Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÔNG TY TNHH CƠ ĐIỆN ĐO LƯỜNG TỰ ĐỘNG HOÁ DKNEC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.36 KB, 10 trang )

HOÀN THIỆN KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP TẠI CÔNG TY TNHH CƠ
ĐIỆN ĐO LƯỜNG TỰ ĐỘNG HOÁ DKNEC
3.1. Đánh giá chung về công tác kế toán tại Công ty TNHH Cơ điện Đo lường
Tự động hóa DKNEC
3.1.1. Về tổ chức bộ máy kế toán
Được thành lập từ năm 2000, trải qua 8 năm phát triển và trưởng
thành, Công ty DKNEC đã thu được những thành tựu nhất định, ngày
càng khẳng định được vai trò của mình trong lĩnh vực cơ điện, tự động
hóa, một lĩnh vực còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Công ty đã và đang tiếp
tục khẳng định thương hiệu của mình bằng việc đem đến cho khách
hàng những sản phẩm khoa học công nghệ có chất lượng cao, công
nghệ hiện đại cùng với dịch vụ hoàn hảo.
Cùng với sự phát triển ngày càng lớn mạnh của Công ty, bộ máy kế
toán cũng ngày càng hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu của nó. Công ty đã
xây dựng được bộ máy kế toán khá hoàn chỉnh về mọi mặt và đảm
nhiệm tốt vai trò của mình trong bộ máy tổ chức của Công ty. Bộ máy kế
toán khá tinh giản, gọn nhẹ, khoa học với đội ngũ kế toán viên có trình
độ chuyên môn cao, có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực kế toán tài
chính. Bên cạnh đó, các quy định, chuẩn mực cũng được thực hiện theo
đúng quy định của Bộ Tài chính.
3.1.2. Về phân công lao động kế toán
Do đặc điểm là Công ty có quy mô vừa nên phân công lao động kế
toán khá đơn giản, các kế toán viên chỉ đảm nhiệm các phần hành độc
lập, thường xuyên có nghiệp vụ cần hạch toán, còn các nghiệp vụ chung
khác thường do kế toán tổng hợp đảm nhiệm. Sự phân công lao động rõ
ràng giúp kế toán trưởng dễ dàng trong việc quản lý cấp dưới cũng như
xác định rõ trách nhiệm, quyền lợi của từng nhân viên kế toán. Tuy
nhiên, vẫn xảy ra tình trạng kiêm nhiệm, làm xuất hiện nguy cơ vi phạm
nguyên tắc bất kiêm nhiệm. Mặt khác, sự phân công nhiệm vụ của các
kế toán viên đôi khi chưa rõ ràng có thể gây ra hiện tượng quên việc


hoặc một công việc mà có nhiều người cùng phụ trách làm giảm hiệu
quả của công việc.
Cụ thể, hiện tại phần hành tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ của
Công ty đang do kế toán tổng hợp đảm nhiệm vì đây là phần hành liên
quan đến nhiều phần hành khác. Bên cạnh đó có kế toán đảm nhiệm
riêng phần hành công nợ. Với quy mô các nghiệp vụ liên quan đến bán
hàng không quá nhiều như hiện nay của Công ty thì kế toán tổng hợp có
thể kiêm nhiệm. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh và mạnh của
Công ty trong điều kiện mới thì nên có một kế toán viên đảm nhiệm
riêng về phần hành tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ để đáp ứng tốt
nhu cầu quản lý của Công ty.
3.2. Về tổ chức vận dụng chế độ, chính sách kế toán tại Công ty TNHH Cơ
điện Đo lường Tự động hóa DKNEC
3.2.1. Về tổ chức vận dụng chứng từ kế toán
Chứng từ được sử dụng trong hệ thống kế toán của Công ty khá
đơn giản, chỉ sử dụng những loại chứng từ tối thiểu cần cho công tác
hạch toán. Chứng từ Công ty được lập và sử dụng theo đúng quy định
của Bộ Tài chính; nội dung chứng từ kế toán đầy đủ các chỉ tiêu, rõ
ràng, trung thực với nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh và được kiểm
tra, lưu trữ cẩn thận. Việc luân chuyển chứng từ được thiết lập chặt chẽ,
thuận lợi cho công tác ghi sổ và đối chiếu số liệu.
Công tác lập và luân chuyển chứng từ được thiết lập một cách chặt
chẽ, phù hợp với thực tế kế toán tại Công ty. Tuy nhiên khi xuất hàng để
cung cấp cho các công trình mà Công ty đang thi công lắp đặt, kế toán
kho tiến hành lập phiếu xuất kho thông thường chứ không tiến hành lập
phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ. Điều này là không phù hợp với
quy định chung vì phiếu xuất kho thông thường không có đầy đủ các
chức năng như phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ.
3.2.2. Về tổ chức vận dụng tài khoản kế toán
Hệ thống tài khoản Công ty đang sử dụng là hệ thống tài khoản

