Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ TRONG THỜI GIAN TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.57 KB, 14 trang )

TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Triển vọng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ trong thời gian
tới
3.1.1. Xu hướng tiêu dùng hàng dệt may của Hoa Kỳ trong thời gian tới
Trong thời gian gần đây, nền kinh tế Hoa Kỳ và một số nước đang bị suy thoái.
Theo ý kiến của các chuyên gia, nền kinh tế Hoa Kỳ có thể có mức tăng trưởng chậm
lại từ 1 – 2%/năm. Con số này xét về mặt tuyệt đối là rất lớn. Chúng ta biết rằng 1%
GDP của Hoa Kỳ bằng khoảng 130 tỷ USD – gấp đôi GDP của Việt Nam mỗi năm. Vì
vậy, khi nền kinh tế Hoa Kỳ giảm nhiệt sẽ ảnh hưởng lớn đến sức mua hàng hóa của thị
trường, trong đó có hàng dệt may.
Tuy nhiên, phải thấy rằng hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa
Kỳ chỉ chiếm khoảng 4,74% thị phần hàng dệt may Hoa Kỳ (Theo Hiệp hội Dệt may
Việt Nam). Do đó, đây không phải là thách thức lớn đối với hoạt động xuất khẩu dệt
may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ nói chung và đối với các doanh nghiệp xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam nói riêng. Nếu các doanh nghiệp của ta năng động, hàng
dệt may Việt Nam vẫn có thể tăng thị phần trên thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới.
Ở Hoa Kỳ hiện nay, thanh thiếu niên đang trở thành lực lượng tiêu dùng quan
trọng do họ cơ thu nhập cao hơn và tỷ lệ dành cho mua sắm quần áo rất lớn. Họ rất chú
ý đến thời trang, nhãn hiệu hàng hóa, đây là một tín hiệu tốt cho các công ty tiếp thị
thương hiệu. Các nhà cung cấp muốn tiêu thụ được hàng của mình thì phải bỏ ra một
chi phí lớn để trực tiếp hoặc thông qua các công ty tiếp thị tạo dựng một thương hiệu
riêng được người tiêu dùng chấp nhận, nếu không họ phải chấp nhận gắn thương hiệu
đã có uy tín trên thị trường.
3.1.2. Các đối thủ cạnh tranh
Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn không chỉ của Việt Nam mà còn của tất cả
các nước xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ khác với ưu thế phong phú về chủng
loại hàng hóa, giá rẻ và năng động trong việc đổi mới sản phẩm đáp ứng như cầu, thị
hiếu luôn biến động của thị trường. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), sau
khi được dỡ bỏ hoàn toàn hạn ngạch thì kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Trung
Quốc sẽ tăng lên 2 lần, chiếm khoảng 50% thị phần thế giới và khoảng 65 – 75% thị


phần Hoa Kỳ.
Các nước Nam Á như Ấn Độ, Pakistan, các nước ASEAN (Philippines,
Inđônêxia, Thái Lan) là những nước xuất khẩu lớn, có sẵn thị truờng tiêu thụ. Tuy giá
nhân công vẫn cao hơn Việt Nam những vẫn vào loại thấp, họ lại có ưu thế về trình độ
công nghệ, quản lý và năng suất lao động so với Việt Nam và tự túc được nguyên liệu
vải và năng suất lao động so với Việt Nam và tự túc được nguyên liệu vải và phụ kiện
may chất lượng cao nên đã góp phần làm giảm giá thành của sản phẩm.
Bên cạnh đó, các nước Bắc Hoa Kỳ (Canađa, Mêhicô) và các nước vùng Caribê
là những nước đang có lợi thế trong xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ do có thỏa
thuận về tự do hóa thương mại riêng với Hoa Kỳ và đã có quan hệ thương mại từ lâu.
Ngoài ra, cũng phải tính đến áp lực cạnh tranh không nhỏ từ phía các nhà sản
xuất Hoa Kỳ. Do phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ các hàng hóa nhập khẩu rẻ hơn
trong những năm gần đây, các nhà sản xuất hàng dệt may Hoa Kỳ đã thực hiện hàng
loạt các biện pháp như thay đổi cơ cấu hoạt động thông qua mua lại hoặc sát nhập để
tập trung vốn, tăng thị phần, tăng hiệu quả sản xuất do quy mô lớn, đa dạng hóa sản
phẩm, tập trung vào những lỗ hổng trên thị trường, liên kết chặt chẽ với các nhà bán lẻ
và cùng sử dụng hệ thống đáp ứng nhanh với kỹ thuật thông tin vi tính tự động định
hướng để tăng thêm tính linh hoạt và đồng bộ trong sản xuất và phân phối. Lợi thế cạnh
tranh lớn nhất của các nhà sản xuất Hoa Kỳ so với các đối thử châu Á là nhãn hiệu, chất
lượng sản phẩm và đáp ứng nhanh.
3.1.3. Cơ hội xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ
Với dân số hơn 280 triệu người, thị trường Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ hàng
dệt may vào loại lớn nhất thế giới (mức tiêu thụ hàng dệt may tính trung bình là
27kg/người). Do tác động của xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, xu thế tự do hóa
thương mại và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hoa Kỳ, ngành dệt may của nước
này ngày càng suy giảm, nhập khẩu ngày càng gia tăng.
Trong thời gian qua, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã tận dụng cơ hội rất
tốt, phát huy mọi thế mạnh của mình để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.
Nhiều doanh nghiệp đã tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ nên sản
phẩm đạt chất lượng cao hơn, không thua kém gì so với các nước trong khu vực (may

