Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.99 KB, 22 trang )

Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch I Ngân hàng đầu
tư phát triển Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2008.
2.1 Tổng quan hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I Ngân
hàng đầu tư & phát triển Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2008.
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển SGDI
Sở giao dịch 1 ngân hàng đầu tư & phát triển Việt Nam (NHĐT&PTVN )
có lịch sử hình thành phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của
NHĐT&PTVN. NHĐT&PTVN là một trong những ngân hàng thương mại quốc
doanh lớn nhất Việt Nam, với 254 chi nhánh tại các thành phố lớn , với hơn
12000 cán bộ, có quan hệ với nhiều ngân hàng trong và ngoài nước.
NHĐT&PTVN với hơn 50 năm hình thành và phát triển đã đóng góp một phần
khơng nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế nhà cũng như sự phát triển
của hệ thống ngân hàng.
Ngày 26/4/1957, Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam – tiền thân của Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển - được thành lập trực thuộc bộ tài chính theo quyết
định 177/TTG của Thủ tướng chính phủ với quy mơ ban đầu nhỏ bé gồm 8 chi,
nhánh 200 cán bộ. Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng kiến thiết là thực hiện cấp
phát, quản lí vốn kiến thiết cơ bản từ nguồn vốn ngân sách cho tất cả các lĩnh
vực kinh tế xã hội.
Ngày 24/6/1981, Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam được đổi tên thành
Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam, trực thuộc Ngân hàng nhà nước Việt
Nam. Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng là cấp phát, cho
vay và quản lí vốn đầu tư xây dựng cơ bản của tất cả các lĩnh vực của nền kinh
tế thuộc kế hoạch nhà nước.
Ngày 14/11/1990, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên
thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.


Đầu năm 1991, thực hiện các quyết định của Nhà Nước và Thống đốc
ngân hàng, NHĐT&PTVN triển khai hoạt động theo mơ hình tổ chức mới. Ban


lãnh đạo NHĐT&PTVN đã xác định: Vốn là mặt trận phía trước, tín dụng là
trung tâm với phương chậm “Hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là
mục tiêu hoạt động của BIDV” đồng thời bước đầu triển khai các dịch vụ ngân
hàng, mở rộng quan hệ đối ngoại và thanh toán quốc tế. Song song với việc ổn
định tổ chức và đào tạo cán bộ, NHĐT&PTVN cũng bước đầu mở thêm một số
lượng nghiệp vụ mới như: Huy động vốn, phát hành kì phiếu bảo đảm giá trị
theo giá vàng, thanh tốn quốc tế, cho vay xuất nhập khẩu, cho vay làm nhà ở…
Sở giao dịch I được thành lập theo Quyết định số 572 TCCB/ ĐT ngày
26/12/1990 của Vụ Tổ chức cán bộ Ngân hàng Nhà nước về tổ chức bộ máy của
NHĐT&PTVN và Quyết Định số 76 QĐ/TCCB ngày 28/03/1991 của Tổng
Giám đốc NHĐT&PTVN. Theo các Quyết định này, Sở giao dịch I là đơn vị
trực thuộc, thực hiện hạch tốn nội bộ, có bảng cân đối tài khoản riêng, có con
dấu riêng và trực tiếp giao dịch với khách hàng. Trụ sở đặt tại 191 Đường Bà
Triệu-Hai Bà Trưng- Hà nội.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, Sở Giao dịch I trải qua hai
thời kỳ:
- Thời kỳ từ 1991 – 1995: Nhiệm vụ chính trong thời kỳ này là cấp phát
vốn ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản. Trong giai đoạn này ngân hàng đã
thực hiện cấp phát vốn cho nhiều dự án như: Các dự án về bưu điện, đường sắt,
chè, cà phê… với số tiền lên đến hàng trăm tỷ đồng. Không những thế ngân
hàng còn cho vay đối với các đơn vị thiết kế thi công, xây dựng…
- Thời kỳ từ 2000 đến nay: Năm 2000 các chỉ tiêu đề ra không còn nhưng
một số dự án lớn vẫn còn kéo dài trong đó có nhiều dự án mang tính bao cấp chỉ
thị. Chỉ đến năm 2001 sở mới chính thức hạch toán độc lập.
Trong những ngày đầu mới thành lập sở giao dịch chỉ có hai phịng và
một tổ nghiệp vụ trong q trình phát triển ngân hàng khơng ngừng mở rộng
quy mơ cũng như chất lượng hoạt động của mình đến nay ngân hàng có tới 15


