọi là lư hương, phần lớn được đúc bằng đồng, số ít được chạm khắc
bằng đá hay gỗ quý, được đặt ngay trung tâm của bàn thờ. Lư hương được đặt
vững chãi, không xéo, không nghiêng, chênh lệch… bởi đó là điều tối kỵ. Hình

dáng của lư hương cũng rất đa dạng, phổ biến là lư đồng mắt cua, lư mắt tre, trong
Nam lại có loại lư mà bà con quen gọi là lư hương trái bần (do giống hình dáng của
trái bần). Tuy nhiên, do trầm hương là thứ đắt tiền, gia đình khá giả mới có khả
năng mua còn phần đông những gia đình xưa thường chỉ trưng bày lư hương cho
đẹp chứ rất hiếm xông hương. Bà con thay vào đó là hai cái vùa hương để cắm
nhang. Hai bên lư hương là hai chân đèn mà theo nhà văn Sơn Nam là tượng trưng
cho âm – dương cân xứng, giao hòa. Người xưa rất chú trọng đến khoảng cách
giữa hai chân đèn và lư hương phải thật đều nhau. Một bên phía trong chân đèn là
cái bình dùng cắm hoa tươi. Tuy nhiên, do một số vùng quê rất khó kiếm được hoa
tươi nên bà con thường trưng vài nhánh trường sinh (một loài cây thủy sinh) vừa
tiện lợi mà lại ý nghĩa. Một bên bàn thờ là một ống cây, thường là ống tre dùng để
đựng nhang. Có một vật ngoài “ngũ sự” nhưng lại rất quan trọng trên mỗi bàn thờ
đó chính là cây đèn dầu hột vịt (ống khói chắn gió có hình quả trứng vịt), vặn lửa


nhỏ “liu riu” (còn gọi là chong đèn), vừa để tiện đốt nhang và cũng để giữ lửa.
Trên bàn thờ thường có dĩa trái cây, người Nam bộ quan niệm dĩa trái cây này
không cần đắt tiền, hoa mỹ mà chỉ là cây nhà lá vườn, “sản vật” của gia đình dâng
lên ông bà. Bàn thờ luôn được trang hoàng, lau chùi dọn dẹp thường xuyên. Lọ
đựng hương: đặt bên phải bàn thờ, làm bằng gốm… Tùy theo kinh tế của gia chủ
mà có những vật thờ khác nhau nhưng nhất thiết trên ban thờ phải đảm bảo 05 yếu
tố: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Đỉnh đồng, đôi hạc, giá nến đồng, tượng trưng
cho Kim. Bàn thờ, ngai hay bài vị tượng trưng cho Mộc. Rượu, chai nước, chén
nước thờ tượng trưng cho Thủy. Ngọn đèn dầu hoặc nến thờ trên ban thờ và là
hương khi thắp lên tượng trưng cho Hỏa. Còn bát hương làm từ đất sét nung lên,
hay sành sứ có nghĩa là Thổ.

Cách bày trí bàn thờ của người miền Nam
3. Nguyên nhân của sự khác biệt về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Trên mảnh đất hình chữ S này, đi từ vùng này sang vùng khác đều có sự

khác biệt nhất định trong suy nghĩ, văn hóa, phong cách sống, tập quán… Và sự
khác biệt ấy càng rõ nét hơn ở hai miền Nam- Bắc.
Tại miền Nam, nền văn hóa phương Tây đã vào theo cùng với bước chân thực dân
Pháp.Nên văn hóa có sự giao thoa và ảnh hưởng lớn của nền văn minh phương
Tây, con người miền Nam cũng dần đồng hóa những nếp văn hóa xưa cũ thành đơn
giản, hiện đại hơn. Họ thay những cái phức tạp thành cái đơn giản, và trong phong
tục thờ cúng tổ tiên cũng như vậy.
Trong khi miền Bắc không chịu ảnh hưởng nhiều của phương Tây, mà lại mang
ảnh hưởng nhiều của văn hóa Trung Hoa, những hình thức cúng tế được xây dựng
lâu đời, từ thuở ngàn năm Bắc thuộc có ảnh hưởng lớn đến phong tục thờ cúng của
miền Bắc.