theo Quyết định 48 áp dụng cho các Công ty vừa và nhỏ nhưng chỉ sử
dụng những tài khoản thật sự cần thiết và thỉnh thoảng vẫn có hiện
tượng hạch toán chung hoặc hạch toán tắt. Hiện nay, với quy mô doanh
nghiệp chưa lớn thì hệ thống tài khoản này còn chưa bộc lộ những thiếu
sót, hạn chế; nhưng cùng với sự phát triển nhanh, quy mô Công ty
không ngừng được mở rộng, các nghiệp vụ hạch toán ngày càng đa
dạng thì hệ thống tài khoản cũ sẽ không đáp ứng được nhu cầu hạch
toán của Công ty.
Hệ thống tài khoản của Công ty bao gồm các tài khoản cấp 1 tới
cấp 3, các tài khoản trong bảng cân đối kế toán. Tuy nhiên, để phản ánh
chi tiết, cụ thể hơn tình hình biến động các loại tài sản, nguồn vốn trong
Công ty, để thuận lợi và tránh chồng chéo trong việc ghi chép, kiểm tra
số dư tài khoản, đồng thời giúp cho các nhà quản trị đánh giá rõ ràng
hơn, có được những thông tin chính xác, kịp thời để đề ra các kế hoạch,
chiến lược kinh doanh, xác định được các chỉ tiêu, hiệu quả cho từng
hoạt động SXKD thì Công ty nên mở thêm các tài khoản chi tiết hơn.
Không những vậy, hiện tại kế toán Công ty chỉ sử dụng các tài
khoản liên quan đến các nghiệp vụ phát sinh nhằm giảm thiểu về công
việc cũng như những sai sót, nhầm lẫn cho kế toán viên. Tuy nhiên vẫn
còn một số hạn chế cần khắc phục như:
Kế toán Công ty không sử dụng TK 156 – “Hàng hóa” để tập hợp
hàng hóa mua về nhằm mục đích thương mại mà tất cả được tập hợp
trên TK 152-“Nguyên vật liệu”. Điều đó không phản ánh được đúng bản
chất của các nghiệp vụ phát sinh. Công ty DKNEC có hai lĩnh vực kinh
doanh chính là sản xuất, lắp đặt và thương mại. Vì thế các mặt hàng
nhập về có hai mục đích là đưa đi lắp đặt tại các công trình và xuất bán.
Khi lắp đặt tại các công trình, dự án thì nó là Nguyên vật liệu, còn khi
xuất bán thì nó là hàng hóa. Tuy nhiên, theo quy định của QĐ 48 thì
trường hợp hàng hóa mua về vừa dùng để bán, vừa dùng để sản xuất
kinh doanh không phân biệt rõ ràng giữa hai mục đích bán hay sử dụng

thì vẫn sử dụng TK 156 – “Hàng hóa”. Vì thế, Công ty nên sử dụng TK
156 – “Hàng hóa” để phản ánh giá trị của hàng hóa xuất bán thay thế
cho TK 152 – “Nguyên vật liệu”.
Thứ nữa, giá vốn hàng bán của Công ty trên cả hai lĩnh vực kinh
doanh đều được tập hợp vào TK 632 – “Giá vốn hàng bán”. Vì vậy khi
xác định kết quả kinh doanh, mặc dù chi tiết TK “Doanh thu” nhưng kế
toán lại không tiến hành chi tiết TK “Giá vốn hàng bán” nên không thể
thấy rõ kết quả kinh doanh trên các lĩnh vực hoạt động của Công ty.
Xuất hiện khả năng có thể xảy ra hiện tượng quân bình hóa, ví dụ: thực
sự có kỳ kế toán phần xuất thành phẩm cho sản xuất lắp đặt bị lỗ do
Công ty phải ngưng một số công trình đang sản xuất nhưng khi nhìn vào
số liệu lại thấy lãi. Đó là do phần lãi của thương mại đã bù vào.
Hiện tại, Công ty không sử dụng tài khoản 413- “Chênh lệch tỷ giá
hối đoái” trong hạch toán các nghiệp vụ liên quan đến ngoại tệ. Trên
thực tế Công ty có những món vay ngắn hạn Ngân hàng bằng ngoại tệ.
Tại thời điểm vay bằng ngoại tệ kế toán hạch toán theo tỷ giá tại thời
điểm phát sinh. Đến hạn thanh toán (trong năm đó), hoặc đến cuối kỳ
hạch toán kế toán dùng bút toán ngược để điều chỉnh chênh lệch tỷ giá
giữa thời điểm đó với thời điểm đã ghi sổ. Điều này là sai so với quy
định vì khoản chênh lệch này phải được coi là khoản phát sinh lãi hoặc
lỗ tỷ giá hối đoái và được tính vào doanh thu (nếu lãi) hoặc chi phí (nếu
lỗ) của doanh nghiệp. Do vậy, Công ty cần sử dụng tài khoản 413 và
phản ánh các khoản chênh lệch tỷ giá vào doanh thu hoặc chi phí theo
đúng quy định, đảm bảo tính đúng đắn và chính xác trong việc xác định
kết quả kinh doanh.

×