phòng nghiệp vụ với hơn 300 cán bộ, với tổng tài sản chiếm khoảng 10% tổng

tài sản của hệ thống.
SGDI phải làm tất cả các nhiệm vụ mà trung ương giao, cũng như phải
hoàn thành tốt nhiệm vụ mà lãnh đạo NHĐT&PTVN giao như: bảo toàn và phát
triển nguồn vốn cũng như các nguồn lực của ngân hàng nhằm thực hiện các mục
tiêu kinh doanh đề ra, thông qua việc xây dựng kế hoạch dài hạn, kế hoạch hàng
năm với hoạt động kinh doanh phù hợp với chiến lược phát triển của tồn ngành
và của chính ngân hàng
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đầu tư & phát triển
Việt Nam trong ba năm 2006, 2007, 2008
Thời gian gần đây, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới với xuất phát
điểm là sự sụp đổ hệ thống cho vay dưới chuẩn của Mỹ đã khiến cho nền
kinh tế Việt Nam mà nhất là thị trường tài chính tiền tệ có nhiều diễn biến
mang tính phức tạp, điển hình như việc dư thừa vốn khả dụng của các
NHTM kéo dài suốt trong năm 2007 và lại thiếu hụt vốn trầm trọng vào
đầu năm 2008. Việc chỉ số chứng khoán Việt Nam giảm mạnh, hay việc tỷ
lệ dự trữ bắt buộc tăng, NHNN kiểm soát chặt chẽ cho vay đối với đầu tư
chứng khốn và tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng v.v… dường như càng
làm tăng lên những khó khăn mà hệ thống ngân hàng gặp phải. Trước những
biến động đó, hoạt động của SGDI NHĐT&PTVN trong thời gian qua cũng
khơng tránh khỏi những khó khăn nhất định. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo
quyết liệt, chủ động, linh hoạt bằng những quyết sách mạnh mẽ, kịp thời
của Ban lãnh đạo cùng sự nỗ lực chung của toàn bộ tập thể cán bộ nhân
viên, hoạt động của SGDI đã đạt được những kết quả rất khả quan, xứng
đáng là cánh chim đầu đàn trong toàn hệ thống NHĐT&PTVN .
2.1.2.1 Đánh giá nguồn vốn huy động
a) Đánh giá tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động
Biểu đồ 2.1: Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của SGDI.
(Đvt: triệu đồng)



Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI

Tính đến hết ngày 31/12/2007, số dư huy động vốn của SGDI đạt
13620.6 tỷ đồng, tăng 34.71% so với năm 2006. Nguồn vốn huy động
luôn tăng trưởng như vậy đã đảm bảo cho SGDI lúc nào cũng có nguồn
vốn sẵn sàng bổ sung cho nhu cầu thanh khoản. Tốc độ tăng trưởng nguồn
vốn huy động của năm 2008 cao hơn tốc độ tăng trưởng huy động vốn của
năm 2007 (so với 2006) 88.9%, là do cuộc chạy đua lãi suất vào đầu năm
2008 của các ngân hàng, tỷ lệ lạm phát tăng khá cao khiến cho đôi khi
dẫn tới mức lãi suất thực âm. Thêm vào đó khơng thể khơng kể đến sự
biến động của thị trường vàng, sự tăng cao của tỷ giá USD/VND và
những tác động tiêu cực đến huy động vốn của các ngân hàng. Đặc biệt
kết thúc năm 2008 vốn huy động tăng 88.96% so với năm 2007. Nguyên
nhân chủ yếu do việc huy động vốn với lãi suất khá cao trong bối cảnh
lạm phát của nền kinh tế.
Biểu đồ 2.2: Tốc dộ tăng trưởng vốn thành phần
(Đvt: triệu đồng)
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI

Tiền gửi tổ chức kinh tế tăng trưởng đều đặn qua các năm , tỷ trọng
tiền gửi khơng kỳ hạn ngày càng tăng lên. Điều đó cho thấy SGDI dường như đi
đúng hướng trong việc phát triển hệ thống thanh tốn khơng dùng tiền mặt cho
hệ thống doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung, giúp cho việc kiểm
sốt lưu thơng tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Tiền gửi của dân cư biến động mạnh trong giai đoạn 2006 – 2008,
giảm mạnh vào năm 2007 và lại tiếp tục tăng trong năm 2008 dù kinh tế
có nhiều khó khăn. Điều đó đã cho thấy SGDI đã năng động và sáng tạo
trong việc chọn giải pháp phát triển những sản phẩm và cung ứng dịch vụ
huy động vốn linh hoạt, mang tính cạnh tranh cao bên cạnh những dịch vụ



truyền thống như tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm “ổ trứng vàng”…và chú
trọng công tác mở rộng mạng lưới trên các thi trường tiềm năng, khách
hàng tiềm năng.
b) Đánh giá cơ cấu nguồn vốn huy động
Cơ cấu huy động vốn của SGDI đã có sự thay đổi theo chiều hướng
tích cực thể hiện ở đối tượng tiền gửi của tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng
lớn thay cho loại hình tiền gửi của cá nhân trong giai đoạn trước đây.
Nguồn vốn huy động khác đang dần chiếm tỷ trọng tăng cao thể hiện sự
năng động của SGDI trong việc tìm kiếm nguồn vốn cho sự phát triển của
mình. Tính đến 31/12/2008 tiền gửi của các tổ chức kinh tế đạt 26485,352
tỷ đồng, tiền gửi dân cư đạt 2355,873 tỷ đồng trong tổng nguồn vốn huy động.
Bảng 2.1: Cơ cấu nguồn vốn huy động của SGDI
Năm

2006

2007

2008

Chỉ tiêu

1.Tiền gửi tổ chức

7.284.959

12.760.106

26.485.352


- TG khơng kỳ hạn

1.645.390

3.768.506

7.953.210

- TG có kỳ hạn

5.639.569

8.991.600

18.532.142

2.791.400

2.491.021

2.355.873

2.290.055

2.130.000

1.865.230

- Kỳ phiếu


120.200

125.350

95.023

- CCTG, trái phiếu

379145

235.671

395.620

3. Huy động khác

34.567

53.355

78235

2.Tiền gửi dân cư
- TG tiết kiệm

Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI

Điều đó cho thấy SGDI dường như đi đúng hướng trong việc phát triển
hệ thống thanh tốn khơng dùng tiền mặt cho hệ thống doanh nghiệp nói riêng

và nền kinh tế nói chung, giúp cho việc kiểm sốt lưu thơng tiền tệ của Ngân
hàng Nhà nước.
2.1.2 .2 Đánh giá tín dụng
a) Quy mơ và tốc độ tăng trưởng tín dụng
Biểu đồ 2.3: Quy mơ tăng trưởng tín dụng 2006 – 2008