Mặt khác cũng thế nói, nguồn gốc của những sự khác biệt trong tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của hai miền Nam – Bắc cũng hình thành nên do tác động của sự khác
biệt điều kiện địa lý giữa hai miền. Chính sự tác động của khí hậu làm cho những
thực phẩm đặc trưng của hai miền có sự khác biệt, làm cho mâm cỗ cúng cũng có
khác nhau giữa hai miền.
4. Giá trị văn hóa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Thờ cúng tổ tiên là một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong
đời sống tinh thần, tâm linh của dân tộc Việt Nam và là một trong các thành tố
quan trọng tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Từ buổi bình minh dựng nước đến
ngày nay, tri ân, tưởng nhớ, thờ cúng tổ tiên luôn là đạo lý, tín ngưỡng truyền
thống của người việt. Tín ngưỡng này được bảo tồn và lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác, để bồi lắng, kết tụ thành những giá trị văn hóa, lịch sử và đạo đức
của người Việt.
3.1. Giá trị lịch sử, văn hóa
Phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt có từ rất lâu đời. Đó là một phong
tục đẹp, giàu bản sắc. có tính chất giáo dục truyền thống cho các thế hệ. Tự bản
thân phong tục thờ cúng tổ tiên đã mang trong nó những giá trị văn hóa nhân bản.

Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng gốc xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó là sợi
dây tạo mối liên kết, tính thống nhất toàn dân tộc, đồng thời là cội nguồn của các
phong tục, tín ngưỡng khác. Cả cộng đồng cư dân Việt Nam được củng cố bởi đức
tin chung một cội nguồn, lấy đó làm cội nguồn sức mạnh tinh thần để dân tộc ta
vững vàng trước mọi sự đe dọa của thiên tai và ngoại xâm.Vì là một tín ngưỡng có
sức sống lâu bền, có gốc rễ sâu xa trong cộng đồng người Việt nên nó là một hiện
tượng xã hội có tính phổ biến. “ Thờ cúng tổ tiên là nghi thức mang hiệu quả đặc
biệt trong việc giáo dục chữ Hiếu, chữ Nhân, chữ Lễ, chữ Tâm, là những phẩm
chất cần thiết nhất để con người có thể được xem là hoàn thiện trong nhân cách.
“Một trong những ảnh hưởng có thể kiểm chứng ngay của những người đã khuất
đến thế giới hiện tại là góp phần điều chỉnh, giáo dục con người thông qua hành vi
thờ tự…” (PGS.TS. Nguyễn Văn Cương, ĐHVHHN). TS. Nguyễn Anh Tuấn Giám
Đốc Bảo Tàng Hùng Vương , Phú Thọ khẳng định đây là: “ một giá trị văn hóa –
một hằng số bất biến của giá trị nhân văn cao đẹp của mỗi người Việt Nam ”.
Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, người Việt luôn sắt son quan niệm:
Tất cả cùng chung một dòng máu Tiên Rồng, cùng là con cháu Lạc Hồng, nên phải
sống với nhau có nghĩa, có tình, có thủy có chung, có trên có dưới, có xóm có làng,
có trước có sau, có tổ có tông. Đó là điều cốt lõi làm nên giá trị vĩnh hằng của văn