Việt Tiến, may Thành Công, dệt Phong Phú, dệt Việt Thắng..). Kết quả là kim ngạch
xuất khẩu trong những năm gần đây tăng lên một cách mạnh mẽ và bền. Tuy phải đối
mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của các nước xuất khẩu hàng dệt may khác
những nếu chúng ta thực hiện tốt chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may đế năm
2010, dần dần khắc phục những điểm yếu thì chắc chắn trong tương lai hàng dệt may
Việt Nam sẽ có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường Hoa Kỳ.
3.1.4. Những thuận lợi và khó khăn đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian sắp tới
Thuận lợi:
Đầu tiên, phải kể đến việc Việt Nam đã được Hoa Kỳ xóa bỏ hạn ngạch xuất
khẩu hàng dệt may sang thị trường nước này. Đây sẽ là một cơ hội lớn cho cácc nhà sản
xuất xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Nếu nắm bắt được thời cơ và chiếm lĩnh tốt thị
trường thì trong năm 2007 và trong những năm tới kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ sẽ tăng lên mạnh mẽ. Một thực tế đã chứng minh là
tuy bị kiểm soát bởi hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ nhưng
giá trị kim ngạch và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
sang thị trường Hoa Kỳ cũng tăng lên nhanh chóng.
Thứ hai, Chính phủ Việt Nam đã kêu gọi đầu tư trực tiếp vào các khu công
nghiệp và khu chế xuất sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng
dệt may. Vì thế trong những năm tới chúng ta hoàn toàn có thể hi vọng Việt Nam sẽ
thoát khỏi cảnh thiếu thốn nguyên phụ liệu dẫn đến việc phải gia công cho nước ngoài
và nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nước ngoài với giá đắt. Khi đã có sự tự chủ về nguyên
phụ liệu, lợi nhuận thu được của ngành dệt may xuất khẩu sẽ lớn hơn gấp bội. Do đó
trong một tương lai gần chúng ta không những có thể tăng kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may sang thị trường Hoa Kỳ mà còn có thể xây dựng thương hiệu hàng dệt may của
Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Điều này sẽ có tác động lớn đến tương lai xa của vấn
đề xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam không chỉ trên thị trường Hoa Kỳ mà còn là trên
tất cả các thị trường của thế giới.
Thứ ba, sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO vào ngày
11/1/2007 và vừa qua đã được bầu làm thành viên không thường trực của Hội đồng bảo

an Liên hợp quốc đã khẳng định uy tín của Việt Nam trên trường Quốc tế. Do đó Việt
Nam có thể nâng cao hình ảnh cũng như các mối quan hệ của mình nói chung và trong
hoạt động sản xuất hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng.
Khó khăn:
Đầu tiên phải kể đến nguy cơ bị kiện bán phá giá của hàng dệt may Việt Nam
trên thị trường Hoa Kỳ. Tại hội thảo chuyên đề do Tập đoàn Dệt may Việt Nam và
Hiệp hội dệt may Việt Nam tỏ chứ ngày 22/1/2007 ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luật sư
Douglas J.Heffner cho biết: “Chính phủ Hoa Kỳ sẽ tự tiến hành các vụ kiện chống bán phá giá đối với Việt Nam
nếu có đầy đủ dữ liệu cho thấy các sản phẩm dệt may hoặc quần áo đang bị bán phá giá”. Thực tế là Việt Nam
đang bị điều tra để xem xét có đúng là chúng ta đã bán phá giá trên thị trường Hoa Kỳ
hay không. Chúng ta đã từng thua kiện trong nhiều vụ kiện bán phá giá. Điển hình là đã
bị kiện bán phá giá cá tra, cá basa trên thị trường Hoa Kỳ và các doanh nghiệp Việt
Nam đã phải chịu tổn thất rất nặng nề. Trong thời điểm hiện tại thì dệt may là một mặt
hàng báo động sẽ bị kiện bán phá giá trên thị trường Hoa Kỳ. Nếu điều đó xảy ra, sẽ rất
khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam vì năng lực pháp lý của chúng ta còn yếu và
do đó sẽ rất dễ thua kiện.
Thứ hai, Hoa Kỳ đã áp đặt cơ chế giám sát đối với hàng dệt may Việt Nam. Vì
thế trong thời gian tới việc tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị
trường Hoa Kỳ không phải điều dễ dàng. Hoa Kỳ cũng vừa ra quy định bổ sung một số
chứng từ liên quan đến hàng dệt may nhập khẩu vào nước này ngoài các chứng từ bắt
buộc trước đây. Theo Cơ quan Hải quan và Bảo vệ biên giới Hoa Kỳ (CBP), những chứng từ được yêu cầu
gồm: giấy chứng nhận xuất xứ và những chứng từ khác do chính quyền của nước xuất khẩu cấp; chứng từ vận
đơn hay chứng từ thông quan xuất khẩu hoặc các thông tin thêm khác do giám đốc cảng thuộc CBP yêu cầu.
Nếu các chứng từ yêu cầu thêm không được cung cấp đầy đủ, dẫn tới việc không xác định được xuất xứ của
hàng hóa hoặc ảnh hưởng tới việc xem xét cho nhập khẩu của CBP, hàng hoá sẽ không được phép vào Hoa Kỳ.
Điều này cũng một phần gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng dệt may sang thị
trường Hoa Kỳ. Thực tế cho thấy trong thời gian ngắn trước đây, một vài lô hàng dệt may xuất khẩu của Việt
Nam đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc thông quan vì các hồ sơ, tài liệu không được sắp xếp theo trình tự
thời gian và viết bằng tiếng Việt mặc dù hồ sơ rất đầy đủ.
Thứ ba, Việt Nam hiện chưa được công nhận là nước có nền kinh tế thị trường. Vì vậy, để tránh hiểu