(Đvt: triệu đồng)
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008
của SGDI

Trong giai đoạn 3 năm 2006 – 2008, dư nợ tín dụng của SGDI liên tục
tăng. Cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới, lạm phát tăng cao trong nước đã khiến
NHNN phải thực thi chính sách tiển tệ thắt chặt vào hồi đầu và giữa năm 2008.
Theo chính sách đó, tồn bộ hệ thống ngân hàng phải hạn chế tốc độ tăng
trưởng tín dụng, rà sốt chặt chẽ các khoản cấp tín dụng góp phần nâng cao chất
lượng tín dụng và đảm bỏa sự phát triển an tồn của tồn hệ thống. Dù có sự nới
lỏng vào cuối năm 2008 qua việc cắt giảm lãi suất cơ bản nhưng tồn hệ thống
ngân hàng đang duy trì một mức tăng trưởng tín dụng vừa phải cho một sự phát
triển bền vững. Vì vậy, dự đốn tốc độ tăng trưởng tín dụng cao trong năm 2008
được coi là sự phát triển thành cơng của SGDI trong cơng tác tín dụng dựa trên
xem xét mối quan hệ giữa lợi nhuận_rủi ro.
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng tín dụng thành phần.
(Đvt: triệu đồng)
Thành phần tín dụng
Cho vay ngắn hạn
Cho vay T&D hạn TM
Cho vay đồng tài trợ
Cho vay KHNN
Cho vay ủy thác, ODA


2006
1.959.934

2007
2.059.282

2008
2.915.623

623.713

1.095.379

1.035.021

1.894.594
256478
266.034

1.512.000
161.000
271.660

1.584.230
18.520
253.642

Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI


Bảng biểu trên đã cung cấp những số liệu tuyệt đối về tín dụng thành
phần của SGDI. Trong giai đoạn 2006 – 2008, cho vay ngắn hạn luôn tăng
trưởng đều đặn với tốc độ tăng trưởng bình quân là 48.76%. Cho vay trung và
dài hạn thương mại tăng trưởng mạnh vào năm 2007 với tốc độ tăng trưởng là
57.17%
b) Đánh giá cơ cấu tín dụng


Cơ cấu danh mục tín dụng của SGDI trong giai đoạn 2006 – 2008 đã có
những thay đổi, những chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng cho vay ngắn hạn
và giảm tỷ trọng cho vay trung và dài hạn. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn
chiếm 12.47% vào năm 2006, tăng lên 18.91% vào năm 2007 và giảm vào năm
2008. Sự tăng tỷ trọng vào năm 2007 được lý giải bởi sự tăng trưởng mạnh của
nền kinh tế (với tốc độ tăng trưởng GDP là 8.5%). Tuy nhiên, những bất lợi
năm 2008 đã khiến SGDI điều chỉnh tỷ lệ cơ cấu tín dụng. Cho vay theo kế
hoạch nhà nước khơng những khơng tăng từ năm 2008 mà cịn giảm dần qua
các năm.
Tuy nhiên cũng trong giai đoạn 2006 – 2008, cùng với sự tăng trưởng về
quy mơ tín dụng, sự thay đổi dần theo chiều hướng tích cực của cơ cấu tín dụng
thì tỷ lệ nợ xấu của SGDI cũng có xu hướng tăng dần. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư
nọ vào năm 2006 là 0.21% đã tăng lên tới 0.27% vào năm 2007, 0.25% vào năm
2008. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu như vậy có thể coi là chấp nhận được nếu khơng
muốn nói là khá nhỏ so với các chi nhánh cùng hệ thống và các ngân hàng khác.
Để đạt được những kết quả này là nhờ vào sự nỗ lực cũng như hiệu quả của việc
kiểm sốt chất lượng tín dụng chặt chẽ của SGDI trong suốt thời gian qua.
c) Đánh giá các chỉ tiêu khác
* Thu dịch vụ ròng
Biểu đồ 2.4: Thu dịch vụ rong giai đoạn 2006-2008
(Đơn vị tính : triệu đồng)


Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI

Trong giai đoạn 2006 – 2008, thu dịch vụ rịng ln ln tăng trưởng với
tốc độ mạnh và đều đặn. Thu dịch vụ rịng tính đến thời điểm 31/12/2008 đạt
115 tỷ đồng, tăng 49.6% so vói năm 2007. Trước thực trạng cạnh tranh gay gắt
giữa các NHTM trong cung cấp những tiện ích đến khách hàng, đạt được điều
này là do SGDI đã tập trung nguồn lực vào đầu tư phát triển hoạt động dịch
vụ như tài trợ thương mại, bảo lãnh, dịch vụ ngoại tệ…