hóa cộng đồng Việt Nam, làm nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Vì thế giỗ tổ
Hùng Vương là ngày để tất cả người Việt Tưởng nhớ, biết ơn tiền nhân đã có công
sinh thành nòi giống, khai mở bờ cõi, xây đắp non sông.
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba
Đã là người Việt Nam. Không ai không nhớ câu nhắc nhở sự tự giác về ý
thức cội nguồn dân tộc, để mỗi con cháu Lạc Hồng, dù ở đâu, đi đâu, về đâu, trong
ngày mùng mười tháng ba hàng năm cũng phải lắng lòng nhớ ngày giỗ Tổ, nhớ tới
cội nguồn. Thạc sĩ Trần Văn Thục, Đại Học Hùng Vương cho rằng: Giỗ tổ Hùng
Vương là “ hiện tượng lịch sử độc nhất vô nhị ” mà không tìm thấy ở bất cứ nơi

nào trên thế giới, chỉ có duy nhất cả dân tộc Việt Nam có chung ngày giỗ Tổ. Điều
đó cho thấy việc hướng về nguồn, về tổ tiên người Việt mà thờ phụng là rất rõ
ràng, truyền từ đời này sang đời khác. Việc coi Hùng Vương là một ông Tổ chung
đã củng cố tâm thức của các cộng đồng dân tộc – chúng ta là người của một cội
nguồn, có cùng một tổ chung, dân cả nước đều là anh em một nhà. Ý thức dân tộc
đó đã trở thành nền tảng để hội tụ tinh thần đoàn kết toàn dân, tạo sức mạnh bách
chiến bách thắng của dân tộc. Sức mạnh đó đã được củng cố và phát huy trong lịch
sử chống giặc ngoại xâm cũng như trong kiến thiết xây dựng đất nước khi hòa
bình.
Cùng với việc phân tích những chân lí giá trị của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở
Việt Nam, các tác giả cũng đồng thời khẳng định về sức sống của tín ngưỡng này
trong đời sống đương đại: “ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn được các triều đại
phong kiến thừa nhận và thể chế hóa bằng pháp luật ”. Tín ngưỡng thờ cúng ông tổ
dòng họ cũng đang dược phục hồi. Các dòng họ đua nhau tu sửa từ đường, mồ mả
tổ tiên, lập lại gia phả. Nhiều dòng họ cử người ra Bắc vào Nam sưu tập tài liệu,
biên soạn gia phả để lưu truyền cho đời sau.
Từ đó, có thể nói tín ngưỡng thờ Quốc Tổ Hùng Vương nói riêng và tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên nói chung đã trở thành một trong những di sản văn hóa độc đáo
của dân tộc Việt Nam. Đó là sự kết tinh và phát triển các giá trị đạo đức, văn hóa
truyền thống đặc sắc, lịch sử của dân tộc Việt Nam. Những giá trị ấy góp phần bồi
đắp lòng yêu nước thương nòi, đạo lý uống nước nhớ nguồn, có trước có sau.
Không gì khác, chính từ những giá trị đó đã làm nên sức sống trường tồn của dân
tộc Việt Nam trước bao biến cố của lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.
3.2.

Giá trị đạo đức


Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt trong quá trình hình thành, tồn
tại và phát triển đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức truyền thống. Xuất phát