lầm, Nhà nước Việt Nam đã cắt tất cả các khoản hỗ trợ với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu vào thị trường
Hoa Kỳ, dù dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp, thậm chí ngay cả những hỗ trợ trong khuôn khổ WTO cho
phép. Điều này cũng sẽ gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong thời gian
tới.
Ngoài ra, Việt Nam còn phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ. Nhất là
Trung Quốc, Ấn Độ… Theo số liệu của Hải Quan Hoa Kỳ, nhập khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ trong 5 tháng đầu
năm 2007 tăng 2.94% về lượng và 7,41% về trị giá. Đạt 36,9 tỷ USD tương đương với 20,9 tỷ m
2
quy đổi. Nhập khẩu hàng dệt
may của Hoa Kỳ tăng mạnh từ các nước Trung Quốc, Băngladesh, Ấn Độ, Indonesia, Honduras, Campuchia, Salvador…
Trung Quốc vẫn khằng định vị trí số 1 trên thị trường dệt may thế giới; khi chiếm lĩnh
tới 37% thị phần hàng dệt may nhập khẩu tại thị trường Hoa Kỳ. Mặc dù đã có sự kiểm
soát chặt bằng các mặt hàng có hạn ngạch, nhập khẩu hàng dệt may của Hoa Kỳ của
Trung Quốc vẫn tăng khá cao, tăng 20% về lượng và 38% về trị giá so vơi cùng kỳ năm
ngoái đạt 7,7 tỷ m
2
và 11.3tỷ USD. Tiếp đó là Ấn Độ và Indonesia với kim ngạch xuất
khẩu: Ấn Độ đạt 2,3 tỷ USD, Indonesia đạt 1,7 tỷ USD.
Từ những điểm trên, trong thời gian sắp tới Việt Nam phải đưa ra những giải
pháp hợp lý thì mới có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ -
một thị trường đầy tiềm năng nhưng cũng chứa đựng vô vàn khó khăn thách thức cho
các doanh nghiệp Việt Nam.
3.2. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa
Kỳ
3.2.1. Các giải pháp từ phía Nhà nước
3.2.1.1. Về các chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại
Cục xúc tiến thương mại cần phối hợp với thương vụ, đại diện thương mại Việt
Nam tại Hoa Kỳ chủ động hỗ trợ thông tin về thị trường Hoa Kỳ qua việc tổ chức các
cuộc hội thảo trao đổi thông tin về thị trường, hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận với thị
trường Hoa Kỳ, khảo sát thị trường, tham gia hội chợ triển lãm, tiếp xúc doanh

nghiệp…
Đẩy mạnh chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia nhằm hỗ trợ
cho doanh nghiệp các thông tin về thị trường, tư vấn xuất khẩu, đào tạo nâng cao kỹ
năng kinh doanh xuất khẩu, tìm kiếm thị trường tiêu thụ, quảng bá thương hiệu quốc gia
tiến tới lập trung tâm thương mại, giới thiệu sản phẩm dệt may xuất khẩu trong và ngoài
nước, nghiên cứu ứng dụng phát triển thương mại điện tử phục vụ xuất khẩu.
3.2.1.2. Về chính sách hỗ trợ, đổi mới công nghệ ngành dệt may Việt Nam
Nhà nước cần định hướng đầu tư vốn vào ngành dệt may trong thời gian tới như
sau:

×