* Kết quả kinh doanh
Năm 2007 tổng tài sản bình quân đạt 17999 tỷ đồng tăng 27.28% so với
năm 2006. Cùng với đó, tốc độ tăng truởng của lợi nhuận sau thuế cũng đạt mức
bình quân khá cao là 47.06%. Tính đến 31/12/2007, lợi nhuận sau thuế đạt mức
321 triệu đồng, tăng 73.64% so với năm 2006.
Năm 2008, mặc dù hoạt động của khối ngân hàng thương mại nhìn chung
gặp nhiều khó khăn với tình hình huy động vốn giảm mạnh dẫn đến việc các
NHTM muốn thu hút đựợc vốn đã đẩy lãi suất lên cao, kéo theo lãi suất cho vay
cũng tăng mạnh. Đồng thời các NHTM lại phải thực hiện giới hạn tín dụng, gây
ảnh hưởng đáng kể đến kết quả hoạt động, làm cho cạnh tranh trong hệ thống
càng khắc nghiệt hơn trước. Do vậy những kết quả mà SGDI đạt được là đáng
khích lệ, và đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh NHĐT&PTVN chuẩn bị cổ phần
hóa thành tập đồn tài chính ngân hàng vào năm 2009.
2.2 Thực trạng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHĐT&PTVN
trong thời gian gần đây.
Là một trong những ngân hàng thương mại Nhà nước hàng đầu Việt
Nam, trong thời gian vừa qua, NHĐT&PTVN luôn sát cánh cùng doanh nghiệp.
Ngồi mức lãi suất cho vay ưu đãi, NHĐT&PTVN cịn đưa ra gói giải pháp
dành cho DNVVN. Hơn thế, NHĐT&PTVN luôn là nhạc trưởng trong các diễn
đàn xúc tiến đầu tư vào các vùng trọng điểm của đất nước không những giúp

doanh nghiệp vượt qua khó khăn, mà cịn mở ra nhiều cơ hội hỗ trợ doanh
nghiệp phát triển trong tương lai.
DNVVN đóng một vai trị, vị trí rất quan trọng trong hệ thống kinh tế
quốc dân và là một thị trường tiếm năng. Theo số liệu thống kê của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, trong tổng số gần 350.000 doanh nghiệp đang hoạt động tại
Vệt Nam, có đến 95% là các DNVVN. Trong bối cảnh đó, để hiện thực hoá mục
tiêu trở thành ngân hàng thương mại dẫn đầu trong cung ứng tín dụng, dịch vụ
cho các DNVVN. Trong thời gian qua, NHĐT&PTVN đã mở rộng phát triển
cho vay, nhất là qua các chương trình đặc biệt tài trợ DNVVN.


Tính đến hết q III/2008, hơn 17.000 DNVVN đang có quan hệ với
NHĐT&PTVN với tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh 43.527 tỷ đồng, chiếm
21,5% tổng dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của toàn toàn hệ thống
NHĐT&PTVN.
Không chỉ tăng về mặt số lượng khách hàng là các DNVVN mà xét về
quy mô, dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh của khối DNVVN tại NHĐT&PTVN
cũng tăng 15.485 tỷ đồng (31/11/2008) tương đương 55,2%. Do vậy, mức tăng
trưởng tín dụng đối với khối DNVVN ln cao hơn mức tăng bình qn của
tồn hệ thống NHĐT&PTVN. Như vậy tính đến thời điểm cuối Quý 3/2008, số
lượng DNVVN có quan hệ tín dụng tại hệ thống BIDV tăng thêm 1.368 Doanh
nghiệp (tương đương tăng trưởng 12,7%) so với thời điểm cuối năm 2007. Nếu
xét về quy mô quan hệ tín dụng đối với khối DNVVN: Tại thời điểm cuối Quý
3/2008, dư nợ cho vay và số dư bảo lãnh, L/C của khối DNVVN tại BIDV tăng
6.346 tỷ đồng (tương đương tăng trưởng 17,1%) so với thời điểm cuối năm
2007.
Năm 2008 là một năm nền kinh tế đất nước gặp nhiêu khó khăn, trong đó
khối DNVVN bị tác động mạnh, nhiều doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ
bị phá sản. Với vai trò là ngân hàng chủ chốt trong khố NHTM Nhà nước,
NHĐT&PTVN luôn đi tiên phong trong việc hỗ trợ chia sẻ khó khăn đối với

doanh nghiệp như giảm lãi suất cho vay, thực hiện cơ chế linh hoạt về tài sản
bảo đảm ...