từ mối liên hệ mật thiết, gắn bó trên cơ sở huyết thống, mà quy thành những Đạo,
nghĩa cụ thể, như: đạo, nghĩa cha – con; đạo, nghĩa vợ - chồng; đạo, nghĩa anh –
em. Trong các đạo ấy thì Đạo Hiếu để xoay quanh mối quan hệ cha – con và anhem. Trở thành một cái đạo trung tâm chi phối đạo đức gia đình và mang đến cho
gia đình những giá trị văn hóa – đạo đức căn bản nhất. Từ chữ hiếu đối với ông bà
tổ tiên mình được mở rộng, mang thêm những sắc thái ý nghĩa mới mang tính cộng
đồng, trở thành tấm lòng của người đi sau dành cho người đi trước, sự ngưỡng mộ
đối với tiền nhân, các công thần có công với nước được thờ trong đình làng, cho
đến một đạo với ý thức thờ cúng “ người cùng một cội ”, “ cùng một bọc trứng mà
sinh ra ”. Đó là lòng hiếu thảo, lòng nhân ái, tính cộng đồng, tính cần cù sáng tạo,
lòng hiếu học, và lòng yêu nước. Đó là những giá trị hết sức quý báu cần được bảo
lưu, kế thừa, nghiên cứu, khai thác và phát huy để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng
xã hội mới. Vì thế, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã trở thành một cái gì đó vĩnh
hằng cùng với sự tồn tại và phát triển của dân tộc, đẹp hơn đó là “ hiếu với dân, với
nước ”.
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam trong quá trình hình
thành, tồn tại và phát triển đã góp phần tạo lập nhiều chân lí, giá trị quý báu. Bên
cạnh đó, nó còn khơi dậy đạo lí làm người, ngăn chặn suy thoái đạo đức, giữ thang
giá trị, đạo đức truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, hướng cái thiện… Và bản
thân các giá trị không phải “ nhất thành bất biến ” mà nó luôn biến đổi cùng tiến
trình lịch sử. Các giá trị của ngày hôm qua là cội nguồn mạch sống cho các giá trị
của ngày hôm nay.
Niềm tin vào sự tồn tại của tổ tiên góp phần cân bằng trạng thái tâm lý,
nhiều khi còn là cứu cánh, là sự giải tỏa nỗi cô đơn, bất hạnh của con người trước
cái chết. Bằng nghi lễ thờ cúng tổ tiên, con người thể hiện một cách suy nghĩ về
cái chết và cuộc sống sau khi chết, giải tỏa nỗi kinh sợ khi phải đối mặt với nó. Đó
là điều bí ẩn của thế giới tâm linh, đặc biệt là mối liên hệ vô hình nào đó giữa
những người có cùng dòng máu. Vì thế càng ngày, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
càng có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của mỗi người dân Việt Nam. Nó
là một trong những nhân tố góp phần quan trọng để bảo tồn và duy trì nét văn hóa
truyền thống của dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tập tục mang đậm

bản sắc văn hóa của người Việt.
C. KẾT LUẬN


Trải qua bao thăng trầm trong lịch sử, nền văn hóa Việt đã chứng kiến bao sự
đổi thay mạnh mẽ trong quá trình giao lưu và tiếp nhận các nền văn hóa, tôn giáo,
tín ngưỡng từ bên ngoài. Nhưng trong quá trình “ nội sinh hóa các yếu tố ngoại
sinh” ấy, người dân Việt Nam vẫn gìn giữ được những nét văn hóa độc đáo, riêng
có, điển hình chính là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của dân tộc.
Có thể nói, thờ cúng tổ tiên là một phong tục truyền thống của dân tộc, dù đó
không phải là điều bắt buộc song đó lại là thứ "luật bất thành vǎn" của người Việt
tồn tại qua bao thế hệ. Thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của người dân Việt.
Với nội dung bình dị, giàu tính thực tiễn, không cực đoan như nhiều tôn giáo
khác nên tục thờ cúng tổ tiên đã trở thành một phong tục, là chuẩn mực đạo đức và
nguyên tắc làm người, mang ý nghĩa lớn về mặt tổ chức cộng đồng trong xã hội
truyền thống, củng cố khối đoàn kết cộng đồng. Thờ cúng tổ tiên, ông bà đã trở
thành tín ngưỡng gốc xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó là sợi dây liên kết
để góp phần cột chặt tính thống nhất toàn dân tộc và cũng là cội nguồn của các
phong tục, tín ngưỡng khác.
Từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên chính là sự kết tinh và phát triển các giá trị đạo
đức, văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam.Những giá trị ấy góp phần
bồi đắp lòng yêu nước thương nòi, đạo lý uống nước nhớ nguồn, có trước có sau;
xây dựng đời sống tinh thần phong phú trong thời đại mới.Không gì khác, chính từ
những giá trị đó đã làm nên sức sống trường tồn của dân tộc Việt Nam trước bao
biến cố của lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.



×