2.3 Thực trạng chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại
SGDI NHĐT&PTVN
2.3.1 Tín dụng trung và dài hạn đối với DNVVN tại SGDI NHĐT&PTVN
Thời gian qua, NHĐT&PTVN đã có chính sách chia sẻ khó khăn đối với
các Doanh nghiệp như giảm lãi suất cho vay, giảm phí, thực hiện cơ chế linh
hoạt về tài sản bảo đảm… Từ tháng 9/2008 đến nay, NHĐT&PTVN đã 08 lần
giảm lãi suất cho vay, riêng đối với các DNVVN mức lãi suất cho vay đã giảm
từ 21%/năm xuống còn 8%/năm (giảm 13%/năm). NHĐT&PTVN trở thành nhà
băng đầu tiên công bố điều chỉnh giảm lãi suất đồng nội tệ đầu tiên trong năm
2009. Lần giảm gần đây nhất được NHĐT&PTVN công bố vào ngày 4/12/2008.
Lần này, lãi suất cho vay VND của NHĐT&PTVN tối đa là 10,5% một năm.
Lãi suất cho vay ngắn hạn thời hạn đến 3 tháng là 8% một năm đối với các
khoản vay xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu trực tiếp và khách hàng cam kết
bán lại ngoại tệ tương ứng cho NHĐT&PTVN. Lãi suất cho vay ngắn hạn với
thời hạn đến 3 tháng là 9% một năm. Trường hợp thời hạn vay trên 3 tháng, lãi
suất áp dụng trên 9% đến tối đa 10% một năm. Lãi suất cho vay trung dài hạn
VND của NHĐT&PTVN từ nay bằng lãi suất tiết kiệm 12 tháng trả sau cộng
với phí tối thiểu là 3% một năm nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản.
Như vậy, với các chính sách hỗ trợ tín dụng đối với DNVVN,
NHĐT&PTVN đã:
- Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt: trên cơ sở lãi suất cơ bản từng
thời kỳ, áp dụng cơ chế lãi suất ưu đãi đối với các DNVVN, đảm bảo mức lãi
suất cho vay đối với các DNVVN thấp hơn từ 0,5% - 1%/năm so với mức lãi
suất cho vay thơng thường.
- Đa dạng hố các hình thức cấp tín dụng: Đặc biệt đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu, như chương trình hốn đổi tiền tệ chéo VND-USD, chiết

khấu bộ chứng từ…


- Áp dụng biện pháp bảo đảm linh hoạt: bảo đảm bằng tài sản hình thành
từ vốn vay, nguyên vật liệu tồn kho, quản chấp lô hàng… phù hợp với từng lĩnh
vực ngành nghề kinh doanh và xếp hạng doanh nghiệp.
- Cho vay kết hợp với góp vốn đầu tư, liên doanh, liên kết với DNVVN:
hình thức này vừa tạo điều kiện mở rộng tín dụng, vừa giúp Ngân hàng có điều
kiện xâm nhập thị trường, trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay. Hình thức
này là rất hiệu quả và cũng nằm trong khả năng đầu tư, quản lý của Ngân hàng
vì các DNVVN thường có quy mơ về vốn và phạm vi hoạt động không lớn.
Để hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động sản xuất kinh doanh,
NHĐT&PTVN sẽ dành riêng nguồn vốn với lãi suất hợp lý để hỗ trợ tín dụng
(tăng dư nợ rịng) đối với các DNVVN trong giai đoạn 2008 – 2010 là trên
30.000 tỷ đồng, phấn đấu đến năm 2010, tổng dư nợ cho vay đối với khối
DNVVN đạt khoảng 60.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 30% tổng dư nợ của
NHĐT&PTVN.
NHĐT&PTVN cam kết sẽ dành 300 tỷ đồng để hỗ trợ cho vay các
DNNVV của tỉnh Quảng Ngãi trong 2 năm 2009 – 2010, trong đó ưu tiên tài trợ
vốn cho các Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm thiết
yếu, sản xuất hàng xuất khẩu, thu mua chế biến thuỷ sản, kinh doanh thương
mại dịch vụ, kinh doanh các ngành phụ trợ cho công nghiệp chế biến xăng dầu.
Một số hoạt động tín dụng của SGDI nhằm hỗ trợ tín dụng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn đầu năm 2009:
- Phê duyệt thiết lập quan hệ và cấp giới hạn tín dụng đối với Cơng ty
cổ phần năng lượng xanh Việt Nam.
- Phê duyệt nâng hạn mức tín dụng ngắn hạn đối với Tổng cơng ty thiết
bị điện Việt Nam.
- Phê duyệt cấp hạn mức tín dụng cho Ban quản lý dự án Nhà máy thuỷ
điện Sơn La.

- Phê duyệt thiết lập quan hệ và cho vay vốn tài trợ phương án vay vốn
kinh doanh của Công ty cổ phần đầu tư Cơng đồn NHĐT&PTVN.


- Phê duyệt gia hạn thời gian rút vốn của Hợp đồng hạn mức tín dụng
đối với Cơng ty cổ phần xây dựng cơng trình ngầm Vinavico.
- Phê duyệt phát hành bảo lãnh hoàn trả tiền tạm ứng đối với Cơng ty
cổ phần xây dựng cơng trình ngầm Vinavico.
- Phê duyệt điều chỉnh kỳ hạn trả nợ dự án đầu tư thiết bị thi công của
Công ty cổ phần xây dựng cơng trình ngầm Vinavico.
- Trình Hội sở chính phê duyệt phát hành bảo lãnh thực hiện hợp đồng
và gia hạn thời gian rút vốn vay thi cơng cơng trình Nhà máy bia Hà Nội –
Giai đoạn 1 tại Vĩnh Phúc đối với Công ty cổ phần Lilama Hà Nội.
2.3.2 Phân tích chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại SGDI
NHĐT&PTVN
Dựa vào bảng báo cáo kết quả kinh doanh 3 năm 2006, 2007, 2008 để
phân tích một số chỉ tiêu về chất lượng tín dụng tại SGDI NHĐT&PTV như
sau:
* Chỉ tiêu doanh số cho vay trung và dài hạn
Là một đơn vị lớn trong hệ thống NHĐT&PTVN, SGDI cho vay nhiều
dự án, chương trình đầu tư dài hạn, quan hệ tín dụng với nhiều khách hàng là
tổng cơng ty, doanh nghiệp lớn vì vậy dư nợ trung và dài hạn chiếm khá lớn
trong tổng dư nợ. Tuy nhiên, thực hiện định hướng của NHĐT&PTVN về cơ
cấu tín dụng trong đó giảm tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn, tăng tỷ trọng tín
dụng ngắn hạn, cơ cấu tín dụng của SGDI cũng đã có sự thay đổi.
- Tỷ trọng doanh số cho vay trung và dài hạn năm 2007 là 59,6%, 2008
đạt 49,79% giảm so với năm 2007. Trong đó cho vay trung và dài hạn đối với
DNVVN năm 2007 đạt 27% dư nợ, năm 2008 cho vay trung dài hạn DNVVN
đạt 30% dư nợ
Biểu đồ 2.5: Doanh số cho vay trung và dài hạn DNVVN

(Đơn vị: triệu đồng)
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI


Như vậy ta có thể thấy rằng tỷ trọng doanh số cho vay trung và dài hạn
DNVVN tăng đều trong các năm gần đây trong khi cho vay trung và dài hạn
giảm.Có thể thấy NHĐT&PTVN rất chú trọng trong vấn đề thúc đẩy tín dụng
đối với khối DNVVN
* Chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ
SGDI là đơn vị có dư nợ lớn trong hệ thống NHĐT&PTVN, trong hoạt
động tín dụng SGDI thực hiện phương châm tăng trưởng ổn định, bền vững,
tăng trưởng đi kèm với kiểm soát và bảo đảm chất lượng tín dụng. Dư nợ tín
dụng (khơng bao gồm ODA) thời điểm 31/12/2008 đạt 5.807.045 triệu đồng, đạt
99,26% kế hoạch được giao, tăng 12% so với dư nợ thông thường thời điểm
31/12/2007. Qua việc lập kế hoạch giải ngân, thu nợ hàng tháng, hàng quý đối
với từng khách hàng, từng dự án, SGDI đã thực hiện tốt việc kiểm soát chặt chẽ
giới hạn tín dụng của NHĐT&PTVN.
Dư nợ tín dụng tại SGDI năm 2008 tập trung ở một số khách hàng lớn,
thường xuyên phát sinh dư nợ trong năm như tổng công ty xăng dầu Việt Nam,
ban quản lý dự án nhiệt điện 1, tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty lắp máy
Việt Nam, công ty TNHH sản xuất kinh doanh Bình Minh, cơng ty cổ phần vận
tải xăng dầu Vitaco…Những khách hàng nói trên đều là những khách hàng
thuộc Nhóm nợ 1, có uy tín trong quan hệ với SGDI, mang lại hiệu quả cao cho
Ngân hàng.
Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn đã giảm từ 59.6% năm 2007 xuống xấp
xỉ 50% năm 2008. Bên cạnh đó, SGDI đã chú trọng hơn trong việc mở rộng cho
vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, dẫn tới dư nợ ngoài quốc
doanh tăng cả về số tuyệt đối và tương đối so với cùng kỳ năm trước, nâng tỷ
trọng dư nợ ngoài quốc doanh từ 35% năm 2007 lên 37,05% năm 2008, vượt
5% so với kế hoạch được giao. Dư nợ ngoài quốc doanh tập trung vào một số

khách hàng như Chi nhánh Công ty TNHH SXKD XNK Bình Minh, Cơng ty cổ
phần vận tải xăng dầu Vitaco, Công ty cổ phần xi măng Hạ Long, Công ty cổ
phần tập đoàn Phú Thái…, đây cũng là những khách hàng có dư nợ lớn tại
SGDI thời điểm 31/12/2008.


* Tỷ lệ nợ xấu
Tổng nợ xấu tháng 12/2008 đạt 155.748 triệu đồng, tăng hơn 2 tỷ đồng so
với thời điểm 30/11/2008 do Sở Giao dịch tiếp tục cho vay hỗ trợ vốn ngắn hạn
đối với Công ty TNHHNN MTV Dệt 8/3 và Cơng ty cổ phần xây dựng cơng
trình Giao thơng 810. Dư nợ nhóm 5 phát sinh 700 triệu đồng của Cơng ty cổ
phần xây dựng cơng trình giao thông 246 do SGDI thực hiện phát vay bắt buộc
để thực hiện cam kết bảo lãnh đối với DNVVN.
Tổng dư nợ xấu theo của SGDI thời điểm 31/12/2008 chiếm 155.748
triệu đồng; tương ứng với 2,51% tổng dư nợ và hoàn thành kế hoạch kinh doanh
năm 2008 do Hội sở chính giao. So với năm 2007, nợ xấu của SGDI giảm mạnh
tới 66 tỷ đồng (giảm khoảng 30%). Điều này cho thấy SGDI luôn quán triệt sâu
sắc và thực hiện đúng theo tinh thần chỉ đạo của Hội sở chính, đồng thời SGDI
đã có những chính sách kiểm sốt hợp lý, chặt chẽ trong hoạt động tín dụng
nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và đảm bảo tỷ lệ dư nợ xấu/tổng dư nợ nằm
trong mức giới hạn cho phép và an toàn.
* Chỉ tiêu nợ quá hạn
Nợ quá hạn trên tổng dư nợ năm 2006 là 0.2%, năm 2007 là 0.25%. Tại
thời điểm 31/01/2008, SGDI phát sinh một khách hàng có nợ q hạn là Cơng
ty CP may Thăng Long (8.240 triệu đồng) đưa nợ quá hạn của SGDI lên mức
8.261 triệu đồng, chiếm 0,14% tổng dư nợ. Nguyên nhân là do của cán bộ tín
dụng khơng theo dõi tài khoản thu lãi tự động dẫn đến quá hạn lãi. Tuy nhiên,
sang ngày 01/02/2008 cán bộ tín dụng đã khắc phục và dư nợ của Cty CP May
Thăng Long đã trở lại trong hạn.
Tại thời điểm 31/12/2008, SGDI không có nợ quá hạn. SGDI đặc biệt

quan tâm đến việc kiểm sốt chặt chẽ từng khoản vay, khơng để phát sinh thêm
doanh nghiệp có nợ quá hạn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ 2007 tăng lên so với 2006, và năm 2008
ko cịn tinh trạng nợ q hạn, điều đó chứng tỏ chất lượng tín dụng cải thiện hơn
vào năm 2008, khả năng mất vốn, mất khả năng thanh khoản không xảy ra.


* Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng
Lợi nhuận trước thuế thu từ hoạt động tín dụng trong 3 năm gần đây như
sau:


Biểu đồ 2.6: Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động tín dụng
(Đơn vị: triệu đồng)
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006,2007,2008 của SGDI

Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng tăng đều dặn trong các năm, đặc biệt giai
đoạn 2006-2007 tăng gần gấp đôi. Khả năng thu hồi nợ và lãi tăng lên, từ đó
phản ánh các khoản tín dụng của SGDI tương đối tốt, đối tượng được cấp phép
cho vay vốn được thẩm định khá hiệu quả.
* Thu hồi hạch toán ngoại bảng
Trong tháng 12/2008 SGDI thu được 1.559 triệu đồng nợ hạch toán ngoại
bảng của các doanh nghiệp sau: 230 triệu đồng của Công ty cổ phần xây dựng
cơng trình giao thơng 810, 1.035 triệu đồng của Công ty đường bộ 230 và 294
triệu đồng của Công ty cổ phần phát triển đầu tư Hà Nội (thu một phần từ hợp
đồng bán nợ với dự án tài chính).
Như vậy đến 31/12/2008, tổng dư nợ hạch tốn ngoại bảng thu được của
SGDI là 10.546 triệu đồng, chỉ hoàn thành 67,17% kế hoạch giao. Thu nợ ngoại
bảng chưa đạt được kế hoạch giao là do những diễn biến xấu của nền kinh tế đã
tác động mạnh đến các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNVVN vốn đã có tình

hình tài chính yếu kém, hiệu quả kinh doanh thấp, ảnh hưởng đến việc thu hồi
nợ của SGDI.
* Tình hình giá trị tài sản bảo đảm và dư nợ có tài sản bảo đảm
Năm 2008, dư nợ có tài sản bảo đảm của SGDI chiếm 42% tổng dư nợ,
hoàn thành kế hoạch được giao. Chỉ tiêu này thấp hơn năm 2007 (51%) là do
đặc thù của SGDI là cho vay nhiều khách hàng là doanh nghiệp lớn, các tổng công
ty, tập đồn là các DNNN được cho vay, bảo lãnh khơng có tài sản bảo đảm theo
quyết định 9488/QĐ-TD3 ngày 01/12/2006 của NHĐT&PTVN (các khách hàng có
mức xếp hạng AAA và AA) như: Tổng công ty xăng dầu Việt Nam, Tổng cơng ty
Sơng Đà, Tập đồn dầu khí Việt Nam,.... Ngồi ra, trong năm 2008 SGDI tiến hành
giải ngân đối với nhiều dự án lớn nhưng chưa đủ điều kiện để hạch toán giá trị tài


sản đảm bảo. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp tăng dư nợ nhưng giá trị tài sản bảo đảm
tăng không đáng kể và làm cho dư nợ có tài sản bảo đảm khơng cao.
2.3.3 Đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại SGDI
2.3.3.1 Kết quả đạt được
Trong những năm trở lại đây, nhờ sự nỗ lực cố gắng và phấn đấu của tập
thể cán bộ nhân viên SGDI NHĐT&PTVN đã đạt được những kết rất tốt, xứng
đang với danh hiệu Anh hùng Lao động do Chủ tịch nước phong tặng nhân dịp
kỷ niệm 51 năm ngày truyền thống. SGDI là đơn vị thành viên đầu tiên của
BIDV vinh dự được đón nhận danh hiệu cao quý này. Những kết quả đạt được
như sau:
* Nguồn vốn huy động
Nguồn vốn tăng trưởng nhanh hơn (vốn huy động năm 2008 tăng 88.9%
so với năm 2007, năm 2007 tăng 34.71% so với năm 2006) và ngày càng ổn
định, đáp ứng tốt cho nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng. Trong khi đó tỷ lệ
chi phí huy động vốn huy động của các ngân hàng có xu hướng giảm trong thời
gian gần đây, uy tín của ngân hàng nâng cao nên khách hàng tăng lên đặc biệt là
khách hàng DNVVN.



* Hoạt động tín dụng
SGDI đã đạt được những thành cơng đáng kể trong việc mở rộng hoạt
động tín dụng, áp dụng những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng,
đồng thời SGDI đã liên tục cử cán bộ đi tập huấn nhằm xây dựng đội ngũ cán
bộ có chất lượng cao hơn. Trong giai đoạn 3 năm 2006 – 2008, dư nợ tín dụng
của SGDI liên tục tăng. Dư nợ tín dụng thời điểm 31/12/2008 đạt 5.807.045
triệu đồng, đạt 99,26% kế hoạch được giao, tăng 13.9% với dư nợ thơng thường
thời điểm 31/12/2007.
Cơ cấu tín dụng có sự thay đổi, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng,
cho vay khối khách hàng nhà nước giảm trong giai đoạn 2006-2008.
* Tình hình nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ trong những năm qua đều đạt ở mức rất
thấp so với mức trung bình chung của các ngân hàng. Đặc biệt năm 2008 SGDI
NHĐT&PTVN khơng có nợ quá hạn, đó là nỗ lực rất lớn và là thành công của
SGDI trong việc nâng cao chất lượng tín dụng, nâng cao vị thế uy tín của SGDI.
Cơng tác xử lý nợ tồn đọng đã được triển khai tích cực, các khoản nợ tồn
đọng được rà sốt lại và phân tích những khó khăn thuận lợi trong việc thu hồi
nợ để tìm ra những biện pháp xử lý phù hợp nhất.
So với năm 2007 thì năm 2008 nợ xấu và nợ nhóm 2 giảm cả về số tương
đối và tuyệt đối, dư nợ nhóm 1 tăng đáng kể phản ánh chất lượng tín dụng của
SGD được đảm bảo và không ngừng nâng cao.
* Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng
Tốc độ tăng trưởng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng cao, đóng góp chủ
yếu vào thu nhập của ngân hàng. SGDI đã thực hiện tiết kiệm tối đa chi phí và
tích cực đẩy mạnh gia tăng doanh thu.


*Hoạt động kiểm tra kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay

SGDI luôn quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng theo tinh thần chỉ đạo của
Hội sở chính, đồng thời SGDI đã có những chính sách kiểm sốt hợp lý, chặt
chẽ trong hoạt động tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và đảm bảo tỷ
lệ dư nợ xấu/tổng dư nợ nằm trong mức giới hạn cho phép và an toàn.
* Trong quản trị điều hành
SGDI đã tái cơ cấu lại bộ máy quản lý trong năm 2008 theo hướng hiện
đại để dễ dàng quản lý.
2.3.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
* Những hạn chế
Quy mô khoản vay trung và dài hạn còn nhỏ, số lượng các dự án cho vay
cịn ít do hình thức tín dụng trung và dài hạn chứa đựng nhiều rủi ro cao…
Thời gian xét duyệt dự án cho vay còn dài, thủ tục rườm rà vì có nhiều
giấy tờ biểu mẫu được địi hỏi do vậy nó làm cho cán bộ tín dụng mất thời gian
điều tra đồng thời làm cho doanh nghiệp đi vay vốn chán nản. Nhất là những
khoản vay vốn lớn, khi vay được vốn thì doanh nghiệp đã mất đi những cơ hội
kinh doanh.
Thu nợ ngoại bảng chưa đạt được kế hoạch giao, có những khoản nợ ngoại
bảng từ những năm trước nhưng vẫn chưa thu hồi được.
Năm 2008 SGDI tiến hành giải ngân đối với nhiều dự án lớn nhưng chưa đủ
điều kiện để hạch toán giá trị tài sản đảm bảo. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp tăng dư
nợ nhưng giá trị tài sản bảo đảm tăng không đáng kể và làm cho dư nợ có tài sản bảo
đảm khơng cao.
Cán bộ tín dụng lợi dụng vị trí của mình để vụ lợi cá nhân làm uy tín ngân
hàng giảm xuống.
Quan niệm Marketting của SGDI còn hạn chế, SGDI chủ yếu tập trung
vào các hoạt động bề nổi nhờ quảng cáo, khuyếch trương... còn việc vận dụng
Marketting nghiên cứu khách hàng, xác định thị trường mục tiêu, đi sâu sát vào


hoạt động, quan tâm đến từng khách hàng chưa cụ thể. SGDI cịn để hở một

mảng lớn trong việc lơi kéo các khách hàng tiềm năng, chưa có các biện pháp
cụ thể có thể dẫn đến việc bị các đối thủ cạnh tranh lôi kéo khách hàng.
* Nguyên nhân
Hiện nay quy trình nghiệp vụ cho vay đang trong thời gian sửa đổi hoàn
thiện do vậy mà khách hàng chưa nắm bắt được thủ tục cho vay, quy trình xin
vay vốn của ngân hàng.
Những diễn biến xấu của nền kinh tế đã tác động mạnh đến các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vốn đã có tình hình tài chính yếu kém, hiệu
quả kinh doanh thấp, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của Sở Giao dịch I.
Những biến động kinh tế thế giới ảnh hưởng nền kinh tế Việt Nam, thị
trường biến động bất thường, lạm phát nền kinh tế cao, thị trường vàng và
chứng khoán biến động dẫn đến khoản tiền gửi ở ngân hàng cũng biến động
không dều trong thời gian ngắn.
Do sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức tín dụng khác trên cùng địa bàn,
sự gia nhập thị trường tài chính củ các tổ chức tài chính nước ngồi.
Do trinh độ cán bộ tín dụng, đạo đức nghề nghiệp còn yếu kém nên xảy
ra một số vụ việc làm mất uy tín ngân hàng



×